Thể loại khác Truyện ngắn_ Tạp chí Kiến thức Ngày nay

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi hoi_ls, 24/11/23.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TẠM BIỆT NGÀI HOLLYWOOD

    Truyện ngắn hình sự của John Escott (Anh)
    Đỗ Hài dịch


    CÔ GÁI BÍ ẨN

    Làng Whistler thuộc Canada là một ngôi làng nhỏ xinh xắn tọa lạc trong những ngọn núi giáp ranh phía Bắc Columbia. Tại đây, câu chuyện bắt đầu vào một buổi sáng mùa xuân tươi đẹp.

    Tại một tiệm ăn nhỏ trong làng, những dãy bàn ghế được bài trí theo kiểu lộ thiên, và ngồi cạnh một trong những chiếc bàn ấy là một chàng trai trẻ. Dùng xong cà phê và điểm tâm, anh ngước nhìn lên bầu trời xanh thẳm tiếp nhận những tia nắng ban mai ấm áp sưởi trên khuôn mặt. Nick Lortz, tên của chàng trai, quả là một người hạnh phúc.

    Chợt người bồi bàn bước lại gần Nick - “Thêm cà phê nhé, thưa ông?” - “Ồ vâng, ngon lắm!”. Nick vừa đáp vừa chìa chiếc cốc đựng cà phê cho anh ta.

    Liếc nhìn chiếc camera của Nick đặt trên bàn, anh ta hỏi: - “Ông từ đâu đến vậy, thưa ông? Chắc ông đang nghỉ phép?”. “San Francisco! Nhưng không phải nghỉ mát đâu, tôi đang làm việc. Tôi là phóng viên du lịch; tôi đang viết một cuốn sách nói về những ngọn núi Bắc Mỹ”.

    Cả hai cùng đưa mắt nhìn về phía dãy núi Whistler nằm khuất sau ngôi làng. Dưới ánh nắng ban mai, trông nó vô cùng kỳ mỹ.

    “Chắc ông đã đi du lịch nhiều lắm?” - “Hầu hết thời gian tôi có. Tôi viết sách và viết cho mấy tờ tạp chí du lịch. Tôi viết về mọi đề tài: những đất nước đặc thù, những thành phố, làng mạc, sông, núi, con người...”.

    Chợt người bồi bàn hướng tầm mắt qua đầu Nick, nhìn đăm đăm về phía một cô gái bên kia đường. Anh ta hỏi: - “Ông quen cô ta không?”. Nick quay đầu nhìn lại: “Không, tôi không quen”. “Ồ! Tôi nghĩ cô ta biết ông đấy. Cô ta quan sát ông khá kỹ. Một ngày thú vị đây, ông bạn!”. Anh ta mỉm cười ý nhị rồi cáo lui.

    Nick quay sang ngắm nghía cô gái. Cô ta chừng hai mươi lăm tuổi và cực kỳ xinh đẹp. Nick thầm nghĩ: “Cô ta đang chú ý đến mình đây”. Vừa lúc ấy, cô gái vội đảo mắt về phía cửa kính của một gian hàng, nhưng chỉ một lát sau, nàng lại hướng tia nhìn về phía Nick.

    Nick tiếp tục quan sát cô gái. Nick lại nghĩ: “Cô ta có vẻ băn khoăn lo lắng. Cô ta đang làm gì vậy cà? Hình như đang chờ ai?”

    Đột nhiên, cô gái mỉm cười với Nick. Nàng rảo bước băng qua đường, đến sát chiếc bàn của Nick và thản nhiên ngồi xuống. Nàng tháo chiếc túi du lịch đặt lên bàn, một nửa miệng túi để hở ra: - “Chào anh! Tôi là Jan, anh còn nhớ tôi không? Chúng ta đã gặp nhau trong bữa tiệc ở Toronto ấy mà”. - “Chào Jan” - Nick mỉm cười đáp lại - “Tôi là Nick! Nhưng... chúng ta đâu có gặp nhau trong bữa tiệc nào ở Toronto. Tôi ít khi tham dự tiệc tùng và chưa đến Toronto bao giở cả” - “Ồ!...”. Cô gái thốt lên, nhưng vẫn không rời khỏi vị trí. “Cô dùng cà phê nhé?”.

    Câu chuyện về bữa tiệc ở Toronto hoàn toàn do cô gái tưởng tượng, nhưng với một buổi sáng tuyệt vời, bên cạnh người đẹp quyến rũ thế này thì... Nick ướm lời: “Có thể là một bữa tiệc ở Montréal hoặc New York chăng?”. Cô gái bật cười giòn giã: “Có lẽ thế! Ồ vâng! Cho tôi một tách cà phê”.

    Trong lúc cô gái nhấm nháp cà phê, Nick hỏi: “Cô đang làm gì ở Whistler này? Hay cô sống ở đây?” - “Không! Tôi chỉ du lịch qua đây thôi. Thế còn anh đang làm gi ở đây?” - “Tôi là phóng viên du lịch. Tôi đang viết một cuốn sách về những ngọn núi danh thắng”. - “A! Công việc của anh rất thú vị!”.

    Nhưng nét mặt cô gái lộ vẻ bồn chồn lo lắng, không biểu hiện một chút gì là “thú vị” cả. Nàng lại liếc mắt nhìn sang bên kia đường.

    Một người đàn ông chừng sáu mươi tuổi, cao, gầy với mái tóc trắng cắt ngắn đang rảo bước về phía họ. Cô gái chăm chú nhìn ông ta. - “Cô đang chờ ai thì phải?” - “Không! Tôi có chờ ai đâu”. Nàng đáp nhanh rồi hỏi Nick: “Sắp tới anh sẽ đi đâu?” - “Đến Vancouver, chừng ba hoặc bốn ngày” - “Khi nào anh đi?” - “Sau buổi sáng này”.

    Từ miệng chiếc túi của cô gái đang để trống, Nick nhìn thấy một lá thư và anh có thể đọc được vài dòng chữ. Anh liền đọc nó vì mắt anh chợt bắt gặp một từ: Vancouver. “.. và chúng ta có thể gặp nhau vào chiều thứ sáu tại khách sạn Empress, Victoria Vancouver Island”. Nick thầm nghĩ: “Vậy là cô ta cũng đến Vancouver”.

    Thình lình cô gái hỏi Nick: “Anh có thích điện ảnh không?” - “Phim ấy à? Vâng, tôi rất thích! Nhưng sao cơ?” - Tôi có quen một người. Anh ấy rất mê điện ảnh” - giọng nàng trở nên nhỏ nhẹ - “mọi người gọi anh ấy là ngài Hollywood” - Nàng lại cười duyên vơi Nick. - “Anh cho phép tôi cũng gọi anh là Hollywood nhé?” Nick bật cười ha hả - “Được thôi! Thế tôi phải gọi cô là gì?”. Cô gái lại cười mím chi - “Hãy gọi em là “Cô gái bí ẩn” - “Ồ! Một cái tên rất hợp với cô”.

    Vừa lúc ấy, người đàn ông tóc trắng bước vào quán. Ông ta không ngó ngàng gì đến hai người nhưng lại ngồi xuống một chiếc bàn bên cạnh họ. Ông kêu bồi bàn gọi vài món điểm tâm rồi cúi xuống một tờ tạp chí.

    Cô gái liếc nhanh về phía ông ta rồi vội vã quay sang hướng khác.

    “Cô quen ông ấy à?” - “Không! Tôi không quen”. Nàng vội nốc cạn tách cà phê rồi vụt đứng lên vẻ hấp tấp. “Em phải đi đây”. Nick cũng đứng lên theo. “Cô tử tế...”

    Anh định nói câu gì đó, nhưng rất bất ngờ, cô gái đưa hai tay ôm lấy mặt anh và đặt vào môi anh một nụ hôn nồng cháy. Nàng nói lớn: “Lái xe cẩn thận đấy, anh Hollywood! Tạm biệt nhé!”. Nặng hé nụ cười xinh như đóa hoa hàm tiếu rồi quay lưng hối hả rảo bước.

    Nick ngồi chết trân tại chỗ nhìn theo cô gái. Nàng bước nhanh dọc theo con đường rồi biến mất vào một khách sạn lớn.

    “Thế này là thế quái nào nhỉ? Thật hay là đang mơ đây?”. Nick bàng hoàng tự hỏi.

    Người đàn ông tóc trắng lặng lẽ quan sát Nick và chờ đợi. Chừng bốn, năm phút sau, Nick uống xong cà phê. Anh nhặt những quyển sách, cầm lấy chiếc camera rồi rời khỏi quán. Anh chậm rãi thả bộ dọc theo con đường, hướng về phía chiếc xe của anh đang đậu bên ngoài khách sạn mà cô gái vừa bước vào. Người đàn ông tóc trắng chờ thêm một lát rồi vội vã bám theo sau Nick.

    Từ trên tầng cao của khách sạn, qua khung cửa sổ, cô gái đang dõi mắt nhìn xuống đường. Nàng nhìn thấy Nick và sau lưng anh cách chừng năm mươi bước là người đàn ông tóc trắng. Khi Nick chui vào xe, người tóc trắng băng nhanh qua đường, nơi chiếc xe đỏ của ông ta đang đậu sẵn. Chừng năm giây sau, Nick cho xe rời khỏi vị trí và chiếc xe đỏ bắt đầu bám đuôi theo.

    Tất cả đểu lọt vào tầm quan sát của cô gái. Nàng mỉm cười bí hiểm rồi vội nhét vật gì đó vào chiếc túi du lịch của mình.

    CÚ ĐẨY TỪ PHÍA SAU

    Đêm ấy, trong phòng trọ của khách sạn tại Vancouver, Nick miên man nghĩ ngợi về người con gái ở tiệm ăn Whistler: Tại sao cô ta lại đến ngồi với anh? Cô ta không hề quen biết anh và câu chuyện về bữa tiệc ở Toronto hoàn toàn do cô bịa đặt. Cô ta tỏ ra lo sợ một chuyện gì đó. Nhưng là chuyện gì nhỉ?

    Còn nụ hôn kia nữa! Dĩ nhiên, nó rất tuyệt vời! Nhưng tại sao cô ta lại làm thế? Nick thầm nghĩ: “Có thể cô ta thích khuôn mặt đẹp trai của mình hoặc đôi mắt nâu quyến rũ của mình. Nhưng mình sẽ không gặp lại cô ta. Vậy điều ấy không quan trọng. Hãy quên nó đi!”

    Anh nhét một ít tiền vào túi rồi bước xuống một nhà hàng ở tầng dưới. Không còn chiếc bàn nào trống cả. Anh thả bộ xuống phố Gastown và ăn tối tại một tiệm ăn ở đó. Ăn xong, Nick làm một chuyến bách bộ. Vancouver là một thành phố hiền lành, hiếu khách. Anh muốn dạo qua Gastown và Chinatown để ngắm nghía các cửa hàng và nhìn mọi người qua lại. Trời đã nhập nhoạng tối, và đây là thời điểm náo nhiệt nhất của thành phố về đêm. Người và xe cộ cuộn tràn như những dòng nước lũ.

    Lòng vòng một lúc, Nick ung dung thả từng bước trở về khách sạn. Đến một ngã đường tấp nập xe cộ, anh và một nhóm bộ hành đứng đợi bên lề. Một thiếu phụ cao ráo trong chiếc vay màu xanh da trời đứng cạnh anh. Nàng quay sang Nick mỉm cười - “Một buổi sáng đầu xuân ấm áp, thưa ngài! Sau mùa đông dài giá buốt, trời mới đẹp làm sao!”, “Vâng, trời đẹp lắm! Thưa bà. Trời...”.’

    Nhưng bất thình lình, có một bàn tay nào đó túm lấy lưng anh và đẩy mạnh anh ra lòng đường. Nick ngã sấp xuống trước đầu một chiếc ôtô màu xanh đang lao tới.

    Có tiếng rú hoảng hốt của mọi người.

    Nhưng chiếc xe xanh kịp thắng lại, chỉ cách đầu Nick chừng vài phân. Thiếu phụ áo xanh vội vã băng ra đường. Nàng dìu Nick đứng lên. “Ngài không sao chứ? Chuyện gì xảy ra với ngài vậy?”.

    Gã tài xe lái chiếc xe xanh giận dữ quát vào mặt Nick, nhưng anh không quan tâm. Anh nói với người thiếu phụ: “Có ai đẩy tôi! Không phải tại tôi mà có ai đã đẩy tôi” - “Đẩy ngài ư? Nhưng ai cơ? Tôi không thấy ai cả!”

    Nick đưa mắt quan sát từng khuôn mặt những người bên cạnh, nhưng anh không nhận ra kẻ khả nghi.

    Vừa lúc ấy, Nick chợt thấy dáng một người đàn ông cao, gầy với mái tóc trắng, ông ta rảo bước như chạy dọc con đường và không hề quay đầu nhìn lại. Nick gọi lớn: “Ê, ông bạn! Đợi đã!”. Nhưng ông ta vẫn tiếp tục rảo bước và chẳng mấy chốc mất hút vào đám đông.

    - “Hắn đã xô ngài?” - “Tôi... Tôi không chắc lắm”. “Ngài có biết hắn không?” - “Tôi không biết tên hắn, nhưng tôi nhớ mái tóc trắng. Không biết tôi đã gặp ở đâu ấy nhỉ!”

    Thiếu phụ áo xanh buông Nick ra: “Tôi phải về nhà đây. Bây giờ thì ngài không sao chứ?”. “Vâng, tôi không sao! Cảm ơn bà đã giúp tôi”. Thiếu phụ mỉm cười - “Không có chi, xin ngài hãy cẩn thận!”

    Về khách sạn, Nick buông mình xuống giường. Anh tự nghĩ: “Đó chẳng qua là một tai nạn, không có ai xô đẩy mình cả; chỉ là một tai nạn, không có ai muốn hại mình đâu. Ở Vancouver này có cả hàng trăm gã đàn ông tóc trắng kia mà”.

    Đã một giờ khuya, nhưng Nick không sao ngủ được. Qua khung cửa sổ, anh đưa mắt nhìn ra bầu trời đêm và lắng nghe âm thanh của xe cộ qua lại trên đường. Sau đó, anh đến ngồi bên bàn viết cố viết vài trang cho cuốn sách; nhưng đầu óc anh trống rỗng, không nặn ra được một từ. Chán nản, anh quay về giường ngủ.

    Có mấy tờ tạp chí lá cải, Nick cầm lấy một tờ. Anh ngồi xuống mép giường mở nó ra, và... lạy Chúa! Mắt anh hoa lên khi bắt gặp bức hình của “Cô gái bí ẩn”.

    Anh nhìn trân trối vào bức ảnh kiều diễm ấy. Không nghi ngờ gì nữa, đúng là cô ta: Jan, cô gái mà anh đã gặp ở Whistler.

    Trong ảnh, cô gái đang đứng bên cạnh một người đàn ông khoảng 55 - 60 tuổi, trong vườn hoa của một biệt thự nguy nga, tráng lệ. Họ mỉm cười trước ống kính. Trông họ có vẻ rất hạnh phúc.

    Phía dưới bức ảnh có mấy dòng giới thiệu; “Howard Hutson, triệu phú người Canada và con gái, Meg, tại nhà riêng ở Toronto”.

    Meg Hutson! Không phải Jan, cũng không phải “Cô gái bí ẩn”. Meg Hutson, con gái một nhà triệu phú!

    Nick bàng hoàng tự hỏi: “Tại sao cô ta lại đến ngồi với mình ở tiệm ăn Whistler? Con gái của một triệu phú không thể đi ngồi với những người khách lạ trong những quán ăn để rồi mỗi khi chia tay lại trao cho họ một nụ hôn cháy bỏng! Tại sao cô ta lại làm điều ấy? Cô ta muốn gì đây?”.

    Nick hồi tưởng lại lúc anh và cô gái cùng ngồi ở tiệm ăn Whistler và ngay khi ấy, anh sực nhớ một chi tiết: người đàn ông ngồi ở bàn bên cạnh. Đó là người đàn ông chừng sáu mươi tuổi, cao, gầy, với mái tóc trắng.

    Suốt đêm ấy, Nick không tài nào chợp mắt.

    ĐI DẠO TRONG CÔNG VIÊN

    Nick ngồi lì trong phòng trọ của mình ở khách sạn trọn cả buổi sáng ngày thứ tư để viết về những ngọn núi cho cuốn sách. Đến chiều, anh lái xe thẳng vào công viên Stanley. Ngồi đọc sách chừng một tiếng đồng hồ, anh thả bộ dạo chơi dưới những tàng cây cao rợp mát.

    Nơi đây hoàn toàn yên tĩnh, không một bóng người. Nick vừa đi vừa suy nghĩ. Anh nghĩ về Meg Hutson và người đàn ông tóc trắng. Họ có quen biết nhau không? Anh chợt nhớ những lời nói sau cùng của Meg Hutson: “Lái xe cẩn thận đấy, anh Hollywood!”

    Tại sao cô ta lại nói thế? Sao cô ta lại gọi anh là Hollywood? Anh hoàn toàn không hiểu một chút gì cả.

    Thình lình anh nghe một tiếng nổ. Nick dừng bước. “Đó là tiếng súng hãm thanh” - Nick nghĩ - “Có kẻ nào đó trong lùm cây với khẩu súng”. Lại một tiếng nổ nữa!

    Rồi một vật gì đó đập mạnh vào thân cây ngay phía trên đầu Nick.

    “Có kẻ nào đó đang ngắm bắn mình!” Nick thầm nghĩ. Anh vụt quay lưng bỏ chạy.

    Có bóng ai đó đang đuổi theo anh.

    Nick chạy băng qua những lùm cây rậm rạp. Ở đó, ánh nắng mặt trời không lọt vào được, cảnh vật tranh tối tranh sáng. Không có bóng dáng những du khách vãng lai; không có ai có thể cứu anh cả.

    “Mình phải về được chỗ đậu xe” - Nick nghĩ - “Báo cho ai đó... cảnh sát...” Anh tiếp tục chạy.

    Anh vẫn còn nghe tiếng chân đuổi từ phía sau nên anh cố chạy nhanh hơn. Chừng ba, bốn phút sau, anh dừng lại nghe ngóng.

    Không thấy động tĩnh gì cả. Hoàn toàn vắng lặng.

    Nick hoảng sợ thầm nghĩ: “Đã xảy ra chuyện gì thế này? Tại sao có kẻ nào đó lại bắn mình? Đầu tiên là một bàn tay bí mật đẩy mình ngã trước đầu xe, rồi bây giờ kẻ nào đó lại bắn vào mình!”

    Chờ thêm vài giây nữa, anh rảo bước nhanh về hướng xe anh đang đậu. Rất thận trọng, anh liên tục quan sát và nghe ngóng. Nhưng vẫn không có ai xuất hiện từ phía lùm cây, cũng không có phát súng nào ngắm vào anh nữa. Vừa lúc ấy anh nhìn thấy có bóng người: những người đàn bà và những đứa trẻ; vài cậu bé đang chơi đá bóng; hai người đàn ông dắt chó đi dạo. Anh cảm thấy yên tâm hơn. Anh nghĩ: “Bây giờ thì với sự có mặt của đám đông, không ai dám hãm hại mình nữa”.

    Mười phút sau, anh đã ở bên cạnh chiếc xe của mình.

    Có một lá thư cài trên cửa kính. Anh cầm lên đọc. Thư viết: “Tao sẽ giết mày, Hollywood ạ!”.

    Nick lái xe chạy đến đồn cảnh sát gần đấy. Sau nửa giờ chờ đợi, viên cảnh sát trẻ với dáng điệu mệt mỏi đưa anh vào một căn phòng nhỏ. Nick trình bày toàn bộ câu chuyện vừa xảy ra và viên cảnh sát ghi chép đầy đủ.

    “Vậy ngài sẽ làm gì, thưa ngài?” - Nick hỏi.

    “Không làm gì cả, thưa ông”.

    “Ngài không làm gì? Nhưng có người đã bắn tôi và...”

    “Ông Lortz” - viên cảnh sát hỏi Nick với giọng mệt mỏi - “ông biết có bao nhiêu người có súng trong cái thành phố này không?”

    “Tôi không biết, nhưng...”

    “Ông không nhìn thấy kẻ cướp. Hắn là đàn ông, đàn bà hay một cậu bé? Mắt hắn màu gì? Tóc dài hay ngắn? Ông không biết vì ông không nhìn thấy ai cả. Có thể đó là một cô bồ cũ của ông; cũng có thể một người nào đó không ưa những cuốn sách du lịch của ông, ông Lortz”.

    “Nhưng còn người đàn ông tóc trắng? Ông ta đã nghe cô Meg Hutson gọi tôi là Hollywood, và bây giờ tôi lại có một lá thư gửi cho Hollywood, vậy Hollywood là ai?”

    “Ông Lortz, chúng ta luôn luôn có những câu hỏi, nhưng không phải bao giờ cũng có được những câu trả lời”.

    Có những câu hỏi. Nhưng không có câu trả lời!

    Nick chán nản rời đồn cảnh sát, lái xe trở về khách sạn. Anh vừa bực tức vừa lo sợ. Bao nhiêu câu hỏi đặt ra với Nick: “Làm sao gã tóc trắng lại tìm thấy mình ở Vancouver này? Hắn đã theo dõi mình từ khi ở Whistler chăng? Hiện tại hắn có theo dõi mình không? Có thể hắn cũng đang ở trong khách sạn này, ngay phòng bên cạnh và có cả súng”.

    NGƯỜI ĐÀN ÔNG TÓC TRẮNG

    Nick đậu xe trước khách sạn. Anh quan sát kỹ lưỡng trước khi ra khỏi xe, nhưng không có gã tóc trắng nào lảng vảng gần khu vực này cả.

    Nick băng nhanh qua các lối đi của khách sạn và tiến đến bên quầy tiếp tân. Anh nói với một thiếu phụ phía sau quầy:

    “Tôi cần gặp một người đàn ông tóc trắng, thưa bà. Tôi nghĩ ông ấy đang ở đây. Ông ấy khoảng sáu mươi tuổi, cao và gầy...”

    Thiếu phụ tỏ vẻ thờ ơ, nàng nói:

    “Khách sạn có rất nhiều khách, ông có biết tên ông ấy không?”

    “Tôi không biết, ông ấy là... là bạn của bạn tôi, bà hiểu cho! Tôi cần gặp ông ấy. Chuyện rất hệ trọng, xin bà làm ơn giúp tôi”.

    Thiếu phụ liếc nhìn Nick: “Có ba trăm năm mươi phòng trong khách sạn, và có khoảng ba mươi hoặc bốn mươi người tóc trắng, tôi làm sao nhớ hết tên họ được”.

    Nàng quay sang trả lời điện thoại.

    Nick rời khỏi quầy tiếp tân.

    “Phải uống thôi” - Nick nghĩ - “Mình cần phải uống”.

    Anh bước vào quầy rượu, gọi thức uống và ngồi xuống một chiếc bàn.

    “Ta phải làm gì bây giờ?” Nick tự hỏi.

    Chợt anh sực nhớ lại một điều: lá thư trong chiếc túi du lịch của cô gái lúc ở Whistler: - “... và chúng ta có thể gặp nhau vào chiều thứ sáu tại khách sạn Empress, Victoria, Vancouver Island...”

    Hôm nay đã là thứ năm. Nick quyết định: “Mình phải đến Victoria, đến Vancouver Island và tìm khách sạn Empress”.

    ***

    Đêm ấy, Nick ăn tối tại khách sạn. Ăn xong, anh vừa đứng lên định rời khỏi bàn thì bỗng anh nhìn thấy người - đàn - ông - tóc - trắng!

    Nick phản ứng rất nhanh. Người đàn ông đang đứng tại quầy tiếp tân và anh nhìn thấy mái tóc trắng của ông ta nhô cao giữa đám người.

    “Tôi xin lỗi”. Nick vừa nói vừa xô đẩy để băng qua đám đông. Anh va phải một cậu bé đang chạy phía trước và cả hai cùng ngã lăn xuống sàn. Cậu bé khóc thét lên. Một thiếu phụ phía sau anh hét lên giận dữ.

    “Tôi rất tiếc, tôi xin lỗi, thưa bà!” Nick vừa nói vừa đỡ cậu bé đứng lên. Anh vỗ về cậu bé: “Cháu không sao chứ?” Người đàn bà gắt: “Lần sau nhớ cẩn thận hơn đấy!”

    Nick hối hả rời khỏi vị trí, nhưng khi đến được quầy tiếp tân, anh không còn thấy bóng dáng gã tóc trắng đâu nữa.

    Anh rẽ qua đám đông và hét lên với người thiếu phụ phía sau quầy: “Người đàn ông tóc trắng lúc nãy đã đi đâu?” Thiếu phụ đưa mắt nhìn Nick: “Ngài Vickers ấy à? Tôi không biết”. - “Ông ta tên Vickers à? Ông ta ở phòng số mấy?” . “Tôi rất tiếc, tôi không thể cho ông biết được”. - “Nhưng tôi cần biết, thưa bà...” Nick nài nỉ.

    Thiếu phụ quay sang trả lời điện thoại.

    Vài giây sau, Nick trở về phòng mình. Anh ngẫm nghĩ: “Vickers! Meg Hutson có biết Vickers không nhỉ? Mình cần phải biết vài điều; càng nhanh càng tốt”.

    VANCOUVER ISLAND

    Tsawwsassen cách Vancouver hai mươi ba dặm về phía Nam. Sáng hôm sau, Nick lái xe đến đó để kịp đi chuyến phà chừng một giờ đến Vancouver Island. Trên đường đi, cứ năm phút, anh lại quan sát qua kính chiếu hậu. Đường sá tràn ngập xe cộ đủ màu sắc. Rất có thể trong số xe cộ tấp nập ấy có cả xe của Vickers.

    Đến Tsawwassen, Nick cho xe lên phà.

    Chuyến phà chật ních xe cộ và rất đông hành khách. Nick rời xe. Anh rảo bước lượn mấy vòng trên khắp con thuyền. Anh cố tìm kiếm người đàn ông tóc trắng nhưng không thấy một người nào cả.

    Chẳng bao lâu, phà nhổ neo. Nick cảm thấy yên tâm hơn. Anh tìm một quầy điểm tâm để ăn một chút gì lót dạ. Thực khách vào càng đông và Nick nhìn kỹ từng khuôn mặt của những người đàn ông luống tuổi. Một số người đội nón nên anh chỉ chú ý đến những ai có vóc dáng cao, gầy. Nhưng không có ai cả.

    “Có lẽ hắn không có mặt trên phà” - Nick nghĩ - “Có thể hắn đã ở lại Vancouver”.

    Một lát sau, Nick đảo quanh con thuyền một lần nữa. Có một lần, anh tưởng đã nhìn thấy hắn trong đám đông, nhưng anh đã lầm.

    Sau chín mươi phút rời khỏi Tsawwassen, phà cập bến ở Swartz Bay thuộc Vancouver Island, Nick cho xe rời khỏi bến và tiếp tục cuộc hành trình.

    Swartz Bay cách Victoria hai mươi dặm về phía Bắc. Nick cho xe phóng nhanh và anh vẫn không quên quan sát qua kính chiếu hậu. Có lần, anh chợt nhìn thấy chiếc ôtô màu đỏ bám theo xe anh cách chừng hai trăm bước. Nick thầm hỏi: “Mình có gặp chiếc xe này trên đường từ Vancouver đến Tsawwassen không nhỉ?”

    Nick cho xe chạy chậm lại, nhưng chiếc xe đỏ vẫn giữ khoảng cách, vì vậy anh không thể nhìn rõ khuôn mặt và mái tóc của người cầm lái.

    Chẳng mấy chốc, anh đã vào đến địa phận của Victoria. Những con đường đông nghịt xe cộ của thị trấn này đã nuốt chửng chiếc xe của anh, và anh không còn thấy chiếc xe đỏ bám theo sau nữa.

    Victoria là một thị trấn của những vườn hoa và những tòa biệt thự lộng lẫy cổ kính. Nhưng hôm ấy, Nick không còn lòng dạ nào để thưởng ngoạn vẻ đẹp rực rỡ cua chúng.

    Anh tìm đến khách sạn Empress và bước thẳng lại quầy tiếp tân.

    Một nhân viên trẻ của khách sạn hỏi Nick: “Ông cần gì ạ?” - “Tôi có hẹn một người bạn ở đây vào chiều nay. Cô ấy là Meg Hutson”. - “Hutson à? Xin ông chờ một chút!” Gã nhân viên đi một lát rồi trở lại: “Rất tiếc, cô Hutson không có ở đây, thưa ông”.

    Nick rút trong túi ra tấm ảnh của hai cha con Meg mà anh đã cắt trong tờ tạp chí đưa cho gã nhân viên. Anh nói: “Cô ấy đây”.

    Gã nhân viên nhìn vào bức ảnh. Anh ta reo lên: “A, đúng rồi! ông muốn tìm tiểu thư của ngài Howard Hutson. Cô ấy không có ở đây. Nhưng cách đây mười hoặc mười lăm phút, tôi gặp cô ấy đi với một người đàn ông. Anh ta có hỏi tôi về một phòng trà” - “Phòng trà ư? Ở đâu?”

    Người đàn ông tóc trắng đã quá mỏi mệt. Ông đã bỏ cả ăn uống. Hầu hết thời gian, ông chỉ tập trung suy nghĩ về một vấn đề. Ông đã lái xe, quan sát, chờ đợi và rượt đuổi.

    Nhưng khi đến những đại lộ nghìn nghịt xe cộ ở Victoria, đột nhiên ông vô ý để sổng mất chiếc ôtô xanh mà ông đã cất công theo dõi. Giận dữ, ông lái xe chạy vòng khắp thị trấn, đảo qua hầu hết các khách sạn lớn. Ông tự nhủ: “Ta phải tìm cho ra hắn ngay ngày hôm nay”.

    Vừa lúc ấy, ông nhìn thấy khách sạn Empress và dưới con đường bên ngoài khách sạn là chiếc ô tô màu xanh.

    Ông cho xe qua khỏi khách sạn rồi đậu lại. Ông chui ra khỏi xe, băng qua đường, chạy ngược về hướng khách sạn rồi vòng qua các khung cửa sổ của tầng trệt. Đó là một căn phòng rộng lớn với những dãy bàn ghế và chật ních người ngồi, ông thận trọng quan sát hầu hết từng khuôn mặt của họ.

    Thình lình, ông bật lên tiếng kêu: “Cô ấy kia kìa!”

    Cô gái đang ngồi với hai gã đàn ông. Ông không nhìn rõ mặt, chỉ thấy từ phía sau gáy của họ. Nhưng một trong hai gã đó mặc áo sơ mi màu xanh, ông vừa mỉm cười vừa nói: “Ngài Hollywood! Tạm biệt ngài Hollywood nhé!”. Những người khách qua đường quay lại nhìn ông ta, nhưng ông ta không quan tâm đến họ.

    Ông băng nhanh qua các lối đi tiến vào khách sạn. Ông thọc tay vào túi áo. Ở đó đã có sẵn một khẩu súng rắn đanh, lạnh lẽo.

    BỮA TIỆC TRÀ

    Nick nhìn xuyên qua cửa kính của phòng trà trong khách sạn Empress.

    Meg Hutson cùng ngồi với một gã đàn ông tại một chiếc bàn. Hắn ta chừng ba mươi hoặc có thể trẻ hơn vài ba tuổi. Hắn có vóc người cao lớn khoẻ mạnh với làn da rám nắng. Quần áo, giày dép trên người hắn toàn một màu trắng tinh khôi, sạch sẽ. Hắn thủ thỉ điều gì đó với Meg và nàng bật cười nghiêng ngả. Trông nàng rất vui vẻ, hạnh phúc.

    Người bồi bàn bước lại hỏi Nick: “Tôi đem trà cho ngài nhé?” - “Không, cảm ơn. Tôi có hai người bạn đằng kia”. Anh vừa đáp vừa đi về phía chiếc bàn của Meg.

    “Xin chào cô gái bí ẩn” - Nick nói - “Cô còn nhớ tôi không? Chúng ta đã gặp nhau ở Whistler. Tên cô là Jan, nhưng hôm nay có lẽ là Meg Hutson”.

    Meg Hutson ngẩng đầu lên nhìn Nick, mặt nàng chợt ửng đỏ. Nàng kêu lên: “Ồ!”

    Gã đàn ông liền hỏi Meg: “Anh ta là ai vậy?” - “Đây là Nick, anh ấy là phóng viên; còn đây là Craig Winters...”

    Nick cắt ngang: “Đôi lúc cũng gọi là ngài Hollywood”.

    “Có lẽ thế. Nhưng sao ông biết điều ấy?”

    “Tôi đoán vậy thôi. Tôi nghĩ rằng tôi đang bắt đầu hiểu. Tôi có thể hỏi ông một câu được không, ông Winters? Có kẻ nào đó muốn giết ông, phải không?”

    Craig Winters biến sắc: “Giết tôi ư?”

    Meg cũng hoảng hốt: “Anh định nói gì vậy?”

    Nick đáp chậm rãi: “Trước khi nói cho cô biết, xin cô hãy làm ơn trả lời câu hỏi của tôi: ở Whistler cô đã gọi tôi là Hollywood, và cô muốn cho người đàn ông tóc trắng ngồi bên cạnh nghe thấy, có đúng không?”

    Meg không trả lời ngay, nhưng một lúc sau, nàng đáp giọng lí nhí: “Vâng!” Nick hỏi tiếp: “Tại sao?” - “Tôi muốn ông ta chú ý tới anh và bỏ rơi tôi” - “Nhưng vì sao chứ?” - “Tôi nghĩ ông ta là một thám tử đang làm việc cho ba tôi. Tôi đã nhìn thấy ông ta trước khi rời Toronto. Ông ta đã theo dõi tôi...”

    Meg đặt tay nàng lên cánh tay của Winters rồi nói tiếp: “Ba tôi không ưa Craig. Cách đây một tháng, ông cấm tôi không được gặp lại Craig. Tôi nghĩ là ba tôi biết tôi rất đau khổ và ông cũng đoán biết là tôi sẽ đến gặp Craig. Ông muốn truy tìm Craig để ngăn cản anh ấy, không cho anh ấy gặp tôi”. - “Ngăn cản anh ta hay là giết anh ta?” - “Không đâu! Ba tôi không làm như vậy”. - “Tại Vancouver, người đàn ông tóc trắng đã đẩy tôi ngã trước đầu xe, và cũng chính ông ta đã bắn tôi ở công viên Stanley” - “Anh nói cái gì vậy?”.

    Thình lình Craig chen vào: “Xin hãy nói cho tôi biết về người đàn ông tóc trắng ấy”.

    Nick nhìn thẳng vào mặt anh ta: “Ông ta chừng sáu mươi tuổi, cao và gầy” - “Ông biết tên ông ấy không?” - “Vickers!”

    Đột nhiên Craig Winters biến đổi cả thần sắc. Anh ta lắp bắp: “Ông ấy đã... đã theo ông đến Victoria? Ông ấy có theo ông đến đây không?” - “Tôi không biết”. - Nick vừa đáp vừa quan sát Craig. Anh hỏi tiếp: “Ông có vẻ sợ ông ấy, tại sao vậy? Tại sao ông Vickers lại muốn hãm hại ông, Winters?”

    Craig Winters chưa kịp trả lời câu hỏi thì sắc mặt của Meg đã trở nên trắng bệch. Nàng hét lớn: “Ôi, không! Hãy nhìn đằng kia kìa! Phía cửa kìa!”

    Nick và Winters quay đầu nhìn lại. Người đàn ông tóc trắng đứng ngay ngưỡng cửa của phòng trà. Ông đảo mắt nhìn một lượt khắp gian phòng và cuối cùng đã nhận ra họ. Ông chậm rãi bước về phía chiếc bàn của ba người, tay ông vẫn đặt trong túi áo.

    Khoảng một vài giây, cả ba người ngồi yên không nhúc nhích. Chợt Craig Winters chồm lên. Anh ta vừa đưa tay chỉ về phía Nick vừa la lớn: ‘Thằng Hollywood kia kìa!”

    Người đàn ông tóc trắng rút súng ra khỏi túi áo. Ông quát lớn: “Viên đạn này thay cho lời nói của Anna!”

    Nick phản ứng rất nhanh. Anh co chân đạp cái bàn trà ngã đổ và ngay tức khắc, anh ngã rạp xuống sàn nhà. Viên đạn bay vèo qua đầu anh đồng thời với tiếng la thất thanh của Meg. Cùng lúc ấy Craig Winters cũng rú lên và ôm lấy một cánh tay. Một dòng máu loang đỏ trên chiếc sơ mi trắng của hắn. Có thêm nhiều tiếng kêu cứu của mọi người. Hai gã bồi bàn đã đè được người tóc trắng xuống sàn. Có người nào đó hét to: “Hãy gọi cảnh sát!”.

    TẠI ĐỒN CẢNH SÁT

    7 giờ 30 tối, tại đồn cảnh sát, Nick và Meg cùng ở trong một căn phòng. Người đàn ông tên Vickers, một bác sĩ và ba thám tử ở một căn phòng khác.

    Cửa mở, một thám tử bước vào với hai tách cà phê. Ông ta đặt cà phê xuống bàn rồi bước ra ngoài. Meg gọi với theo: “Ngài Edmons! Gọi đến bệnh viện được không? Craig ổn chứ?” - “Winters ấy à? Vâng, ông ây sẽ ổn thôi”. - “Tôi liên lạc với bệnh viện bây giờ được không?” - “Tôi mong cô hãy chờ đợi. Một lát nữa ngài thám tử Keat sẽ đến đây. Ngài ấy đang trên đường từ phi trường đến... A! Ngài đã đến rồi!”.

    Thám tử Keat bước vào phòng và theo sau ông là một người đàn ông cao lớn với mái tóc màu nâu sẫm.

    Meg vụt đứng dậy, nàng kêu lên: “Ba! Ba đang làm gì ở đây vậy?” - “Cảnh sát đã gọi ba” - Howard Hutson đáp - “Và ba liền bay đến đây. Thám tử Keat đã đón ba ở sân bay. Bây giờ con hãy ngồi xuống. Meg, ba muốn con hãy lắng nghe những gì ba nói đây”.

    Meg ngôi yên và ba nàng nhẹ nhàng cầm lấy đôi tay nàng:

    “Meg, tuần trước Johnnie Vickers đã đến nhà ta. Ông ấy muốn tâm sự về chuyện cô con gái cưng của ông ấy. Con còn nhớ cô Anna không? Cách đây ba tháng, cô ấy đã lao đầu tự vận từ trên một chiếc cầu ở Boston. Cô ấy còn trẻ, đẹp và giàu có. Thế nhưng cô ấy không muốn sống nữa. Con có biết tại sao không? Chỉ vì một gã đàn ông đấy! Hắn ta đã cuỗm hết tiền rồi bỏ rơi cô ấy. Tên hắn ta là...”

    Meg bỗng hét lên: “Không! Không!” - “Phải! Meg, tên hắn là Hollywood!” - “Ôi, không!” Meg lại gào lên, giọng nàng chợt như nghẹn ngào.

    “Đúng đấy cô Hutson ạ!” - Thám tự Keat nhẹ nhàng chen vào: - “Với cô, hắn xưng là Craig Winters, khi Anna quen hắn, hắn là Carl Windser. Nhưng hắn thích tất cả những cô gái gọi hắn là Hollywood. Hắn đã chôm của Anna Vickers gần năm mươi ngàn đôla và việc ấy cũng xảy ra với một cô gái trước...”

    Meg lại gào lên: “Không đúng sự thật!”

    “Đó là sự thật, Meg!” - Ba nàng tiếp lời: “Winters hoặc Windser gì đó đã kiếm được khá tiền từ những cô gái con nhà giàu có. Johnnie Vickers rất yêu con gái của mình nên sau khi cô ấy chết, ông đã đến nhà riêng của cô ấy ở Boston, ông đã đọc tất cả thư từ, nên đã biết chuyện tiền nong và cái tên Hollywood. Khi ông ấy đến nhà mình, ba đã nói với ông ấy về con. Meg, ba cho ông ấy biết, con vừa quen một bạn trai tên Hollywood. Ba bảo với ông ấy là ba không ưa hắn, nhưng ba không thể ngăn cản con. Ba cũng cho ông ấy biết là tuần tới con sẽ đi gặp hắn, vậy ba phải làm gì. Johnnie đã nói với ba: “Đừng lo cho con gái của ngài, tôi sẽ đi tìm hắn và ngăn cản hắn”.

    Meg ngồi yên như pho tượng, mặt nàng càng lúc càng tái nhợt hẳn ra. Trong chừng vài phút, không một ai nói lời nào cả. Chợt thám tử Edmonds lên tiếng: “Ngài Vickers đã nói với chúng tôi tất cả mọi chuyện, cô Hutson ạ. Ngài ấy đã theo cô đến Whistler và đã nhìn thấy cô cùng với...”

    Nick bắt đầu hiểu, anh tiếp lời: “... với tôi, trong tiệm ăn và đã nghe cô Meg gọi tôi là Hollywood!”

    Howard Hutson nhìn sang Nick, ông ta hỏi: “Ông chính là ngài phóng viên du lịch ấy phải không?”

    “Vâng! Lortz, NickLortz. Ngài Vickers suýt nữa đã giết tôi. Ông ấy đã hai lần bắn vào tôi, và...”

    Nhưng Howard Hutson không mấy quan tâm đến Nick. Ông quay sang cô con gái: “Con đã cho hắn bao nhiêu tiền, Meg?” - “Con... con đã đưa cho anh ấy hai mươi lăm ngàn đôla chỉ trong vòng hai hoặc ba tháng gì đó. Anh ấy yêu cầu. Rồi anh ấy...” Và nàng lại bật khóc nức nở.

    Hutson nói giọng giận dữ: “Được rồi! Con có thể nói lời chia tay với số tiền ấy đi!”

    Nick hỏi thám tử Edmonds: “Vickers sẽ ra sao, thưa ngài?” - “Phải vào bệnh viện thôi, tôi nghĩ vậy. Ông ấy đã bắn ông và mọi người đều nhìn thấy. Nhưng ông ấy tinh thần bất ổn, các bác sĩ sẽ đưa ông ấy vào bệnh viện”

    Howard Hutson đứng dậy - “Được rồi, Meg! Ba sẽ đưa con về nhà. Máy bay đang đợi chúng ta ở phi trường”.

    Meg theo ba ra cửa, chợt nhớ đến Nick, nàng quay lại: “Tôi xin lỗi! Tôi đã đẩy anh vào tất cả chuyện này. Tôi đã gọi anh là Hollywood. Thật tồi tệ! Nhưng tôi không biết rằng...”

    Nick ngắt lời: “Bây giờ thì cô đã hiểu hết mọi chuyện. Điều ấy rất tốt để có được một bài học với giá chót là năm mươi ngàn đôla!”

    NỤ CƯỜI QUYẾN RŨ

    Tối hôm ấy, Nick theo chuyến phà đêm để trở lại Vancouver. Vừa mệt vừa đói lả, anh chui vào một nhà hàng gọi vài món ăn tối. Nhà ăn chật ních thực khách, chỉ còn độc nhất một chiếc bàn trống. Nick vội vàng ngồi xuống và bắt đầu ăn. Vừa ăn, anh vừa tự nhủ: “Ngày mai, mình phải trở lại công việc của mình. Hãy quên hết đi những gã đàn ông có súng và các cô gái con nhà triệu phú”.

    “Xin lỗi ông...” - Có tiếng nói nhẹ nhàng trong trẻo - “Em có thể ngồi đây với ông được không ạ?”

    Nick ngẩng đầu lên. Một cô gái cực kỳ xinh đẹp đang đứng khép nép kề bên chiếc bàn của anh. Anh liền đứng dậy: “Ồ, được! ...Được! Cô cứ ngồi đây, Tôi... tôi không cần nó lắm”.

    Nick dợm bước đi nơi khác. Cô gái khẩn khoản: “Xin ông đừng đi! Hãy dùng xong bữa tối của ông đã!”

    Cô gái mỉm cười với Nick. Một nụ cười quyến rũ, mê hồn suýt nữa đã khuynh đảo tâm hồn anh.

    Nhưng Nick đã quá hiểu những nụ cười chết người kiểu ấy. Anh vội đáp: - “Không! Tôi không đói lắm!”

    Anh bước nhanh ra khỏi nhà hàng như một kẻ trốn chạy.


    HẾT
     
    meetdak, amylee, tducchau and 2 others like this.
  2. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    UNNIKATHA

    Tác giả: M.Mukunđan
    Ngọc Quỳnh dịch từ bản tiếng Anh của K.M Sherrif và Neerada Wuresh



    “Unni”, Mutthashi gọi, “Kể một câu chuyện cho ta nghe nào”.

    Mutthashi vừa nhai trầu xong sau bữa cơm thanh đạm. Già cảm thấy rất dễ chịu. Bây giờ già đang chờ Unni. Chỉ có những câu chuyện của Unni mói có thể giúp già đi vào giấc ngủ. Già ngó qua cánh cửa mở rộng gọi to: “Đến đây nào, Unni”. Già nôn nóng muốn nghe câu chuyện của thằng bé lắm rồi.

    “Unni đang làm bài tập”, mẹ cậu bé gắt. Các lớp học ở trường của Unni đang trong giai đoạn rất căng thẳng. Cậu bé đang học lớp hai.

    “Chỉ một câu chuyện nhỏ thôi mà, Unni” - Mutthashi nài nỉ. “Một unnikatha thôi mà”. Già đang ngồi trên một chiếc võng, lưng già tựa vào tường, đôi chân già duỗi ra trước mặt. Căn phòng đỏ ửng dưới ánh sáng yếu ớt của một bóng đèn nóng rực.

    “Mẹ a, lúc nào Unni cũng kể chuyện cho mẹ nghe được sao? Bây giờ nó phải làm bài tập ở nhà”.

    “Chỉ lần cuối cùng này nữa thôi mà, con gái”.

    “Chẳng phải hôm qua mẹ cũng nói vậy sao?”

    Mutthashi cụp mắt xuống với vẻ biết lỗi. Già đã già lắm rồi, thân hình già teo quắt và co dúm lại như một đứa trẻ. Trái tim mẹ của Unni chùng xuống.

    “Unni, kể cho bà nghe một câu chuyện đi. Sau khi con đã dỗ được bà ngủ thì con có thể quay lại làm bài tập”.

    Unni tha thiết cầu trời cho bà của cậu cảm thấy buồn ngủ thật nhanh. Đã hơn chín giờ rưỡi rồi còn gì.

    Gương mặt Mutthashi rạng rỡ khi Unni bước vào và ngồi xuống cạnh già. Già không thể nào ngủ được nếu không có một câu chuyện. Nó đã trở thành một thói quen của già rồi. Một thói quen xấu. Nhưng già không thể làm gì được với nó cả.

    “Bà thích chuyện gì nào?”

    “Một câu chuyện thật hay”, Mutthashi háo hức, “một câu chuyện có thể làm ta ngủ”.

    “Thế cháu kể câu chuyện về cái cây thủy tinh nhé?”

    “Ừm”.

    Xích lại gần Mutthashi, Unni nhìn chằm chằm vào bức tường trước mặt cậu. Đó là một bức tường trắng trơ trụi. Không có những bức ảnh được đóng khung. Cũng không có cả những vật trang trí đẹp đẽ hay lạ lùng. Hình ảnh đầu tiên xuất hiện trên tường là một người đàn ông lùn và mập với đôi khuyên tai dày cộp bằng vàng. Những chiếc nhẫn trên các ngón tay ngắn ngủn mập ú của ông ta cũng bằng vàng. “Hãy nhìn xem!” Unni nói, “đó là Kuruman Panikkan đó”. Một chiếc kiệu đi ngang qua bức tường trơ trụi. Kuruman nằm trên đó với một chiếc quạt trong tay. Xung quanh ông ta là một đoàn tùy tùng gồm những kẻ theo hầu và một người mang đèn. Ánh sáng của chiếc đèn lồng hắt xuống trước kiệu thành một vệt vàng vàng nhạt nhoà.

    “Unni, Kuruman Panikkan đi đâu vậy?”

    “Đi cầu nguyện. Ở đền Champaka-kaavu”

    Trên bức tường trắng trống không hiện ra mờ mờ một cây champaka rất to, những tán lá xum xuê của nó che khuất những cành cây xương xẩu. Cái cây trĩu nặng những bông hoa đang tỏa hương thơm ngát.

    Những người hầu của Kuruman nhẹ nhàng đặt chiếc kiệu xuống trước mặt cái cây. Kuruman Panikkan bước xuống kiệu. Một người hầu đón lấy chiếc quạt trong tay ông ta và đặt nó lại vào trong kiệu. Một làn gió nhẹ của buổi sớm mai lay động những cành lá. Kuruman luôn luôn mang theo một cái quạt, bất kể ông ta đi đâu - thậm chí khi trời mưa.

    Panikkan đứng chắp tay cầu nguyện trước một tượng thần bằng đá bóng loáng ngồi dưới gốc cây champaka xám xịt. Ánh sáng từ một cái đèn dầu cổ xưa nặng nề hắt xuống những chiếc rễ cây già cỗi, gân guốc.

    “Unni”, Mutthashi nói, “ai vậy”?

    Một người đàn ông ăn mặc đẹp đẽ hiện lên trên bức tường trắng. Anh ta mặc một chiếc áo sơ mi. Mái tóc cắt ngắn của anh ta trông thật kỳ lạ ở cái vùng đất mà mọi người đàn ông đều để tóc dài và vấn trong một chiếc khăn kuduma.

    “Đó là Melkkoran”, Unni nói. “Anh ta xây các nhà thờ và đền thờ”.

    Melkkoran đi về phía Kuruman Panikkan và cúi chào, đôi tay anh ta chắp lại cung kính.

    Bầu trời phương Đông đang trở nên tái nhợt.

    “Anh là ai?”

    “Tôi đến từ phương Tây. Tôi là một thợ xây. Melkkoran là tên tôi”.

    “Thế anh muốn gì?”

    “Công việc”.

    Panikkan liếc người quản gia của mình. Trong ánh sáng của ngọn đèn lồng, ông ta có thể thấy người quản gia lắc đầu.

    Có tiếng xào xạc trong vòm lá của cây champaka. Đó là karadan chathans, những chú chim với những đôi cánh nhiều màu sặc sỡ đang trở mình trong giấc ngủ. Trong những chiếc tổ bằng cỏ khô của chúng có những cái trứng sắp nở.

    “Melkkoran, ở đây không có việc gì cho anh cả”, Panikkan nói, “hãy đi mà hỏi những tỉnh khác xem”.

    “Ở ngay đây cũng có việc mà”, Melkkoran nói. Anh ta cung kính cúi chào lần nữa.

    Panikkan bối rối nhìn người quản gia lần nữa.

    “Hãy nhìn cái cây này xem”, Melkkoran tiếp tục, “nó đã già cỗi và yếu lắm rồi. Không bao lâu nữa nó sẽ không thể che bóng cho vị thần của đền được nữa. Hãy để tôi kéo ngã nó và xây một cái cây mới ở đây”.

    “Có thể làm được điều đó à?”

    “Tôi có thể xây một cái cây không bao giờ già cỗi và không bao giờ rụng lá”.

    “Có một cái cây như thế thật à, Melkkoran?”

    “Đúng vậy, ở phương Tây”.

    “Được lắm,” Kuruman Panikkan nói, “vậy thì chúng ta cũng sẽ có một cái cây như vậy ở đây. Hãy bắt đầu công việc của anh ngay đi!”

    Melkkoran cúi chào thật thấp, thấp đến nỗi đầu anh ta gần như chạm đất. Rồi anh ta kính cẩn rút lui và biến mất vào bóng tối.

    Kuruman bước vào kiệu. Một người hầu trao cho ông ta chiếc quạt. Rồi người mang đòn đi trước, những người hầu đi sau, chiếc kiệu của Kuruman được khiêng trở về biệt thự của ông ta.

    Bình minh hé sáng. Ngọn cây tỏa ra những tia sáng yếu ớt. Dầu trong cái đèn cổ đã cạn.

    “Unni, thế họ có đốn cây champaka không?” Mutthashi lo lắng.

    Họ nghe tiếng cây đổ.

    Sau khi đốn ngã cái cây champaka đã già cỗi như trái đất này, Melkkoran mệt nhoài đặt cái rìu xuống và ngồi nghỉ trên một tảng đá. Những chú chim đang đi kiếm mồi nghe tiếng cây đổ hối hả bay về. Chúng không còn tìm thấy những chú chim non mới nở và những cái trứng của chúng nữa. Chúng kêu quang quác và bay liệng vòng vòng bất lực. Melkkoran cố găng xua chúng đi. Anh ta ném những nắm sỏi vào chúng. Nhưng chúng vẫn bay lòng vòng trên cái cây đổ thật lâu.

    “Buồn quá, Unni, thật buồn quá”, Mutthashi thì thầm.

    Unni tiếp tục.

    Trên tường, hình dáng Melkkoran lại hiện ra. Anh ta bây giờ đang bị việc xây một cái cây mới ám ảnh. Xung quanh anh ta là những vỏ dừa rỗng mà anh ta đã ném đi sau khi đã uống hết thứ nước ngọt ngào, mát lạnh của chúng. Chốc chốc, Kuruman Panikkan lại đến trong chiếc kiệu, quạt trong tay, để xem Melkkoran khéo léo đục đẽo trên một khúc gỗ - thủy tinh dễ dàng như một người cắt một thân dừa non. Panikkan hoàn toàn bị mê hoặc. Những mảnh vỡ của thủy tinh rơi ra thành đống trước đền champaka. Những đứa trẻ con rách rưới đen trũi nhặt những mảnh thủy tinh vỡ lấp lánh để chơi và thủy tinh đã cắt những ngón tay của lũ trẻ.

    “Ôi, Unni, chúng có bị chảy máu không?” Mutthashi kêu lên.

    Đầu tiên, Melkkoran chạm trổ những cái rễ và thân cây. Rồi tới những cành cây. Chỉ có những chiếc lá và hoa là chưa có. Anh ta cần có thủy tinh xanh để làm lá và thủy tinh trắng để làm hoa.

    Mutthashi nhìn chằm chằm vào cái cây trơ trụi.

    “Unni, con sẽ không làm kịp bài tập đấy”. Mẹ cậu bé gọi vọng vào. “Hơn mười giờ rồi đấy”.

    “Con sắp kể xong rồi mẹ”.

    “Nhanh lên, con trai”.

    Gương mặt Mutthashi xịu xuống khi già nghe là câu chuyện sắp kết thúc. Giấc ngủ vẫn còn ở xa lắm. Đêm chưa khuya mà. “Unni”, già thì thào vào tai Unni, “đừng vội”. Unni kể chậm lại.

    Melkkoran mất một thời gian dài để tạc những chiếc lá và hoa. Anh ta gọt giũa từng chiếc lá và mỗi bông hoa một cách cần cù. Kuruman Panikkan quan sát Melkkoran làm việc, chiếc quạt trong tay. Những đứa trẻ con rách rưới lảng vảng xung quanh, lén lấy những mảnh thủy tinh vỡ và thủy tinh lại làm đứt tay chúng.

    “Cuối cùng”, Unni nói, “sau một năm rưỡi, cây được xây xong”.

    Kuruman Panikkan đứng mê mẩn trước cây thủy tinh tuyệt đẹp. Vẻ trong suốt của nó nổi bật trong ánh sáng rực rỡ của buổi bình minh và ánh hồng của buổi hoàng hôn. Những chiếc lá thủy tinh xanh và những bông hoa thủy tinh trắng lấp lánh trong ánh mặt trời. Du khách từ khắp xa gần đổ xô đến để xem cái cây thủy tinh kỳ lạ. Chỉ có Kuruman Panikkan là có thể có một cái cây như vậy. Nó là niềm kiêu hãnh của Kuruman.

    Panikkan tặng thưởng cho Melkkoran rất nhiều món quà vô giá.

    Không có gì có thể sánh được với cái cây thủy tinh về vẻ đẹp, chỉ có điều là những bông hoa của nó không có hương thơm ngát. Có những chiếc tổ chim lộng lẫy trên những cành cây của nó, nhưng không có chú chim nào với đôi cánh nhiều màu sặc sỡ đến đó để nghỉ ngơi.

    Và thế là câu chuyện của Unni đã kết thúc. Cậu bé nhìn xuống.

    Mutthashi đã dựa hẳn vào tường, già ngủ ngon lành. ★




    --------------------------------------------------------------------------------------------------

    - Unni: tên thân mật thường dùng để gọi những cậu bé, cũng có nghĩa là bé. Vì vậy, câu chuyện của Unni được gọi là một “Unnikatha” với nhiều ý nghĩa. Sự châm biếm đặc biệt được thể hiện trong câu chuyện này là sự tương tự giữa chữ Unnikatha và Mutthashikatha (nghĩa là chuyện kể của bà).

    - Panikkan: một người thợ thủ công - ở đây có nghĩa là người đứng đầu thợ thủ công trong vùng.

    - Champaka-kaavu: một ngôi đền champaka, thường là một ngôi đền nhỏ, mộc mạc, hay một miếu thờ.
     
    meetdak, amylee, tducchau and 3 others like this.
  3. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    PHÉP LẠ

    Truyện ngắn của Tewfik al Hakim (Ai Cập)
    Phạm Vũ Lửa Hạ dịch


    Đức cha dậy sớm như thường lệ, chỉ dậy sau mỗi bầy chim trong tổ, và bắt đầu đọc kinh, dâng lời cầu nguyện, và phụng sự cho giáo phận ở vùng đất miền đông mà tại đó ông là ánh sáng tinh thần, được các tu sĩ nể trọng và được dân chúng tôn kính. Trước cửa nhà ông có một cây chà là nhỏ do chính tay ông trồng; ông luôn tưới cây trước lúc mặt trời mọc, đồng thời ngắm nhìn mặt trời khi vành mặt trời đỏ như trái chà là xuyên thủng chân trời nhô lên rọi những tia sáng lên những chiếc lá đẫm sương, bao bọc những giọt nước lấp lánh như bạc sắp rơi xuống bằng những lọn nắng vàng óng.

    Sáng hôm ấy, vừa tưới cây xong và sắp sửa trở vào nhà thì đức cha thấy đứng trước mặt mình là một đám người mặt mày buồn bã và lo âu. Một người trong bọn thu hết can đảm nói với ông bằng giọng cầu khẩn:

    “Thưa đức cha, hãy cứu chúng con! Ngoài cha ra chẳng có ai có thể cứu chúng con! Vợ con đang trên giường hấp hối, muốn được cha ban phúc trước khi trút hơi thở cuối cùng.”

    “Vợ con đang ở đâu?”

    “Không còn thời gian nữa!” họ đồng thanh lên tiếng. “Bà ấy sắp chết. Có thể lúc ta về đến gặp bà ấy thì đã quá trễ. Xin cha hãy đi với chúng con ngay nếu cha đúng là ân nhân của chúng con và là đấng cứu rỗi nhân từ của người đàn bà đang hấp hối. Làng cách đây không xa lắm và chúng ta sẽ đến đó và quay về trước khi mặt trời lên tới đỉnh vào giấc trưa.”

    “À, thế thì ta đi ngay thôi !” Đức cha đồng ý rất nhiệt thành. Đức cha tiến về phía hai con lừa, và đám người bước theo cha. Cha leo lên một con, còn người chồng của người đàn bà đang hấp hối leo lên con kia và họ lên đường.

    Mấy giờ liền hai chú lừa liên tục gõ móng trên con đường đất trong khi đức cha luôn mồm hỏi họ đi về đâu, còn bọn họ vừa quất roi giục lừa vừa đáp “Chúng ta sắp đến nơi rồi!”. Mãi đến trưa ngôi làng mới hiện ra trong tầm mắt. Họ tiến vào làng trong sự nghênh tiếp của bầy chó sủa vang và đám đông dân làng hồ hởi. Cả đoàn tiến về đình làng. Họ đưa đức cha đến một căn phòng lớn, tại đó cha thấy một người đàn bà nằm dài trên giường, mắt nhìn trừng trừng lên trên trần nhà. Cha gọi bà, nhưng bà chẳng đáp lại, vì bà đang ngấp nghé ở ngưỡng cửa của tử thần. Cha bèn bắt đầu cầu nguyện, ban phúc cho bà, và ngay khi cha vừa dứt lời thì bà chợt buông ra một tiếng thở dài thật lớn rồi lại khóc thổn thức, vì thế đức cha tưởng bà sắp sửa về với Chúa.

    Thay vì thế, mí mắt bà bật mở, mắt bà bỗng nhìn rõ, bà trở mình và thì thầm hỏi:

    “Tôi đang ở đâu?”

    “Con đang ở nhà con,” đức cha ngạc nhiên trả lời.

    “Cho tôi miếng nước uống.”

    “Mang ấm nước tới đây!” Những người bà con đứng quanh bà kêu lên. “Mang bình nước tới đây!”

    Có người vội chạy đi rồi mang lại một vại nước, và bà uống một ngụm rõ dài. Rồi bà ợ hơi một tiếng rõ to và hỏi:

    “Có đồ ăn không? Tôi đói quá!”

    Mọi người trong nhà bắt đầu mang đồ ăn đến cho bà. Trước ánh mắt sửng sốt của những người xung quanh, bà bắt đầu ngấu nghiến hết thức ăn; rồi bà bước xuống khỏi giường và đi quanh nhà trong tư thế hoàn toàn khoẻ mạnh như xưa. Đến đây mọi người phủ phục trước đức cha, hôn hết tay rồi lại hôn đến chân của đức cha, và kêu lên: “Thưa đức cha nhân từ! Phúc lành của cha đã đến với ngôi nhà này và đưa bà ấy từ cõi chết trở về. Chúng con biết làm gì để bày tỏ ngàn vạn lời cảm ơn mà chúng con nợ cha, để thể hiện lòng biết ơn của chúng con đối với cha?”

    “Ta đâu có làm gì để đáng được thưởng hay cảm ơn,” đức cha đáp, lòng vẫn bối rối chưa hiểu chuyện vừa xảy ra. “Chính sức mạnh của Chúa đã làm nên điều ấy.”

    “Cha muốn gọi là gì cũng được,” ông chủ nhà lên tiếng. “Dù gì đi nữa đó cũng là một phép lạ mà Chúa muốn được thực hiện qua đôi bàn tay của cha, thưa đức cha nhân từ. Cha đã hạ cố quá bước đến tệ xá của chúng con, và điều này vừa mang lại vinh dự lớn lao vừa đem đến may mắn cho chúng con. Cha phải để cho chúng con thực hiện bổn phận bày tỏ lòng hiếu khách theo cách mà hoàn cảnh của chúng con cho phép.”

    Ông ta ra lệnh dọn một căn phòng yên tĩnh cho vị khách quý, rồi mời đức cha vào nghỉ ở đó. Mỗi khi đức cha lên tiếng đòi về thì ông chủ nhà lại thề thốt bằng những lời lẽ thiêng liêng nhất rằng ông sẽ không để cho vị khách mang điềm lành của ông ra đi nếu chưa lưu lại được ba ngày - thời gian tối thiểu thể hiện lòng hiếu khách dành cho một người đã cứu sống vợ ông. Khi thời hạn bày tỏ lòng hiếu khách chấm dứt, ông đóng yên một con lừa và chất đầy những quà là quà, nào là bánh mì làm tại nhà, nào là đậu đinh lăng cùng với gà; ngoài ra ông còn nhét vào tay đức cha năm bảng trích từ quỹ của nhà thờ. Ông vừa đưa đức cha ra cửa và giúp cha leo lên mình lừa thì xuất hiện một người đàn ông thở hổn hà hổn hển, quỳ xuống bên cạnh đức cha.

    “Thưa đức cha,” anh ta van nài, “chuyện về phép lạ của đức cha đã lan đến mọi làng quanh đây. Con có một ông chú mà con coi như cha ruột của mình, và chú ấy sắp chết. Chú con hy vọng được cha ban phúc lành, vậy con cầu xin cha đừng để linh hồn chú con rời khỏi chú con trước khi chú con được toại nguyện!”

    “Nhưng con à, ta đã chuẩn bị xong xuôi để về nhà,” đức cha đáp.

    “Chuyện này không mất nhiều thời gian đâu - con sẽ không để cha đi chừng nào cha chưa đi với con đến gặp chú con.” Nói đoạn, anh ta nắm lấy cương lừa và dẫn đức cha đi.

    “Thế chú con ở đâu?” Đức cha hỏi.

    “Rất gần đây - chỉ đi vài phút là đến.”

    Đức cha chẳng biết gì hơn ngoài việc đành phải chấp thuận. Họ đi một tiếng đồng hồ mới đến ngôi làng kế tiếp, ở đấy đức cha thấy một ngôi nhà giống ngôi nhà lần trước với một người đàn ông hấp hối đang nằm trên giường, cả gia đình vây quanh ông, dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Đức cha vừa tiến đến và ban phúc lành cho bệnh nhân xong thì ngậy lập tức phép lạ đã diễn ra; người đàn ông đang hấp hối đứng vọt dậy đòi đồ ăn thức uống. Kinh ngạc trước cảnh tượng vừa diễn ra, mọi người hết lời thề thốt là họ phải thực hiện bổn phận tỏ lòng hiếu khách đối với vị đức cha linh thiêng này - giữ ông lưu lại ba ngày.

    Thời gian tiếp đãi khách quý cũng đã hết, trong suốt thời gian đó đức cha luôn được trọng vọng và săn sóc ân cần. Sau đó, khi họ đưa đức cha ra đến cổng làng trên con lừa chất đầy quà, một người đàn ông từ ngôi làng thứ ba xuất hiện và khẩn thiết mời ông ghé đến thăm làng mình, dù chỉ một lát ngắn ngủi, và cho làng mình được hưởng phúc lành của một người có tiếng thơm bay khắp vùng.

    Đức cha không thể né tránh được người đàn ông này, vì ông ta ngay lập tức nắm dây dắt lừa đi và đưa đức cha đến một ngôi nhà trong làng ông ta. Ở đó họ thấy một thanh niên bị liệt chân; đức cha vừa chạm tay chàng thanh niên thì lập tức anh ta đứng thẳng dậy trên đôi chân của mình, trong tiếng hò reo vui mừng của toàn thể nam phụ lão ấu. Tất cả mọi người đều thề thốt là phải bày tỏ lòng hiếu khách dành cho người đã tạo ra phép lạ, và họ đã làm đâu ra đó đúng ba đêm không kém; hệt như những người khác đã làm. Hết thời gian ấy, họ mang đến cho vị khách quý nhiều quà cáp, khiến cho số quà của đức cha đã nhiều lại càng nhiều hơn, cho đến khi con lừa của đức cha như muốn quỵ ngã vì sức nặng của chúng. Họ cũng biếu ông số tiền hậu hĩ hơn số ông đã nhận được ở mấy làng trước đó, để đến nay ông đã thu được gần hai mươi bảng. Ông bỏ tiền vào ví rồi giấu dưới áo. Đoạn, ông leo lên con lừa và nhờ những vị chủ nhà hộ tống đưa ông về đến làng của mình, vì thế họ lên đường cùng ông, cả bọn đi theo sau con lừa của ông.

    “Tấm lòng chúng con luôn theo cha, chúng con đem mạng sống ra bảo vệ cho cha.” Họ nói. “Chúng con sẽ không rời cha chừng nào chúng con chưa đưa cha về với người của cha: đối với chúng con, cha quý như vàng.”

    “Ta gây phiền hà cho các con,” đức cha nói, “nhưng con đường này không an toàn, và như các con đã biết, các băng đảng hoành hành khắp nơi.”

    “Dạ, đúng vậy,” họ đáp, “ở quanh đây bọn chúng bắt cóc người ta ngay giữa ban ngày ban mặt.”

    “Ngay cả chính quyền cũng không có khả năng tiêu diệt tội ác lan tràn này,” đức cha nói. “Ta nghe kể bọn bắt cóc chặn xe buýt trên đường quê, đưa mắt dò xét các hành khách, và bắt đi bất cứ ai trông có vẻ giàu có để sau đó chúng có thể đòi thân nhân nộp khoản tiền chuộc thật lớn. Đôi khi chuyện đó xảy ra ngay cả với các nhân viên an ninh có mặt trên xe. Ta nghe kể có lần một chiếc xe buýt bị bọn cướp chặn lại, trong số các hành khách có hai viên cảnh sát. Khi người khách bị bọn chúng chọn ra kêu cứu với hai viên cảnh sát, hai viên cảnh sát đó sợ bọn cướp đến nỗi họ chỉ nói được với người bị bắt cóc thế này: “Mặc xác anh - nào, chúng ta đi thôi!”’

    Cả bọn cười vang và nói với đức cha: “Xin cha đừng sợ! Chừng nào cha còn ở cạnh chúng con, cha chỉ xuống lừa chỉ khi nào cha về đến làng mình an toàn.”

    “Ta biết các con rất can đảm! Các con khiến ta rất cảm kích vì đã tiếp đãi ta rất trang trọng và hào phóng!”

    “Xin cha đừng nói thế - cha rất quý giá đối với chúng con!” Họ tiếp tục đi theo sau đức cha, hết lời ca ngợi đức hạnh của đức cha, và kể lại chi tiết những phép lạ của đức cha. Đức cha lắng nghe từng lời của họ, và suy gẫm về chuyện đã xảy ra. Cuối cùng, đức cha thốt lên: “Đúng thật, những chuyện xảy đến với ta trong mấy ngày qua quả là phi thường! Liệu có phải những phép lạ ấy chỉ là những lần ta ban phúc lành?”

    “Thế cha nghi ngờ về chuyện đó à?”

    “Ta không phải là một nhà tiên tri để có thể làm được tất cả những điều kỳ diệu ấy trong chín ngày! Thật ra chính các con đã khiến ta tạo nên những phép lạ đó!”

    “Chúng con à?” Họ đồng thanh hỏi. “Cha nói thế là ý gì?”

    “Phải, các con là nguyên nhân chính.”

    “Ai nói với cha như thế?” Họ thầm thì hỏi, liếc mắt nhìn nhau.

    “Chính là đức tin của các con,” đức cha nói tiếp với giọng đầy chắc chắn. “Đức tin đã giúp các con đạt được tất cả những điều này. Các con không biết đến cái quyền năng nằm sâu trong tâm hồn của một tín đồ. Đức tin là quyền năng, các con à! Đức tin là quyền năng! Những phép lạ được chôn sâu trong con tim của các con, giống như nước ẩn sâu trong đá, và chỉ co đức tin mới có thể khiến cho chúng bộc phát ra ngoài!”. Ông tiếp tục nói như thế trong khi những nguời đi sau ông lắc đầu nguầy nguậy. Càng lúc ông gàng say sưa hơn và không để ý rằng họ đã bắt đầu rón rén lẻn đi từng người một. Mãi tới lúc đến bìa làng ông mới sực tỉnh, quay lại để cảm ơn những người hộ tống mình, và ông á khẩu vì sửng sốt khi thấy chỉ có mỗi mình ông. Nỗi ngạc nhiên của ông chẳng kéo dài được lâu, vì ngay lập tức ông thấy gia đình mình, các thầy dòng và các cha bề trên vội chạy về phía ông, ôm lấy ông và hôn tay ông, trong khi những giọt nước mắt mừng vui chảy dài trên má họ. Một người ôm chặt lấy ông và nói: “Cuối cùng cha cũng đã về nhà an toàn! Bọn chúng đã giữ lời hứa. Cứ để bọn chúng lấy số tiền đó cũng được miễn là chúng trả cha về! Đối với chúng tôi, cha là vô giá, quý hơn bất cứ khoản tiền nào!” Nghe nói đến chữ “tiền”, đức cha kêu lên: “Tiền gì?”

    “Tiền chúng tôi nộp cho bọn ấy.”

    “Bọn nào?”

    “Bọn bắt cóc cha đấy. Ban đầu, bọn chúng ra giá ít nhất là một ngàn bảng thì mới thỏa mãn, chúng bảo rằng cha quý giá như vàng. Chúng tôi nài nỉ chúng giảm bớt một nửa, và rốt cuộc chúng chấp nhận, vì thế chúng tôi trích quỹ nhà thờ nộp cho chúng năm trăm bảng tiền chuộc.”

    “Năm trăm bảng!” đức cha kêu lên. “Các cha nộp chừng đó tiền chuộc cho tôi à! - Chúng bảo với các cha là tôi bị bắt cóc à?”

    “Phải, ba ngày sau khi cha mất tích, có mấy người đến gặp chúng tôi và nói rằng một băng cướp đã bắt cóc cha buổi sáng nọ khi cha đang tưới cây chà là trước cửa nhà. Chúng thề là sẽ cho cha tới số nêu tiền chuộc không đến tay chúng - nếu chúng tôi nộp tiền chuộc, cha sẽ được trả về bình an vô sự”.

    Đức cha ngẫm nghĩ về những lời này, nhớ lại những chuyện đã xảy ra. “Vậy là rõ cả,” ông nói, như thể đang độc thoại. “Những kẻ đang hấp hối, bệnh tật, và bị liệt đều bật dậy khoẻ mạnh khi ta ban phúc lành! Dàn dựng quả là siêu!”

    Thân nhân của ông lại tiến đến, kiểm tra khắp người ông, áo quần ông rồi vui vẻ nói: “Ngoài sự an toàn của cha thì chẳng có gì quan trọng cả. Chúng tôi hy vọng bọn chúng không đối xử tệ với cha trong thời gian giam giữ cha. Thế bọn chúng đã làm gì với cha?”

    Lòng vẫn còn hoang mang, ông đáp: “Chúng khiến tôi làm nên những phép lạ - những phép lạ khiến cho nhà thờ phải trả giá đắt!”

    (Từ bản tiếng Anh của Denys Johnson-Davies trong “Modern Arabic Short Stories”)
     
    meetdak, amylee, tducchau and 2 others like this.
  4. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CƠN BÃO Ở NHÁNH SÔNG GATOR

    Truyện ngắn của Joyce Holland

    Ngọc Quỳnh dịch



    Bóng một người đàn ông rón rén len lỏi qua những cây bách khiến Sarah chú ý. Nàng lau khô vầng trán ẩm ướt và chăm chú nhìn qua cánh cửa sổ mở rộng. Sự tĩnh mịch đã thay thế cho âm thanh rộn rã của lũ chim. Hình dáng lén lút đó tiến gần hơn đủ để nàng nhận ra dáng đi như mèo của người ẩn sĩ. Bây giờ ông ta đang men theo khoảng rừng thưa sát mép đầm lầy. Người ẩn sĩ thường đến đây vào mỗi buổi chiều thứ sáu và mang cho nàng những món quà rừng nho nhỏ như cá hay thịt thú rừng.

    Sarah mở tủ lạnh để xem hôm nay nàng có gì để cho ông ta. Bất chợt, nàng dừng lại. Nàng vén mái tóc dài ướt đẫm sang một bên. Hôm nay mới thứ năm. Thật lạ lùng. Nhưng ngày tháng có ý nghĩa gì với ông ta đâu chứ. Chắc chắn không có gì bất thường. Có thể những chiếc bẫy của ông ta gặp may đấy thôi. Nàng nhanh nhẹn làm vài chiếc bánh sand-wich kẹp với thịt con gà rừng mà ông ta đã đem cho nàng lần trước rồi xếp tất cả vào một chiếc túi giấy. Giữa nàng và ông ấy có một sự đồng cảm nào đó không thể hiểu được, Sarah ngẫm nghĩ. Một quả phụ và một ẩn sĩ...

    Nhiều người trong thị trấn nói rằng người ẩn sĩ bị điên, rằng ông đã tự giam mình trong đầm lầy quá lâu. Nhưng cô Lucy ở bưu điện lại bảo rằng ông ấy là một thiên tài, rằng ông ấy có phần nào là người Ấn Độ. Ông ta hiếm khi nói chuyện với bất kỳ ai. Mặc dù khi ông ấy nói... phải, cô Lucy nói là tốt nhất là mọi người nên nghe theo, ông ta thường báo trước về một nỗi bất hạnh khủng khiếp nào đó sắp xảy đến. Sarah biết chắc rằng ông ta không hề bị điên, ông ấy chỉ nhút nhát mà thôi. Sau khi Ned chết, nàng và Tommy đã chuyển đến sống ở trại cá trên nhánh sông Cá Sấu heo hút này. Sarah rất mong những chuyến viếng thăm của người ẩn sĩ. Nàng và Tommy còn biết một bí mật nữa, một bí mật mà ngay cả cô Lucy cũng không biết. Họ biết tên của ông ta - Jonah.

    Ông ta chưa bao giờ đi đến cửa nhà nàng, nhưng có một hay hai lần ông đã nói chuyện với nàng ở khoảnh rừng thưa. Sarah cảm thấy ông luôn trông chừng nàng - một kiểu trông chừng đầy vẻ che chở. Ông ấy là bạn của nàng. Tháng rồi ông đã dẫn Tommy đi săn. Sarah vén bức rèm sang bên để quan sát khu vực bên dưới nhà sàn. Jonah vẫn còn ở đó. Nàng đã nhận ra chú báo yêu của ông đang nấp đàng sau cây bách. Đây là một bí mật mà chỉ mình nàng chia sẻ với nhà ẩn sĩ. Chưa có ai từng nhìn thấy chú báo, kể cả Tommy.

    Sarah mở cửa và bước ra dưới ánh nắng mặt trời rực rỡ. Nàng không tin vào mắt mình nữa. Jonah đã băng ngang qua trảng rừng và đang tiến đến gần cầu thang. Sarah ngần ngại. Điều này hoàn toàn không giống ông ta chút nào. Ông ta có bị thương không nhỉ? Jonah vẫn bước đều. Ông đang ghì chặt một cái gì đó trước ngực mình - một chiếc rìu sáng loáng. Bất giác, Sarah lùi lại ngưỡng cửa. Tại sao nàng lại sợ kia chứ? Người đàn ông này không có chút ác tâm nào.

    Jonah lần lần từng bước lên các bậc thang của căn nhà sàn. Đôi mắt xanh sáng rực của ông mê hoặc nàng, ông ta dừng lại cách nàng vài bước rồi nâng chiếc rìu lên, cán rìu hướng về phía nàng. Một cách trao tặng trịnh trọng, ông cao vượt hẳn nàng!

    “Tôi muốn bà giữ cái này”, ông nói. Sarah lùi lại một bước, không biết nên phản ứng thế nào. Cái gì đã khiến ông tặng cho nàng một chiếc rìu vậy? Ông luôn luôn mang cho nàng thịt hươu, cá hun khói, thậm chí cả hoa dại hay những thứ quà rừng khác để đổi lấy những thứ nàng cho ông. Nàng đặt chiếc túi giấy lên hàng rào bên cạnh họ. “Ôi không. Tôi rất biết ơn ông... nhưng cái này quá nhiều so với những gì mà tôi làm cho ông. Tôi không thể lấy nó được”.

    Người ẩn sĩ không hề nhúc nhích. Dường như ông đã chôn chân trên sàn. Vẻ lo lắng hằn nên những nếp nhăn trên gương mặt cháy nắng của ông. Ông nói qua đôi môi mím chặt. “Cứ giữ nó đi, Sarah!”. Ông chìa cán rìu về phía nàng một lần nữa. “Tôi có một giấc mơ. Tôi không thể giải thích được nó”, ông lắc đầu. “Tai họa... Một tai họa khủng khiếp đang đến. Bà phải dẫn thằng bé đi khỏi đây đi”.

    Những lời nói của ông ta làm Sarah ớn lạnh. Nàng khoanh tay tự ôm chặt mình, ông ta vẫn đang giữ chiếc rìu, đôi cánh tay và vai ông ta căng thẳng. Nàng với tay lấy nó.

    “Tôi phải đi đây”. Người ẩn sĩ tiếp tục. Giọng ông ta to hơn ở từng chữ một.

    “Những tôi không hiểu... Tai họa gì chứ? Tôi biết là có một cơn bão đang đến. Có phải là nó không?” Sarah tằng hắng. Hình như giọng nàng nghe cũng không tự nhiên.

    Jonah lặp lại, “Tai họa. Tai họa đang đến. Hãy dẫn thằng bé đi trốn đi.” Ông chụp lấy chiếc túi rồi bước lui xuống những bậc thang gỗ ọp ẹp.

    “Chờ đã nào”, Sarah gọi với theo. “Tôi không hiểu ý ông. Khi nào thì tai họa đó đến?... Ý tôi là cái gì vậy? Nó ở đâu?”

    Người ẩn sĩ không nói một lời, vung tay chỉ xuống đầm lầy. Cánh tay ông ta vặn vẹo khổ sở như đuôi của một chú diều bị bạt đi vì cơn gió mạnh thình lình.


    * * *


    Sarah đẩy nhẹ món thịt nướng vào lò và quay ra đóng cửa. Nàng nhận ra tiếng huýt sáo của Tommy từ xa. Một thông điệp ấm áp và tinh tế. Nó biết nàng đã nghe tiếng xành xạch của chiếc thuyền máy chạy trên kênh báo hiệu nó đã về.

    “Chào mẹ. Mọi việc ổn chứ?” Cậu bé ném những quyển sách lên bàn và mắc áo khoác lên chiếc xích đu.

    “Không, mẹ nhận được một lời cảnh báo từ một nhà tiên tri”.

    “Ồ, hay nhỉ. Ôi, con đói quá. Có gì để ăn không mẹ?” Cậu bé thò đầu vào trong tủ lạnh.

    “Mẹ muốn con để ý khi mẹ nói. Lấy đầu con ra khỏi đó và lại bàn ngồi đi. Lát nữa mẹ sẽ lấy thức ăn cho con.” Sarah vuốt mái tóc hung hung của cậu bé khi nó gập thân người cao lêu nghêu của nó xuống một chiếc ghế gần nhất. “Mẹ có việc này muốn nói với con.”

    Tommy vặn vẹo người nó trong ghế khi Sarah thuật lại sự kiện hồi sáng, “Ôi trời, thôi đi nào mẹ! Mẹ không để cho ông ẩn sĩ gàn dở đó làm chúng ta hoảng sợ chứ?” Cậu bé lắc đầu.

    Vẻ mặt thằng bé không đánh lừa được Sarah. Quai hàm của nó căng ra. Điều mà nó quan tâm, không phải là những gì người ẩn sĩ nói, mà là tác động của nó lên nàng. Sau khi Ned mất đi trong một tai nạn xe hơi, nó luôn tự cho rằng nó là người bảo vệ cho mẹ nó. Sarah hiểu điều đó sẽ giúp cậu bé giảm bớt đi nỗi mất mát. Và nàng cho phép điều đó. Chính nàng cũng đã tìm được sự khuây khỏa nỗi đau buồn ở nơi này. Không có ký ức nào về Ned có thể làm nàng đau lòng nữa.

    “Thôi được, chúng ta xem thế nào nhé?” Tommy vung tay vào không khí. “Chúng ta đã có một chiếc rìu rồi phải không nào? Nó nằm trên cái thớt ở trong sân. Ông ấy chắc đã vấp phải nó khi đến đưa cho mẹ cái này.” Tommy liếc nhìn cái rìu của Jonah. Nó nằm trước lò sưởi như một người lính gác câm lặng, bằng chứng của cái ngày lạ lùng này.

    “Mẹ nghĩ con nói đúng”, Sarah nói. Nó có đúng không nhỉ? Nàng nhìn ra xa. Có phải nàng đã để cho việc nó chăm sóc nàng đi quá xa không? Có phải giải pháp mà nàng dùng để chế ngự nỗi đau buồn đã làm nàng trở nên yếu đuối hơn - phụ thuộc hơn? Đã hai năm rồi. Nang có thể mạnh mẽ trở lại - nếu cần thiết.

    “Có thể ông ấy đã định chặt chân tay mẹ bằng chiếc rìu này, rồi phút cuối cùng ông ta lại đổi ý. Mẹ không biết là những người lập dị sẽ làm gì đâu!” Tommy ngồi thẳng lên và nhìn nàng chằm chằm.

    “Ông ấy không phải là một người lập dị”. Sarah quay phắt về phía Tommy. “Và ông ấy không điên. Những người trong thị trấn mới là điên. Mẹ biết ông ấy hoàn toàn khác - ông ấy... đặc biệt, phải không nào? Mà mẹ nghĩ là con thích ông ấy chứ?”

    “Phải, con đã rất thích ông ấy... cho tới hôm nay”. Tommy cau mày.

    “Ông ấy là người tốt. Mẹ chắc chắn như vậy”.

    Tommy sải bước đến lò sưởi và nhấc chiếc rìu lên. “Thôi được, con chịu thua, ông ấy là một ông thánh phải không nào? Ông ấy biết trước tai họa, và khi nào chúng đến...” Nó giữ chiếc rìu như thể mới giành được vũ khí. “Chúng ta sẽ sẵn sàng! Nhưng bây giờ chúng ta để nó ở đâu đây?”

    Sarah mỉm cười. Nó giống bố nó làm sao. “Mẹ cũng không biết. Sao con không để nó dưới giường?”


    * * *


    Sau bữa tối, Sarah nằm lên tràng kỷ xem tivi cùng với Tommy. Đang có bản tin dự báo thời tiết, “Cơn bão đang di chuyển về hướng thị trấn chúng ta. Thông báo hạn chế giao thông có hiệu lực trên toàn vùng Rorida. Tốc độ gió dự báo là 40 dặm một giờ, gió giật có thể đến 60 dặm một giờ. Thủy triều có thể đạt mức nước lũ trong vòng 24 giờ nữa”.

    Sarah nhìn chằm chằm vào Tommy.

    Tommy tránh đôi mắt nàng. “Mẹ à, đó là lý do tại sao dì Millie và dượng George cất nhà sàn ở đây”, nó ngả người về phía Sarah, đặt một tay lên vai nàng và thở dài, “Ông ẩn sĩ đáng nguyền rủa đó đã làm mẹ sợ chết khiếp!”

    “Coi chừng cái miệng của con đấy!” Nàng gạt tay thằng bé ra. “Và đừng lo. Chúng ta sẽ không bỏ chạy. Nhất là vì mấy cơn gió nhẹ”.

    “Và tiếp theo là tin tức địa phương”, chiếc tivi om sòm. “Chúng tôi vừa nhận được tin mới nhất về Rudy Saunders, tên tù đã vượt ngục hồi sớm nay. Hiện nay cảnh sát cho rằng hắn đang quanh quẩn gần nhánh sông Cá Sấu. Theo cảnh sát trưởng Wilson, Saunders có thể có vũ khí vì cảnh sát đã phát hiện là có một kẻ tòng phạm với hắn. Saunders đang thụ án chung thân vì ba vụ giết người trong hai tuần lễ liên tục thực hiện các vụ cướp ở miền Nam Florida vài năm trước đây. Một cuộc lục soát trên toàn khu vực sẽ được tiến hành vào sáng sớm ngày mai, khi thời tiết cho phép. Trừ khi quý vị đang sơ tán, nhà chức trách khuyến cáo rằng quý vị nên hạn chế tối đa việc ra khỏi nhà”.

    Một bức ảnh mờ mờ của tên tù Rudy Saunders hiện lên trên màn ảnh. Đó là một gã đàn ông có cái cổ to nặng nề và hai hàng lông mày đen kịt, rậm rì. Một cái mũi to khoằm khoằm rất thích hợp với vẻ ngoài phóng đãng của hắn. Hắn ta có mái tóc đen và đôi mắt đen. Tai họa đang đến, Sarah nghĩ. Những lời nói của người ẩn sĩ vang lên trong đầu Sarah. Rudy Saunders có một cặp mắt đầy tai họa.

    Tommy nhìn sang Sarah: “Con đánh cuộc là họ sẽ bắt được hắn ta trước khi trời sáng nữa kia. Ở ngay trong đầm lầy này, chúng ta an toàn tránh khỏi hắn”. Nó vỗ vai nàng.

    “Hãy thôi đối xử với mẹ như một đứa con nít đi”, Sarah nói. “Mẹ có thể xoay xở được cho dù có bất cứ chuyện gì.” Có thể đó là lý do tại sao Jonah bảo nàng trốn đi, Sarah nghĩ. Ông ấy cũng nghĩ là nàng yếu đuối. Nàng đẩy tay Tommy sang bên và đứng dậy đi cất bát đĩa.


    * * *


    Rudy bì bõm lê chân trong đôi giày sũng nước, mồm không ngớt nguyền rủa. Nếu thằng ngốc Gil không vô tích sự như thường lệ, cả hai đã có thể đi xa hàng trăm dặm và bây giờ đã kiếm được một phòng trọ nào đó trong một motel tiện nghi. Nhưng thật chó chết, Gil đã không xoáy một chiếc xe tử tế một chút mà lại tha đến một mớ sắt vụn thối tha. Cái xe khốn kiếp đó chỉ chạy được khoảng mười dặm trước khi tắt ngỏm. Hắn quả là khôn ngoan khi bảo Gil mang giày ống đến. Mặc dù các sắp đặt của hắn không hề có việc lội bộ băng qua bang Florida để phải khóc thét lên. Hắn dừng lại một phút và ngoái lại. Thằng ngốc đó đâu rồi? Thân hình to lớn vụng về của Gil hiện ra xa xa. Tên đần độn đáng nguyện rủa. Rudy nửa mong Gil trượt cẳng xuống chỗ bùn lún nào đó và biến đi cho khuất mắt hắn. Hoặc bị rắn cắn chết cũng được. Đồ chết tiệt, hắn hoàn toàn có thể đấm ngã Gil xuống bùn ngay bây giờ. Nhưng vấn đề là hắn vẫn có thể còn cần đến tên hề đó. Chắc chắn ảnh của hắn sẽ được in trên trang nhất của mọi tờ báo ở Florida, thậm chí ở cả miền Nam. Nhà chức trách chắc chắn đã biết là có ai đó giúp hắn trốn thoát. Nhưng họ không thể nào biết được đó chính là người em họ Gil của hắn. Thậm chí ngay cả hắn còn không tin được nữa là. Hắn đã đặt cuộc đời hắn vào tay một kẻ dở điên!

    Rudy ngước nhìn lên bầu trời, khum khum bàn tay che những giọt mưa xối xả. Trận bão chết tiệt này có thể kéo dài hàng giờ nữa. Hắn phải tìm ra một nơi trú ẩn. Gió mưa làm hắn tối tăm mặt mũi, chúng quất vào gương mặt và cánh tay trần của hắn đau rát. Quanh đây có một trại cá cũ. Có một người phụ nữ đã sống ở đó vài năm trước đây. Sẽ không có ai tìm kiếm bọn chúng ở giữa nơi không có gì cả này. Trong vài ngày, chúng có thể lấy chiếc thuyền của bà ta và chuồn đi. Rudy bước xấn len với một niềm hăng hái vừa được hâm lại. Nếu Gil không thể đuổi kịp thì mặc xác hắn ta. Hắn không cần những kẻ quá tồi.


    * * *


    Sarah nghe mùi cà phê bốc lên thơm phức. Gió rít từng cơn qua những bức vách bằng ván mỏng và mưa gõ nhịp trên mái thiếc của nhà sàn.

    “Chào mẹ buổi sáng, Tommy nói khi Sarah bước ra khỏi phòng mình. “Mẹ ngủ ngon không?” Chiếc áo khoác ướt sũng của nó treo cạnh cửa và tóc của nó vẫn còn ướt. “Cà phê đã sẵn sàng”.

    Sarah phớt lờ câu hỏi của nó. “Con ra ngoài trong thời tiết này à?”

    “Con chỉ muốn kiểm tra chiếc thuyền và xem nước lên cao như thế nào thôi”.

    “Và?” Nàng rót cà phê ra tách và mang đến bàn.

    “Nước thật sự bắt đầu lên,” nó nói. “Chúng ta không thể làm được gì và cơn bão sẽ không dừng ngay đâu.” Tommy cau mày.

    “Chuyện gì thế, Tommy?” Sarah khép chặt chiếc áo choàng của nàng.

    “Chiếc thuyền đã trôi mất đêm qua. Nó chưa thể đi xa đâu. Con phải đi tìm nó. Con sẽ thu các lưới cá về luôn.”

    Sarah ngắm Tommy. Nó đã cao bằng Ned và vẫn đang cao thêm. Ned chắc hẳn rất tự hào.

    “Nghe hay đấy. Đây không phải là lần đầu chiếc thuyền bị trôi. Tối qua gió lại lớn đến thế”. Nàng vén mái tóc dài của mình sang một bên vai. “Và đừng có nhìn mẹ với vẻ lo lắng như vậy. Mẹ không sao đâu. Ban ngày thì không có gì đáng sợ cả. Con cứ đi đi, còn mẹ đi ăn sáng đây.”

    “Được lắm”, Tommy cúi chào với vẻ giễu cợt và cái nhìn làm an lòng nàng. Nó mặc cái áo khoác ẩm ướt vào. “Người rừng của mẹ ra ngoài để đương đầu với thiên nhiên đây.”

    Sarah chỉ nghe được nửa câu sau cánh cửa đóng sập lại.


    * * *


    Rudy và Gil quan sát Tommy băng qua trảng rừng. Chúng đã quan sát thằng bé một giờ trước đó khi nó đi kiểm tra chiếc thuyền. Gil muốn giữ nó ngay lúc đó, nhưng Rudy gạt đi. “Chúng ta có thể cần nó sau, đồ ngu,” Rudy bảo hắn. “Vả lại, tao muốn biết có ai nữa sẽ ra khỏi cái nhà sàn đó không. Trẻ con thì phải có một ông bố nữa phải không?”

    Gil toe toét cười trơ ra hai hàng lợi. “Ồ, phải, phải.”

    Đồ đần độn, Rudy nghĩ. Thằng bé đã đi khuất khỏi tầm mắt. Đã đến lúc phải tiếp tục lao ra ngoài trời mưa. Chúng phải tìm xem liệu có ông bố nào trong nhà không - bằng một cách khó khăn nhất.


    * * *


    Sarah giật bắn mình khi cánh cửa thình lình bật mở. Tiếng thét của nàng tắt nghẹn trong họng khi nàng thấy khẩu súng chĩa vào nàng từ một gã đàn ông lực lưỡng trên ngưỡng cửa. Hắn ta có râu và cái mà nàng thấy trên gương mặt đầy sẹo của hắn là cái nhìn dữ tợn. Cặp mắt hắn đen như than. Hắn là hình ảnh rõ ràng của Rudy Saunders. Sau lưng Rudy là một người đàn ông nặng nề. Vẻ ngoài ngây dại của hắn ta chẳng cho nàng biết điều gì.

    Tommy, Sarah lạnh người, Tommy đâu rồi?

    “Ông nhà bà đâu rồi?” Rudy hỏi.

    “Ông ấy... ông ấy có việc ra thị trấn vài ngày, ông ấy sẽ trở về hôm nay. Các ông muốn gì?” Nàng sợ không dám hỏi về Tommy. Sợ bọn chúng sẽ nói với nàng là chúng đã làm hại nó. Và sợ nhắc đến thằng bé khi chúng chưa thấy nó.

    “Tôi muốn bà tỏ ra dễ thương và bình tĩnh”, Rudy nói. Tiếp tục việc nấu nướng của bà đi và thêm vào hai phần nữa. Thằng bé của bà sẽ quay lại ngay chứ?”

    “Tôi không biết. Nó ra ngoài trước khi tôi dậy.”

    Rudy chộp lấy cánh tay nàng và siết chặt, “Đừng nói láo, tôi đã nghe nó nói chuyện với bà khi nó ra khỏi cửa.”

    “Làm ơn đi,” nàng van xin. “Đừng làm hại Tommy.” Nàng có thể chắp tay và quỳ gối nếu cần thiết.

    “Bà cứ biết điều thì sẽ không có chuyện gì,” Rudy gầm gừ.

    “Chúng tôi sẽ không làm hại trẻ con,” Gil nói từ ngưỡng cửa. Hắn trề môi, “Có phải vậy không, Rudy?”

    Rudy phớt lờ cả hai và đến bên cửa sổ.

    Sarah loay hoay với chiếc lò. Đầu óc nàng quay cuồng. Gã đàn ông thấp hơn có vẻ là kẻ chậm phát triển. Gần như là trì độn. Còn Rudy là hiện thân của tai họa. Đáng lẽ nàng nên nghe lời người ẩn sĩ. Liệu Tommy có thấy chúng không? Làm ơn để nó đi tìm sự giúp đỡ. Đừng quay lại đây vì mẹ, Tommy. Đừng, nàng khẩn cầu. Nàng nhấc chiếc chảo đầy ắp mỡ lợn đang sôi và cân nhắc xem liệu nàng có thể hắt nó về phía những gã đàn ông và lao khỏi cửa không. Nhưng chúng đứng cách nàng quá xa. Rudy có thể bẻ gãy tay nàng nếu nàng thất bại. Với những cái xương gãy thì nàng không giúp gì được cho Tommy. Nàng cẩn thận di chuyển về phía bồn rửa chén cùng với chảo mỡ.

    “Thằng bé đang đến”, Rudy chờ cho đến khi Sarah đặt chảo mỡ xuống. Cặp mắt đen của hắn dò xét nàng. “Bây giờ, bà đến mở cửa và gọi nó vào. Đừng có thử làm bất cứ điều gì ngốc nghếch, khiến tôi thổi nó bay khỏi đây đấy.” Hắn đẩy nàng tới trước.

    Tommy chắc chắn đã thấy những dấu chân đắy bùn và quyết định ngay, bởi vì khi Rudy kéo mạnh cửa ra thì nó đang chạy về phía đầm lầy.

    “Chạy đi, Tommy, chạy đi”. Sarah gào lên.

    Rudy đẩy mạnh Sarah sang bên. “Thằng nhỏ, một bước nữa mẹ mày sẽ chết!” Hắn rống lên.

    Sarah cố gắng đẩy phía sau Rudy. Hắn vung một cánh tay khổng lồ lên và Sarah bổ nhào xuống sàn nhà, rồi hắn nâng khẩu súng trường lên và bắn vào Tommy.

    Sarah nhao đến bên cửa sổ khi Rudy bắn phát thứ hai. Tommy ngã vật xuống. “Không...” nàng gào lên... “Khô.. .ô.. .ông” Nàng chạy đến cửa lần nữa, nhưng gã đàn ông còn lại túm lấy nàng và ghì chặt nàng vào tường. Nàng điên cuồng đá vào hắn ta và cắn vào hai cánh tay đang giữ lấy nàng. “Đồ con hoang,” nàng la hét, cố gắng đến gần Rudy. Nàng phải móc mắt hắn ra. Cánh tay vòng quanh người nàng siết chặt hơn. Nàng thở hổn hển. “Câm miệng lại ngay,” Rudy gầm lên. “Buông mụ ta ra, Gil. Tao sẽ trông chừng mụ ta. Mày ra ngoài lôi thằng nhỏ chết tiệt đó vào đây. Mưa sẽ xóa hết máu và các dấu vết khác ngay thôi.”

    “Máu”, Sarah thì thào qua hơi thở. “Máu của Tommy.” Nàng nhìn lên gã đàn ông được gọi là Gil, rồi giục hắn ta. “Nhanh lên, làm ơn nhanh lên”, nàng nài xin. “Mang nó vào đây. Ôi, Chúa ơi, hãy để thằng bé sống. Chúa ơi.”

    Gil dường như không hiểu. Hắn đứng nghệch ra. “Tại sao mày lại bắn thằng nhỏ? Điều đó không đúng, Rudy.”

    “Hãy làm điều tao bảo, đồ ngu. Thằng nhỏ không bị thương nặng lắm đâu. Tao phải chặn nó lại. Bây giờ ra đem nó vào!”

    Gil vừa bước ra cửa vừa lắc đầu. “Mày không nên làm vậy, Rudy.”

    Mặt và cổ Sarah rát bỏng khi Rudy xô ngã nàng. Không bị gãy gì cả. Tốt, nàng cần sức mạnh vì Tommy.

    “Tôi cần băng,” nàng nhìn thẳng vào Rudy. Việc trả thù để sau. Không chờ được cho phép, nàng đi về phía nhà tắm.

    Rudy nhìn nàng dò xét. “Tôi sẽ đi với cô,” hắn đổi giọng. “Cô rất cứng cỏi, tôi thích điều đó ở đàn bà.” Hắn lè lưỡi liếm môi. “Không có gì sánh được với một người đàn bà mạnh mẽ vào những lúc thoải mái. Và cùng làm những điều thú vị.” Sarah rùng mình. Tommy, lúc này nàng phải chăm sóc cho Tommy. Những chuyện còn lại nàng sẽ đối phó sau.

    Gil mang Tommy vào. Sarah nghe tiếng nó khóc. Nó vẫn còn sống. Hắn đặt Tommy lên giường nàng và giúp nàng cởi chiếc quần jean đẫm máu ra khỏi người thằng bé. Có chạm phải động mạch không? Nàng quan sát chân Tommy. Máu rỉ ra từ hai vết thủng trên đùi nó. Chẵc chắn viên đạn đã xuyên qua. Nhiễm trùng mới là vấn đề. Sarah rửa các vết thương và đổ thuốc sát trùng lên. Jommy bất tỉnh.

    “Được rồi, băng lại và tiếp tục việc nấu nướng đi, thưa quý cô!” Rudy gọi vọng từ phòng ngoài.

    Một ngày dài của Sarah máy móc trôi qua. Nàng nấu nướng và ngồi cạnh Tommy, rồi lại nấu nướng và quanh quẩn bên Tommy. Nàng mất khái niệm về thời gian. Đã đến đêm chưa nhỉ? Một chuỗi kịch bản lạ lùng xâm chiếm đầu óc nàng. Tại sao không đầu độc chúng? Nhưng chất độc sẽ không có tác dụng nhanh, Rudy chắc chắn sẽ giết họ trước khi hắn chết. Trốn đi là không thể vì Tommy đang bị thương. Sarah nhìn chằm chằm ra phòng khách, mắt nàng dán chặt vào Rudy.

    Rudy đứng dậy và bước ngang qua căn phòng. Hắn nhìn chằm chằm lại Sarah. “Cô và tôi, chúng ta sẽ có một cuộc trò chuyện riêng tư thú vị vào ngày mai.” Hắn phá lên cười khả ố, chộp lấy cánh cửa phòng ngủ va đóng sập lại. Thậm chí hắn cũng biết là nàng không thể trốn đi khi không có Tommy.

    Tiếng động đánh thức Tommy dậy. “Mẹ, chúng ta phải trốn khỏi đây. Chân con không đau lắm đâu.”

    Sarah nhấc chén súp còn âm ấm và đút cho nó. “Bất kể chúng ta quyết định thế nào, con cần phải ăn cho có sức đã.” Nàng đặt một ngón tay lên môi. “Mẹ sẽ nghĩ cách.”


    * * *


    Sarah mơ màng ngủ trên chiếc ghế bọc nệm cạnh giường.Gần sáng, nàng chợt choàng tỉnh vì cảm giác là có ai đó đang nhìn nang, cửa phòng ngủ vẫn còn đóng. Có tiếng cào cửa lạ lùng làm nàng chú ý, nàng xoay lại để tìm xem nó phát ra từ đâu. Đó là người ẩn sĩ, gương mặt ông mờ mờ sau cánh cửa sổ ngoằn ngoèo những vệt nước mưa. Ông đang thận trọng cào lên cửa sổ. Hy vọng, có một hy vọng. Nàng chạy bổ đến bàn và nguệch ngoạc mấy chữ, cầu Chúa cho ông ta có thể đọc được qua cánh cửa mờ mịt. Lạy Chúa hãy để ông ấy đọc được.

    Tai họa ở đây, nàng viết. Tommy bị thương. Giúp đỡ. Nàng giữ cao mảnh giấy và quan sát vẻ mặt của Jonah. Mắt ông gặp mắt nàng, ông ấy có hiểu không? Ông gật đầu kiên quyết vài lần rồi biến mất.

    “Tommy,” Sarah nhẹ nhàng lay vai thằng bé.

    “Cái gì? Gì thế?” Nó choàng tỉnh.

    “Shh...” nàng bịt miệng nó lại. “Người ẩn sĩ, ông ấy ngoài cửa sổ. Mẹ không biết ông ấy sẽ làm gì.” Nàng cho nó thấy mảnh giấy. “Có thể ông ấy sẽ đi tìm người giúp, hoặc tự mình lao vào nhà, mẹ không biết. Nhưng mẹ sẽ thử chận cửa bằng vài thứ. Bất cứ cái gì không gây ra tiếng động.”

    Nàng bắt đầu bằng một cái ghế. Rồi nàng lấy một tấm chăn và nhấc từng chân của chiếc tủ êm thắm đến bên cửa.

    Hai giờ chậm chạp trôi qua. “Con đoán là ông ấy đi tìm người giúp”, Tommy thì thào. “Dù sao đó cũng là cách tốt nhất.”

    “Phải, phải”, Sarah đồng ý. Một tiếng động ở cửa sổ khiến Sarah bật người lên. Người ẩn sĩ đã trở lại. Nhìn ra ngoài, niềm hy vọng của Sarah tắt ngấm, ông ta chỉ có một mình trên cái hành lang rộng rãi bao quanh ngôi nhà sàn. Tựa sát vào rào chắn, gần cầu thang là một cái cáng ngắn. Họ có thể mang Tommy đi trong cơn bão và lũ này sao? Sarah hít sâu. Có thể Jonah biết câu trả lời mà nàng không biết. Và ở lại đây không còn là một chọn lựa nữa. Rudy đã có những kế hoạch cho nàng. Những kế hoạch sẽ gây ra những vết thương làm Tommy đau đớn hơn nhiều so với những vết đạn trên chân nó. Sarah không cho phép điều đó xảy ra.

    “Gì thế mẹ?” Tommy rướn người ngồi lên. “Ông ấy có dẫn ai đến giúp không?”

    “Ừm,” Sarah nhăn mạt. “Chỉ có thể nói... chính xác là ông ấy không dẫn cảnh sát đến để giải cứu.”

    Nàng giải thích tình hình cho nó. “Đã đến lúc phải đi. Mẹ sẽ giúp con trèo qua cửa sổ”.

    “Thế còn cái rìu thì sao?” Tommy hỏi. “Nó vẫn còn ở dưới giường... có thể lấy làm vũ khí.”

    Sarah im lặng đồng ý. Họ sẽ mang nó theo. Nàng giúp Tommy đứng dậy và họ lần lần từng bước đến bên cửa sổ.

    Một tiếng ho lớn thình lình vọng vào từ phòng khách. Gió gào rú bên ngoài và những mảnh vỡ ràn rạt đập loạn xạ vào ngôi nhà. Mỗi tiếng động đều làm Sarah hoảng hốt. Gương mặt bên ngoài cửa sổ là mục tiêu duy nhất của nàng bây giờ. Đầu tiên, cánh cửa sổ không mở được. Nó bị kẹt cứng vì lá mục và nước mưa, Sarah nghĩ. Nàng nắm chặt cái tay nắm mỏng manh, còn Jonah thì ráng sức nhấc khung cửa lên từ bên ngoài. Cuối cùng, nó bật mở ra với tiếng loảng xoảng khủng khiếp và cơn bão tốc vào như một quả bóng xoáy tít. Tommy rướn tới trước và cố gắng nhấc người lên ngưỡng cửa. Sarah nhìn những đồ vật nghiêng ngả chống đỡ cho cánh cửa dưới những cú đấm điên cuồng của Rudy. Nàng chạy vội lại và đẩy hết sức mình để giữ cho hàng rào chướng ngại vật đó không xê dịch, nóng lòng quan sát Jonah đang vật lộn để kéo Tommy ra khỏi cửa sổ. Những mảnh gỗ vụn bay vào khi Rudy bắt đầu phá vỡ được cánh cửa phòng ngủ. Sarah không thể chịu đựng được lâu hơn nữa. Rudy lại tiếp tục nện vào cánh cửa. Cánh tay khổng lồ của hắn hiện ra sau chỗ trống. Những ngón tay nắm chặt của hắn chỉ cách cổ nàng vài phân. Bàn tay rút ra, thay thế bằng gương mặt điên tiết của Rudy. Hắn nhe răng cười nhạo nàng qua khe hở.

    Sarah cúi xuống, nhặt lấy chiếc rìu và vung một vòng rộng, cắm lưỡi rìu vào khe hở mà đầu Rudy vừa hiện ra.

    Tiếng rống khủng khiếp của Rudy khiến Sarah giật bắn cả người. Hắn là một thằng điên đang lên cơn dữ dội. Hắn xé toạc những mảnh cửa ra dễ dàng như xé gỗ balsa. Hắn hò hét bảo Gil chạy ra ngoài và chặt đứt họ. “Mụ đàn bà thối tha này chém rìu vào tao!” Tim Sarah đập nhanh đến nỗi làm nàng muốn quỵ xuống. Nàng nhìn về phía cửa sổ. Trống không! Nàng hối hả kéo lê chiếc rìu lao về trước, và rồi ném mình qua ô trống tối mịt. Tommy và người ẩn sĩ đâu rồi? Thật khó mà thấy được gì trong cơn mưa xối xả này. Gió giật mạnh quần áo nàng. Rồi nàng thấy họ, đang lưng chừng cầu thang. Nàng lao theo họ. Nàng để chiếc rìu bên cạnh Tommy rồi chộp lấy đầu cuối của cái cáng. Lạy Chúa, nếu họ còn có thể nghĩ, họ phải tìm ngay một chỗ ẩn nấp. Họ đến nấc thang cuối cùng và bước xuống mặt nước đang dâng lên. Những tia chớp xé ngang bầu trời. Sarah có thể thấy vẻ đau đớn trên gương mặt Tommy. Khu rừng âm u của đầm lầy mờ mờ trước mắt họ.

    Giọng của Rudy từ trên vọng xuống, còn lớn hơn cả loạt sấm rền tiếp sau đó. “Tao sẽ giết hết tất cả chúng mày, ngay bây giờ!” Hắn gào thét. “Tất cả chúng mày.”

    Nước mưa quật vào mặt Sarah. Nàng lau bớt chúng đi bằng vai mình. Nước đã dâng đến đầu gối. Ôi, Chúa ơi, Sarah nghĩ,... rắn, cá sấu... và Rudy. Làm sao mà nàng có thể an toàn rời khỏi phòng để đi theo người ẩn sĩ? Và liệu ông ấy có để ý là nàng cao không hơn 5 feet (1,52m)? Nước đã bắt đầu ngập đến đùi nàng. Những tia chớp lại lóe sáng, soi rõ những cây bách phía trước họ. Một chiếc thuyền, có một chiếc thuyền nhỏ dưới gốc cây. Vài bước nữa và họ đã ở đó. Nàng thở hổn hển khi họ đặt Tommy xuống lòng thuyền. Chỉ đủ chỗ cho nó. Nhưng ít nhất nàng có cái gì đó để bấu vào.

    Rudy và Gil hẳn đã băng qua đầm lầy để đến đây. Liệu chúng có đuổi theo họ không? Trong thời tiết này thì chắc chắn là không! Nàng nhìn chằm chằm vào cái bóng của người ẩn sĩ trong khi ông cẩn thận bước đi trên mặt nước đen ngòm trước mặt họ. Ông ấy đã cứu sống họ. Quên bánh mì kẹp thịt đi, nàng nghĩ, lần tới ông ấy sẽ có gà nướng va khoai tây!

    Sarah nghe có tiếng xành xạch rất lạ. Cơn bão? Chúa ơi, chẳng lẽ họ chỉ hoài công? Không, đây là tiếng rên rỉ. Nhưng những cơn bão như thế này thường tạo ra những âm thanh lạ lùng trong đầm lầy. Nàng đã có đủ chuyện để lo lắng rồi. Rồi nàng lại nghe âm thanh đó. Nang cố tập trung vào nó. Nó trở nên gần hơn. Một tia sáng lóe lên phía sau họ. Chiếc thuyền. Nó chẳng trôi mất. Rudy đã giấu nó ở đâu đó và hắn đang đến gần họ. Với một ngọn đèn. Với một ngọn đèn... và một khẩu súng.

    Tommy rên rỉ. Tiếng rên làm Sarah thắt lòng. Nàng vươn tới lòng thuyền và nắm lấy cánh tay nó. Người ẩn sĩ liếc nhìn nàng. Ánh đèn của Rudy lướt trên họ. Jonah cúi gập người, kéo mạnh con thuyền nhỏ và bất đầu tăng tốc. Sarah cũng bắt chước theo và họ lướt đi trên mặt đầm lầy như một con rắn nước.

    Cuộc hành trình bắt đầu quá sức nàng. Sarah nghĩ lưng nàng chắc đến gãy mất vì tư thế gập lại. Họ đang đi đâu đây? Nàng chưa từng đi ngược vào đầm lầy như thế này. Jonah rẽ nước theo một đường ngoằn ngoèo. Tại sao ông ta không đi một đường thẳng?

    Một tiếng súng rít lên. Những mảnh gỗ bắn ra tử một cái cây gần đó. “Chúng mày không thể thoát khỏi tay tao đâu,” Rudy rống lên trong tiếng gió và mưa.

    Toàn thân Sarah run lên. Hai bàn tay nàng bấu chặt lấy mạn thuyền như những móng chim đại bàng. Nếu mình phải chết ở đây thì chúng nó phải chôn chiếc thuyền này với nàng, nàng không thể buông nó ra được. Nàng đẩy mạnh thuyền, tự hỏi tại sao một ý nghĩ ngu ngốc như vậy lại đến. Chính là nỗi khiếp sợ. Nỗi khiếp sợ sẽ làm ta bị điên. Bất thình lình, chân Sarah chạm phải một bề mặt cứng. Nước cạn hơn. Đất cứng. Họ đã đến một hòn đảo.

    Phía sau họ, tiếng máy thuyền bỗng rú lên đột ngột. Ai đó la hét và nước hất lên tung tóe. Chiếc thuyền kia chạm phải cái gì đó và Rudy và Gil rơi tõm xuống nước.

    Người ẩn sĩ quay sang Sarah và mỉm cười. Bây giờ nàng đã hiểu hành trình vòng vèo của họ. Jonah biết rõ những chướng ngại vật trên con đường, ông ra hiệu cho nàng. Nàng hiểu ý ông. Và nàng sẽ đi theo ông đến bất cứ chỗ nào. Họ khom xuống, nhấc cáng của Tommy lên và lại lao vào bóng tối.

    Họ đi được gần 200m rồi dừng lại. Một gốc sồi nhỏ nhô lên phía trước họ. Người ẩn sĩ đặt đầu cáng xuống. Sarah làm theo và chờ đợi. Jonah mò mẫm trong đống bùn và vén sang bên một túm dứa dại để lộ một chổ nấp đủ rộng cho chiếc cáng của Tommy. Ông lấy ra một chiếc rìu thứ hai từ trong hốc. Họ cùng nhau giấu Tommy an toàn vào bên trong và phủ cái hốc lại.

    Sarah quỳ xuống trên đầu gối và hai tay. “Con ở trong đó ổn không, Tommy?”

    “Con không sao, mẹ à, nhưng con chỉ nghĩ...”

    “Chuyện gì thế?” Sarah hỏi. Nàng biết nó đang rất đau và đã sợ hãi khủng khiếp. Nó có nghĩ đến cái chết không?” “Con nghĩ gì?”

    “Con nghĩ con vui biết bao khi những khách du lịch da đỏ như tôm luộc không thể vặt hết lá dứa dại ra khỏi những cây sồi”. Nó cười vang lên.

    Sarah kềm tiếng nức nở. “Mẹ yêu con, con trai!” Jonah chạm tay vào vai nàng. “Mẹ phải đi đây, Tommy. Con sẽ an toàn ở đây”.

    Sarah đứng dậy và đi theo Jonah.

    Gió đã bớt mạnh, mưa cũng giảm thành mưa phùn và rạng đông bắt đầu ló dạng trên đầm lầy. Điềm tốt hay xấu đây? Sarah không biết chắc.

    Giọng của Rudy lại xé không khí một lần nữa. “Bà đang giết thằng bé đó. Tốt nhất là hãy đầu hàng ngay đi. Tôi không còn bực mình về vụ cái rìu nữa, vì vậy hãy đi ra đi”.

    Sarah dừng lại, tưởng như nàng nghe tiếng bước chân của hắn phía sau nàng, Jonah nhẹ nhàng nắm lấy cánh tay nàng và dẫn nàng đến một gốc cây lớn, cho nàng tựa lưng vào gốc cây rồi ra hiệu cho nàng ở yên đó. Ông giữ gương mặt nàng trong hai bàn tay thô ráp của ông và vuốt tóc nàng. Đôi mắt ông lo lắng nhìn nàng trong ánh sáng yếu ớt của buổi bình minh.

    Những bước chân đến gần hơn. Những giọng nói thì thầm đâu đây. Người ẩn sĩ biến mất.

    “Mày đi ngã này, Gil, xua chúng ra”.

    Sarah nhìn xuống bàn tay mình. Nàng đang nắm chặt chiếc rìu. Khi nào nàng vung chúng lên lần nữa? Không thành vấn đề. Món vũ khí làm an lòng nàng. Rudy đã phải điên vì điều đó. Sarah lén nhìn từ sau gốc cây. Gil đứng cách nàng không quá mười bước. Một bóng thấp đang di chuyển về phía hắn ta. Ma quỷ nào thế? Nó trông giống như một con mèo khổng lồ. Gil vẫn đang dò dẫm theo các dấu vết. Có phải là con báo của Jonah? Hay chính là ông ta? Nước lũ khiến những con vật hoang dã phải trèo lên cao. Con báo thu mình thật thấp lấy đà khi Gil đến gần, rồi bất chợt nó nhảy vọt lên. Tiếng thét thất thanh khiến Sarah lạnh xương sống. Gil gào thét và vung khẩu súng của hắn lên. Hắn bắn một cách điên dại! Một tiếng nổ thứ hài vang lên. Sarah thấy Gil lắc lư một đỗi. Hắn lảo đảo vòng quanh. Máu trào ra trên ngực hắn. Rồi hắn ngã nhào xuống, rống lên một tiếng rên rỉ dài thảm thương.

    Rudy đã bắn Gil. Do nhầm lẫn?

    “Mẹ!” Tommy gọi to. “Mẹ có sao không?”

    Chúa ơi. Nếu nàng có thể nghe thì Rudy cũng vậy.

    “Mẹ ở ngay đây, Tommy!” Hãy để Rudy đuổi theo nàng.

    “Mẹ ơi, con ở đây này. Giúp con với”.

    Sarah bối rối. Lại nghe có vẻ giống Tommy, nhưng làm thế nào nó có thể ra ngoài này được chứ? Nàng vỗ mạnh vào đầu mình.

    Jonah chỉ cách nàng vài bước, ông đặt một ngón tay lên môi. “Mẹ ơi, giúp con với, con sợ”.

    Jonah khóc, bắt chước giọng Tommy một cách hoàn hảo.

    Rudy nhào đến. Hắn đâm bổ qua bụi cây thấp như một con thú hoang. Hắn sắp đến chỗ nàng. Sarah lại nhìn lên Jonah. Ông giữ chặt chiếc rìu và gật đầu. Mọi việc tùy thuộc vào nàng. Sự xuất hiện của chú báo đã làm thay đổi kế hoạch của Jonah. Ông đã định thu hút Rudy về phía mình, vì thế ông đã để nàng nấp sau gốc cây. Nhưng chắc chắn ông đã cảm thấy có cái gì không ổn ngay từ đầu, vì vậy ông đã mang một cái rìu cho nàng. Ánh bình minh soi rõ vẻ khổ sở trên gương mặt ông. Ông ấy muốn hành động một mình, Sarah biết. Nàng mỉm cười với ông. Tôi mạnh mẽ hơn ông tưởng, ông bạn ạ. Nàng siết chặt chiếc cán rìu dài và chờ tín hiệu của ông. Hãy nghĩ về Tommy, nàng tự bảo chính mình. Chỉ nghĩ về Tommy.

    Thế giới trở nên chuyển động chậm hơn. Một tia sáng loé nhanh trong mắt người ẩn sĩ. Thật chậm rãi, ông chỉ về bên trái Sarah, rồi từ từ nâng cánh tay mình lên. Sarah kéo chiếc rìu lại và chờ đợi. Thời gian đột ngột trở lại khi cánh tay người ẩn sĩ bổ xuống. Sarah vung chiếc rìu với hết sức mạnh của nàng. Cán rìu giáng vào đầu gối Rudy, hắn ngã nhào về phía trước. Hắn thét lên khi ngã xuống, rồi sau đó là im lặng. Sự im lặng lạ lùng. Sarah không thể nhúc nhích. Nàng nhìn thân hình hắn đang co rúm lại. Chuyện gì xảy ra vậy? Tại sao hắn không đứng dậy và tấn công? Trong ánh sáng lập lòe, nàng quan sát hắn, nghiêng người về trước để nhìn hắn rõ hơn. Đầu hắn, có máu chảy từ đầu hắn. Rồi nàng nhìn thấy nó, cái quai hàm to như một cái bẫy. Rudy đã rơi lên một cái bẫy và nó sập lại ngay trên đầu hắn, làm gãy cổ hắn. Nàng nhìn ra xa thật nhanh. Người ẩn sĩ đứng ngay cạnh nàng và nhìn chằm chằm vào mắt nàng.

    Sarah hít thật sâu. “Tôi không sao”. Nàng với tay và chạm vào mặt ông. “Đó mới chính là tôi, ông thấy đó”. Điều quan trọng là ông ta phải hiểu. “Bây giờ tôi đã mạnh mẽ trở lại”.

    Người ẩn sĩ nắm lấy tay nàng bằng cả hai bàn tay. Ông im lặng gật đầu.

    Con báo gầm lên từ xa. Jonah xoay đầu lắng nghe. Một lần nữa ông ra hiệu cho nàng chờ ông, rồi ông nhanh nhẹn đi về phía lùm cây. Khi trở lại, ông mang theo vài cái bẫy lớn. Những cái bẫy không có nghĩa gì đối với lũ báo, Sarah biết thế.

    “Chúng ta đi đón Tommy đi”, Sarah nói. “Chắc nó đang lo đấy”.

    Lần này Jonah đi theo nàng. ★
     
    meetdak, amylee, vuivui2013 and 3 others like this.
  5. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TÊN TRỘM TẤM HÌNH LÂU ĐÀI

    Truyện của Edward D.Hoch
    Quang Hùng dịch


    Trong những ngày hè, đôi khi Nick Velvet sắp xếp gặp các thân chủ ngay tại Câu lạc bộ du thuyền Long Island Sound, mà anh là một thành viên. Bữa ấy, ngồi trên hàng hiên trông ngay ra bến đậu của Câu lạc bộ, anh ân hận vì đã không hẹn gặp Tommy Traylor ở một nơi kín đáo hơn. Traylor là một gã mập thù lù, vụng về vung tay làm đổ hết ly bia trước khi họ vào chuyện. Traylor thừa nhận:

    - Chắc tôi đang rối. Không phải ngày nào tôi cũng mướn một tay tội phạm hình sự đi ăn trộm đồ đâu.

    Nick phản bác:

    - Tôi chưa bao giờ coi mình là một tội phạm hình sự. Mọi thứ tôi lấy trộm đều chẳng đáng là bao. Tôi nghĩ tôi thực hiện một loại dịch vụ.

    Một người hầu bàn xuất hiện, thu gom những mảnh thủy tinh và mang ly bia khác cho Traylor. Khi họ ngồi xuống trở lại, ông ta bảo Nick:

    - Anh làm gì thây kệ anh, tôi vẫn muốn thuê anh... Anh sẽ có hai mươi lăm ngàn đôla.

    - Nếu tôi nhận lời, ông muốn tôi lấy trộm thứ gì?

    - Tấm hình lâu đài trên giấy bồi. Thứ đồ chơi cho con nít ấy.

    - Hình ở đâu?

    - Trong phòng chơi của trẻ con tại một căn nhà ở North Shore, gần Glen Cove - gần như đối diện với bến thuyền chúng ta đang đứng. Anh có thể dong thuyền qua bển, thực hiện công việc vào buổi xế.

    - Tấm hình có gì đặc biệt mà giá trị dữ vậy?

    - Tôi thích nó chỉ vì lý do tình cảm.

    - Căn nhà ấy được bảo vệ ra sao?

    - Có hệ thống báo động. Có thể có người gác. Gia đình chủ nhà hiện đang vắng mặt.

    - Chừng nào anh cần tấm hình?

    - Trong tuần này, trước thứ bảy. Tôi nghĩ tấm hình có thể sẽ bay qua nước Anh vào cuối tuần - Ông ta đưa cho Nick một bì thư dày cộm - Trong này là địa chỉ và sơ đồ căn nhà, kể cả hệ thống báo động mà tôi biết chút đỉnh. Có cả phân nửa tiền thù lao ứng trước. Đồng ý chứ?

    Nick liếc qua bên trong bì thư, trong khi Traylor nhâm nhi ly bia. Cuối cùng anh gật đầu:

    - Đồng ý.

    Họ bắt tay thật chặt.


    ***


    Đó là một loại việc mà Nick Velvet đã thực hiện hàng trăm lần; và anh rất hiếm khi kể với Gloria khi anh trở về nhà. Anh chỉ nói:

    - Có việc phải chạy qua vịnh Sound. Anh cần sử dụng chiếc thuyền.

    Vợ anh hỏi:

    - Em có thể đi cùng anh không?

    Gloria và Nick đã sống chung từ 18 năm nay; và trong khoảng 12 đến 13 năm đầu, Gloria không hề có khái niệm cụ thể về việc chồng kiếm sống bằng cách nào. Nói thật những gì anh làm với vợ đã khiến họ gắn bó với nhau một thời gian. Nhưng rồi, cách nay khoảng một năm, họ xa nhau một thời gian ngắn. Gloria đã bỏ đi đâu đó với ai không rõ. Rồi cũng có một người đàn bà khác trong cuộc đời Nick, theo một nghĩa nào đó. Tên cô ta là Sandra Paris; và giống như Nick, cô là một tay trộm chuyên nghiệp. Cô tự xưng mình là “Bạch nữ hoàng”, và dùng câu thiệu của Lewis Carroll “Mọi điều không thể đến vào trước bữa điểm tâm” làm phương châm. Cô muốn cộng tác với Nick, nhưng anh từ chối. Gloria biết Sandra Paris; và đôi khi anh ngạc nhiên vì hai người tỏ ra không căng thẳng với nhau.

    Anh trấn an Gloria:

    - Chỉ là một công việc bình thường. Anh đưa thuyền sang bên kia vịnh rồi quay lại chớ không ở qua đêm.

    Gloria tỏ vẻ hài lòng và không đòi đi chung với anh nữa. Vào xế ngày thứ tư, khi Nick hôn vợ và rời bến, Gloria chỉ dặn:

    - Cẩn thận nghen, Nicky!


    ***

    Cuộc hành trình thật dễ dàng. Anh đã đi thuyền ngang qua Sound từ nhiều năm nay; và việc anh rời bến chẳng khiến ai quan tâm. Ý nghĩ đi ăn trộm bằng thuyền làm anh vui vui. Với căn nhà vắng người, anh không có lý do gì để nghĩ rằng việc lấy trộm tấm hình lâu đài của trẻ con lại bị phát hiện hoặc được báo cáo ngay lập tức. Và giả sử có bị phát hiện, thì đào thoát bằng đường thủy là cách dễ thực hiện nhất trong buổi tối tháng tám với vô số tàu, thuyền trên mặt vịnh.

    Anh cột thuyền tại bến theo bản đồ do Traylor đưa; và tiến đến gần căn nhà. Đúng như anh nghĩ, khu nhà gần như bỏ hoang. Nước trong bể bơi sang trọng đã bị dơ bẩn, lều bều vài chiếc lá rụng từ mùa thu. Chuông báo động chống trộm chẳng nhằm nhò gì đối với Nick. Trong vòng mười phút, anh đã đứng trong phòng khách, tò mò nhìn những tấm thảm đã được cuộn lại và đồ đạc được phủ bằng bọc plastic.

    Theo sơ đồ, phòng chơi của trẻ con nằm ở căn bìa lầu hai. Nick nhanh nhẹn leo lên thang gác. Anh mở cửa căn phòng ở cuối hành lang và thấy những chiếc ghế bọc plastic, cùng với nhiều món đồ chơi trên bàn. Trong số đồ chơi, anh dễ dàng nhận ra tấm hình lâu đài vẽ trên giấy bìa cứng với các màu đỏ, xanh lá cây và xám. Dù tấm hình khá lớn, nhưng anh vẫn dễ dàng xếp lại theo nếp có sẵn, thành cỡ 8,5 x 14 inch.

    Có điều gì đó khiến Nick không an tâm. Mọi thứ trong nhà đều được gói ghém, bọc plastic để giữ gọn, sạch trong khi chủ nhà vắng mặt dài ngày, thì tại sao tấm hình lâu đài lại nằm phơi ra đó như đợi anh đến lấy? Việc này làm anh sinh nghi.

    Anh gấp tấm hình gọn lại và bước ra khỏi phòng. Rồi anh bỗng lạnh toát người, nhìn trừng trừng vào một chiếc ghế dựa có trùm bao plastic. Có người ngồi trên ghế, mặt dán chặt vào những nếp nhăn của bao plastic. Một người đàn ông...

    Nick bước lại gần hơn và mở bọc plastic. Ông ta đang ngó ngay mặt anh. Một sợi dây quấn chặt quanh cổ khiến ông ta chỉ còn là một xác chết. Có tiếng nói từ hành lang vọng vào:

    - Đứng yên! Tôi là cảnh sát và anh đã bị bắt!


    ***


    Cảnh sát là một người dong dỏng cao, gương mặt đẹp trai và lạnh lùng. Ông ta là thám tử George Lwondes. Lowndes còng tay Nick và nói cho Nick nghe về các quyền của anh bằng một giọng đều đều. Nick bảo:

    - Ông lầm rồi. Tôi vô đây kiếm chủ nhà, ông Mc Gruder.

    Lowndes đưa Nick xuống thang gác:

    - Ông Tim Mc Gruder đang ngồi trong ghế, anh đã gặp rồi đó.

    - Tôi chẳng hề biết chuyện ông ta chết. Tôi vừa thấy ông ấy, thì ông tới.

    - Anh sẽ có dư thời gian để kể lại chuyện của anh. Lowndes kiểm tra điện thoại ở chân cầu thang và bấm số nói chuyện với trụ sở cảnh sát địa phuơng: “Alô! Lowndes đây! Tôi đang ở nhà Mc Gruder. Tim Mc Gruder đã bị ám sát; và tôi bắt quả tang một tên lén lút thâm nhập nhà của ông ấy”.

    Nick hy vọng cảnh sát sẽ nhận ra ngay rằng họ sai lầm và trả tự do cho anh. Nhưng khi có thêm nhiều cảnh sát, chuyên viên khoa học hình sự và bác sĩ pháp y đến, anh bắt đầu lo lắng thật sự.

    Anh nghe tiếng Lowndes báo cáo với cấp trên rằng Lowndes nhận được một cú điện thoại nặc danh cho biết có một vụ cướp đang xảy ra tại nhà Mc Gruder. Đến nơi, Lowndes thấy cửa sổ bị đập bể kiếng, hệ thống báo động bị vô hiệu hóa; bước vô nhà, anh ta bắt gặp Nick cùng với xác chết.

    Nich tiếp tục kêu oan:

    - Tôi không hề giết ông ta! Có lẽ ông ta đã chết từ lâu.

    Thiếu tá Steinmitz, cấp trên của Lowndes, nhún vai:

    - Bác sĩ pháp y sẽ cho chúng ta biết chính xác vào sáng mai, còn bây giờ anh bị tạm giữ để điều tra. Anh được quyền gọi một lần điện thoại khi về đến trụ sở cảnh sát. Đi thôi!


    ***


    Nick gọi cho Gloria:

    - Anh đã bị cảnh sát bắt!

    - Ồ, Nicky !

    - Có một xác chết trong nhà. Họ nghĩ anh giết ông ấy. Em có thể tới đây cùng với một luật sư cừ khôi được không? Anh đang bị tạm giam tại Long Island.

    - Em sẽ tới ngay!

    Sau khi xong các thủ tục, Lowndes hỏi:

    - Anh có muốn viết tường trình không?

    - Luật sư của tôi sẽ đến liền bây giờ.

    Nhưng Gloria chỉ đến một mình:

    - Em đã gọi điện thoại cho Ralph Aarons. Ông ta là luật sư cừ nhất theo em biết. Ông ta nói sẽ tới đây gặp chúng ta. Có chuyện gì xảy ra vậy, Nicky?

    Mặc dù chỉ có hai người trong phòng, Nick vẫn đề phòng cảnh sát đặt máy ghi âm:

    - Anh nghĩ anh bị mắc bẫy. Người thuê anh trộm đồ đã báo với cảnh sát rằng anh tới nhà Mc Gruder.

    - Còn về chuyện anh đến đó rồi bị bắt?

    - Người ta chỉ việc ngồi sẵn chờ anh đến, dễ ợt! Đáng lẽ anh phải biết việc giương bẫy.

    - Nhưng tại sao?

    - Để khép anh vào tội giết người, hẳn vậy. Anh nghĩ rằng tòa không có đủ bằng chứng để kết án anh, nhưng anh sẽ bị giữ ở đây cho đến khi anh bị cáo buộc và thẩm phán ký lệnh giam anh.


    ***


    Luật sư Ralph Aarons đến ít phút sau đó. Aarons là một luật sư hoạt bát ở Manhattan đã nhiều lần tư vấn cho Nick và Gloria về các công việc làm ăn.

    Aarons ngồi cùng bàn với Nick, mỉm cười:

    - Tôi đã nói sẽ có ngày anh đi quá xa mà!

    - Tôi không hề giết Mc Gruder. Ông ta đã chết, được đặt ngồi trên ghế, có plastic bọc lại cẩn thận khi tôi lần đầu thấy ông ta.

    - Nếu đó là sự thật, chúng ta sẽ không khó khăn gì để bác bỏ việc cáo buộc giết người. Thế nào anh chẳng có chứng cứ ngoại phạm hồi sáng nay và đêm rồi?

    Gloria gật đầu:

    - Anh ấy ở bên tôi suốt.

    Aarons mở cặp, lấy ra một xếp giấy mẫu. Nick nhìn xấp giấy, chợt thấy dao động nhưng không rõ về điều gì. Luật sư nói:

    - Điểm gay go là anh bị bắt bên trong nhà. Anh sẽ khó mà giải thích đấy. Họ sẽ xoáy vào quá khứ của anh và tìm ra một số điều rắc rối. Thế nào rồi thiếu tá Steinmitz và thám tử Lowndes cũng tìm ra cái gì đó!

    - Ông có thể lo liệu cho tôi tại ngoại không?

    - Từ nay đến ngày mai, họ sẽ chưa ghép tội anh mà chờ bản tường trình giải phẫu tử thi. Nếu họ quyết định không cáo buộc anh tội giết người, tôi có thể lo cho anh tại ngoại hầu tra. Anh có nhà và địa chỉ thường trú.

    Steinmitz gõ cửa và bước vô phòng:

    - Thân chủ của ông sẵn sàng viết tường trình chưa?

    Aarons nhìn Nick. Anh trả lời:

    - Bất cứ lúc nào. Tôi chẳng có gì để che giấu cả!

    Gloria được mời ra khỏi phòng và Steinmitz cho gọi Lowndes và người ghi tốc ký vào. Ralph Aarons đẩy ghế đến ngồi cạnh Nick. Khi mọi người đã sẵn sàng, viên thiếu tá quay sang thám tử Lowndes:

    - Trước hết hãy nói về thám tử Georges Lowndes - người bắt được thủ phạm.

    Lowndes trình bày:

    - Tôi nhận được một cú điện thoại nặc danh cho biết có một vụ cướp xảy ra tại nhà Tim Mc Gruder ở North Shore. Tôi đã biết căn nhà này từ khi vợ chồng tôi đôi lần đến đó do quen biết với chủ nhân...

    Thiếu tá Steinmitz cắt ngang:

    - Lần mới nhất anh đến nhà Gruder vào lúc nào?

    - Vào buổi xế chiều tháng sáu, khi chúng tôi đến bể bơi gia đình. Sau đó không bao lâu, chúng tôi được tin vợ Mc Gruder là Michelle đã ly dị chồng và dẫn con đi.

    Nick thấy lạnh sống lưng. Có lá khô trong bể bơi, hẳn phải từ mùa thu rồi. Lowndes không thể tới đó tắm vào tháng sáu. Anh ta nói dối. Và nếu anh ta nói dối về lý do khiến anh ta đến nhà Gruder thì anh ta cũng có thể nói dối về tất cả những việc khác.

    Khi Lowndes kể xong chuyện anh ta gặp và bắt Nick trong nhà, Steinmitz hỏi:

    - Anh làm gì ở đó, Nick?

    - Tôi đang chèo thuyền trên vịnh Sound thì bỗng thấy khó chịu, có lẽ do thức ăn biển trong bữa trưa. Tôi ghé thuyền vào bến và tới căn nhà. Tôi bấm chuông nhưng không ai trả lời. Khi thấy kiếng cửa sổ bể, tôi theo ngả đó vô nhà. Tôi cảm thấy buồn nôn, nên leo lên gác nằm nghỉ, chờ cơn nôn dịu xuống. Hết buồn nôn, tôi vừa đứng dậy định ra đi thì thấy xác chết, và Lowndes xuất hiện, súng cầm tay.

    Lowndes phản bác:

    - Anh vô nhà để ăn cướp. Tim bắt gặp và anh bóp cổ ông ta.


    ***


    Một giờ sau, cảnh sát phát chán vì Nick cứ chối phắt những lời buộc tội. Thiếu tá Steinmitz ra lệnh:

    - Nhốt anh ta lại. Sáng mai anh ta sẽ bị cáo buộc!

    Aarons hỏi:

    - Về tội gì?

    - Nếu bác sĩ pháp y kết luận thời gian chết xảy ra ngay trước khi anh ta bị bắt, anh ta sẽ bị cáo buộc tội giết người cấp độ hai.

    Trước khi bị dẫn đi, Nick được gặp mặt Gloria. Chị trấn an:

    - Aarons sẽ cứu anh. Đừng lo!

    - Chắc ăn, nếu chỉ là tội xâm nhập nhà người khác. Nhưng giết người thì...

    - Anh chưa biết được rằng ai dính líu vô việc này, kể cả Tommy Traylor - Này, anh cần ít thông tin đấy. Anh sẽ kể sơ anh cần những gì.

    - Để em giúp anh việc ấy.


    ***


    Sáng hôm sau, có thêm tin chẳng lành. Ralph Aarons đến lúc 10 giờ, cho Nick biết bản tường trình của pháp y xác định giờ Mc Gruder chết từ khoảng 3g30 đến 4 giờ. Lowndes bắt Nick lúc 4g15.

    - Tên giết người hẳn đã điện thoại cho Lowndes sau khi siết cổ Mc Gruder. Nhưng họ cho rằng có thể anh đã giết Mc Gruder, lục lọi tìm đồ có giá trong nhà, rồi trở lại chỗ xác chết thì bị Lowndes bắt.

    Nick lắc đầu:

    - Lowndes nói láo. Tôi bảo đảm. Anh ta chưa hề tới bể bơi ở nhà Mc Gruder. Anh ta tới đây nhằm mục đích khác, và tôi nghĩ chính anh ta đã giết Mc Gruder. Có thể anh ta siết cổ Mc Gruder trước khi tôi đến. Khi nghe tiếng chân tôi xuống cầu thang, anh ta lấy bao plastic phủ lên tử thi, hy vọng tôi không để ý. Khi tôi phát hiện, anh ta bước ra, rút súng, bắt tôi.

    - Khó đấy, Nick. Anh không thể buộc tội một sĩ quan cảnh sát giết người mà không có chứng cứ chắc chắn.

    - Còn về cú điện thoại? Cảnh sát hắn phải ghi lại. Tôi đánh cá rằng không hề có cú điện thoại nào gọi cho Lowndes vào khoảng 4 giờ chiều; cũng như anh ta không có mặt tại trụ sở vào giờ ấy! Tôi cũng đánh cá rằng chính anh ta đã giết ông Mc Gruder!

    - Tôi sẽ kiểm tra lại. Trong thời gian ấy, tôi cho rằng anh khó lòng giữ bí mật về nghề nghiệp của anh. Họ biết càng ít, anh càng có lợi. Khổ nỗi tôi không thể lo cho anh tại ngoại.

    Một giờ sau, Gloria đến.

    - Em đã nói chuyện với Aarons. Nếu ông ta không thể lo cho anh tại ngoại, em sẽ tìm người giỏi hơn.

    - Đằng nào anh cũng sẽ thoát nạn thôi. Nói cho anh nghe về Mc Gruder.

    - Báo chí sáng nay đều đăng tin ông ta bị giết, ông ta là giám đốc một ngân hàng bậc trung ở Long Island, vừa mới bị chính phủ cho điều tra. Ngân hàng của ông ta đã chuyển số lượng lớn tiền mặt qua ngân hàng Thụy Sĩ mà không báo cáo theo qui định. Người ta nghi ngờ ngân hàng của Gruder rửa tiền cho bọn buôn lậu ma túy hoặc tổ chức tội phạm. Hội đồng quản trị đã bãi chức Mc Gruder vài tháng trước - cũng là lúc vợ Gruder bỏ ông ta. Báo chí nêu giả thuyết Mc Gruder bị một tên đồng đảng giết.

    - Họ có cho rằng anh là kẻ giết người không?

    - Có lẽ vậy, nên Aarons mới không lo cho anh được tại ngoại. Đừng lo. Rồi mọi người sẽ biết sự thật!

    - Đó là điều anh lo. Trong khi họ điều tra để biết anh không dính đến vụ giết người, họ có thể tìm ra những điểm khác bất lợi cho anh.


    ***


    Đại bồi thẩm đoàn họp xét Nick hoãn một ngày, đến thứ năm. Và khuya hôm ấy, Nick lên giường thất vọng hơn bao giờ hết. Aarons nhắn tin ông lo cho anh tại ngoại sớm nhất cũng phải vào đầu tuần tới. Gloria chưa nắm bắt được gì về Tommy Traylor. Nick bắt đầu sợ mình sẽ lãnh án tù dài ngày.

    Sáng sớm hôm sau, thức dậy, Nick thấy các bạn tù đang chuẩn bị cho một ngày mới. Gloria đã gởi cho anh một bộ đồ vía để xuất hiện trước tòa, nhưng giờ đây anh mặc bộ đồng phục dành cho tù nhân.

    Một nữ giám thị trong bộ đồng phục, mũ kết bước đến, lúc anh đang cùng các bạn tù sắp hàng đi ăn sáng. Cô ta kêu lớn:

    - Nick Velvet! Ai là Nick Velvet?

    - Tôi đây!

    - Đi với tôi. Luật sư muốn gặp anh.

    Nick rời hàng, theo cô đi dọc hành lang, rồi quẹo trái theo một hành lang vắng vẻ dẫn đến cầu thang. Lúc họ đi ngang phòng vệ sinh dành cho phụ nữ thì bỗng cô ta đẩy mạnh vai anh, xô anh vô phòng vệ sinh:

    - Cái quái gì vậy?

    - Nhanh lên! Mặc bộ đồ này vô.

    Lần đầu tiên anh nhìn ngay mặt cô, trố mắt:

    - Sandra Paris! Cô làm gì ở đây?

    - Giúp anh vượt ngục. “Mọi điều không thể đến vào trước bữa điểm tâm”, nhớ chứ?


    ***


    Trong hai lần gặp trước, Nick và “Bạch nữ hoàng” Sandra Paris đều có ít nhiều mâu thuẫn, mỗi người lo theo đuổi mục đích riêng. Nên Nick khó chấp nhận sự giúp đỡ của cô. Nhưng đây là cách duy nhất để thoát. Anh nhanh chóng mặc bộ đồng phục giám thị do Sandra Paris đưa, rồi lại theo cô vô hành lang.

    Năm phút sau, anh đã ngồi trong xe hơi của cô, bon bon chạy về hướng Manhattan. Anh ngạc nhiên hỏi:

    - Cô lấy quần áo này ở đâu ra vậy?

    - Ăn căp cộng thêm chút may mắn.

    Cô đã bỏ mũ xuống và anh lại có dịp ngắm mái tóc vàng xõa trên bờ vai cô. Anh thừa nhận:

    - Cô làm tôi ngạc nhiên đấy. Tôi đang nghĩ mình sẽ phải ngồi gỡ lịch ít nhất vài năm.

    - Tôi sẽ không đành lòng để anh như vậy. Anh còn nhớ có lần tôi đã đề nghị chúng mình trở thành một cặp bài trùng chứ?

    - Nhớ!

    - Anh làm gì để đến nỗi bị tóm? Tôi biết anh tới đó không phải để giết Mc Gruder.

    - Cô biết ông ta?

    - Phần lớn nhờ danh của ông ấy - một chủ ngân hàng giàu có, kinh doanh bất chính. Tôi đã gặp ông ta vào mùa hè rồi, trong bữa tiệc sâm-banh buổi trưa ở Hamptons.

    Nick lắc đầu:

    - Tôi đến không đúng lúc!

    - Chúng ta tiến hành công việc theo cách khác nhau. Đôi khi tôi nghĩ với anh chỉ là trò chơi, những thứ bá láp mà anh ăn trộm ấy. Với tôi, không hề là trò chơi. Tôi muốn có tiền. Anh được thuê để lấy cái quái gì trong nhà Mc Gruder?

    - Một hình vẽ lâu đài trên giấy bồi - có thể là một đồ chơi mà con trai Mc Gruder để lại khi vợ ông ta bỏ đi.

    - Tôi đã gặp bà ấy tại bữa tiệc. Đó là một phụ nữ rất đẹp, trẻ hơn ông ta nhiều. Hình như tên bà là Michelle. Có thể bà ta nhúng tay vào cái chết của ông chồng.

    - Tôi nghi ngờ một người.

    - Ai?

    - Tay cảnh sát đã bắt tôi, Lowndes! Hắn nói dối về lý do hắn đến nhà Mc Gruder vào đầu mùa hè. Có thể hắn dính vào chuyện rửa tiền buôn bán ma túy. Tôi cũng chưa rõ Tommy Traylor có dính vảo chuyện này không.

    - Tommy Traylor là ai?

    - Người đã thuê tôi lấy trộm tấm hình ở nhà Gruder. Ông ta biết tấm hình này tại sao lại có giá. Thoạt tiên tôi nghĩ Traylor đã giương bẫy để tôi dính vô vụ giết người.

    - Còn giờ đây?

    - Tôi cần gặp lại ông ta.

    - Tôi có một căn hộ tại Manhattan. Chúng ta sẽ tới đố để anh thay bộ đồng phục này. Anh cũng có thể thử gọi điện thoại cho Tornmy để hỏi kỹ hơn.


    ***


    Giọng Tommy Traylor tỏ vẻ hơi ngạc nhiên:

    - Tôi đây, Nick. Tôi đọc tin về anh trên báo. Tôi cứ tưởng anh đang còn bị giam chứ!

    - Cần gặp anh. Tôi có một số câu hỏi.

    - Anh lấy được hàng chưa?

    - Chưa!

    - Nghe đây, Nick. Anh đang bị truy đuổi. Tôi không thể liều mạng gặp anh. Chúng ta có thể cứ nói chuyện qua điện thoại.

    - Nếu anh không ghi âm.

    - Không đâu. Và điện thoại không bị nghe lén. Anh cứ nói thoải mái. Có phải anh đã giết Mc Gruder không?

    - Không. Còn anh?

    - Không. Tôi chẳng có gì phải chống lại Mc Gruder. Tôi chỉ cần tiền của tôi.

    - Tiền gì?

    - Tiền trong trương mục ngân hàng Thụy Sĩ. Mc Gruder chuyển giùm tôi. Đó là tiền của tôi. Tôi không hề ăn cắp.

    - Tiếp.

    - Có đủ hồ sơ hợp pháp liên quan đến các trương mục của ngân hàng Thụy Sĩ, đặc biệt khi tiền được chuyển từ quỹ của một ngân hàng Mỹ. Ngân hàng của Mc Gruder chuyển một ít tiền giùm tôi và một số bạn bè. Cuối cùng, chính phủ nghi ngờ và mở cuộc điều tra. Hội đồng quản trị ngân hàng sa thải Mc Gruder cách nay ít tháng và số tiền này tự nhiên bị vướng. Mc Gruder nói rằng ông ta không thể làm gì khác hơn vì đã mất chức. Nhưng tôi biết rõ ổng ta đang tính bay đi Zurich vào cuối tuần này với đủ các hồ sơ pháp lý cần thiết, rút tiền ra để sống ung dung đâu đó ở châu Âu hoặc Nam Mỹ cho đến khi hết thời hiệu tố tụng.

    Nick bỗng hiểu ra vấn đề. Anh nhớ lại xấp giấy mẫu pháp lý của Ralph Aarons đã làm anh dao động. Giấy mẫu pháp lý và hồ sơ pháp lý đều cùng khổ giấy 8,5 x 14 inch - cùng khổ với tấm hình vẽ lâu đài trên giấy bồi khi xếp đôi. Nick lên tiếng:

    - Hồ sơ được in bằng mực không hiện ở phía sau lưng tấm hình vẽ lâu đài.

    - Đúng vậy. Chúng bao gồm bí mật về những con số và tất cả mọi thứ cần thiết để rút tiền ra. Tim Mc Gruder vốn lắm điều. Có lần, sau khi uống say, ông ta có nói với tôi về việc này. Ông ta và vợ mỗi năm đều bay qua Zurich đôi ba lần.

    - Tại sao anh biết Mc Gruder tính đi Zurich vào cuối tuần này?

    - Cô thư ký của ông ta cho tôi biết, ông ta nhờ cô giữ cho ông ta hai chỗ vào đêm thứ sáu, với trạm dừng ở Luân Đòn. Tức là đêm nay.

    - Hai chỗ? Ông ta định đi với ai?

    - Tôi cũng không rõ. Khi người ta đi rút tiền trong một ngân hàng Thụy Sĩ, thì thiếu gì người muốn đi theo.

    - Lúc tôi đến nhà Mc Gruder, tấm hình lâu đài đã được rút ra sẵn. Hình như ai đó biết tôi sẽ đến lấy cắp.

    - Chắc Mc Gruder đang chờ ai đó - kẻ đã giết ông ta! Anh đến không đúng lúc.

    - Hẳn là vậy.

    - Anh tính làm gì bây giờ?

    - Làm gì ấy à! Thì tôi sẽ lấy tấm hình lâu đài cho anh.


    ***


    “Bạch nữ hoàng” bình thản ngồi nghe Nick kể.

    - Tôi tin chắc rằng George Lowndes đã giết Mc Gruder. Tôi cho rằng Lowndes sẽ bay qua Zurich thế vào chỗ của Mc Gruder, để rút sạch tiền trong ngân hàng.

    - Anh kết luận hơi nhanh đấy, Nick.

    - Tôi có thể chứng minh điều tôi vừa nói. Cô có chút quan hệ nào với hãng hàng không hay không? Traylor nói Mc Gruder dự định bay đến Zurich vào đêm nay, quá cảnh ở Luân Đôn. Ông ta đăng ký hai ghế. Trong đêm không thể có quá 10 chuyến bay từ New York đi Luân Đôn. Nêu cô biết được số chuyến bay, hãng hàng không, và vé có bị hủy hay đổi tên...

    - Tại sao Lowndes lại thế chỗ của Mc Gruder?

    - Nếu chính anh ta lấy trộm tấm hình, anh ta ắt nôn nóng rút tiền ra.

    - Có lẽ Lowndes còn nôn nóng bắt anh hơn. Khi anh chưa bị bắt lại, chưa chắc Lowndes đã bỏ di.

    - Đáng lẽ anh ta nên như vậy. Đại bồi thẩm đoàn cần Lowndes ra làm chứng về việc bắt tôi.

    Sandra Paris nghĩ một lát, cuối cùng gật dầu:

    - Để tôi lo việc ấy cho.

    - Có gì ăn không? Tôi chưa kịp ăn sáng.

    - Cứ lục tủ lạnh trong khi tôi gọi điện thoại.

    - À, để tôi gọi điện thoại cho Gloria.

    - Đừng. Cảnh sát hẳn nghe lén số máy của anh.

    Nick ăn tạm chiếc bánh sandwich với phó-mát và uống một lon bia. Anh xong bữa thì cũng vừa lúc Sandra gọi điện thoại xong. Cô bước vô bếp, mỉm cười:

    - Tôi giả làm thư ký và gọi cho đến khi tìm đúng chuyến bay. Ông bà Mc Gruder vẫn giữ chỗ trên chuyến bay. Chuyến bay từ phi trường Kennedy đến Luân Đôn, khởi hành lúc 8g30, để tiếp tục qua Zurich vào sáng thứ hai.

    - Khi ngân hàng mở cửa!

    - Đúng thế! Nếu anh bạn thám tử Lowndes của anh đi chuyến bay này, anh ta hẳn đã phải chuẩn bị kỹ.

    - Phải! Nên tôi đang nghĩ kế ăn cắp tấm hình lâu đài tại sân bay.

    - Từ vali của Lowndes?

    - Anh ta không dại gì bỏ nó trong vali để bị kiểm tra, nhất là sau khi anh ta giết người vì nó. Anh ta sẽ mang nó theo sát bên người, trong một cặp da hay xách tay - Anh chợt nghĩ - Cô có máy chụp ảnh lấy liền không?

    - Có.

    - Tốt lắm! Cô hãy đến Long Island và chụp ảnh Lowndes để xem anh ta mang gì lên máy bay. Rồi chúng ta sẽ tráo nó khi thuận tiện.

    - Nhưng làm cách nào để nhận ra chiếc cặp hay xách tay?

    - Cỡ kích thước của tấm hình lâu đài, 8,5 x14 inch.


    ***


    Sandra trở về vào khoảng 4 giờ chiều, khoe:

    - Tôi đóng vai phóng viên, điện thoại tới Lowndes đề nghị sẽ phỏng vấn vào thứ hai tới; nhưng anh ta trả lời phải đi liền. Tôi chờ ở bên ngoài - nơi mà anh ta không thể nhìn thấy. Anh ta rời trụ sở sớm, cầm theo chiếc cặp, đúng như anh dự đoán. Hình đây!

    Nick coi kỹ tấm hình chụp George Lowndes đang mở cửa xe hơi, tay cầm chiếc cặp da đắt tiền, Sandra nói:

    - Có một điểm. Tên tắt của anh ta khắc bằng kim loại gắn trên cặp. GPL. Nhìn kỹ coi, anh có thể thấy trong ảnh.

    - Khó làm giả chiếc cặp này đấy.

    - Anh định làm bộ đụng phải anh ta rồi tráo cặp?

    - Không được! Anh ta sẽ nhận ngay ra tôi và kêu nhân viên an ninh bắt tôi.

    - Vậy làm thế nào?

    - Sẽ suy nghĩ sau. Cứ tìm chiếc cặp giống hệt chiếc cặp của Lowndes.

    Họ đến cửa tiệm thứ ba thì tìm được chiếc cặp giống hệt. Chữ bằng kim loại cũng rất dễ bắt chước. Nhưng Sandra hỏi:

    - Còn trọng lượng cặp thì sao? Nếu chúng ta làm khác, Lowndes sẽ nhận ra ngay cặp nặng hơn hay nhẹ hơn.

    - Chúng ta bỏ vài tờ báo vô cặp và hy vọng sẽ na ná giống. Chắc anh ta không bỏ gì trong cặp ngoài tấm hình lâu đài và vài tờ báo để đọc trong chuyến đi. Nếu trọng lượng có khác chút đỉnh, những chữ viết tắt trên cặp hẳn cũng khiến anh ta yên tâm.

    Trở lại căn hộ, Sandra băn khoăn:

    - Chúng ta làm cách nào để đổi cặp?

    - Chỉ duy nhất có một điểm tại sân bay mà chiếc cặp bụộc phải rời khỏi tay Lowndes - Đó là khi đi ngang máy kiểm tra hành lý, sử dụng tia X. Nếu cô kiếm được bộ đồng phục và thế chỗ cô gái điều khiển máy, thì cô có thể lấy chiếc cặp khi máy kiểm tra cặp của Lowndes. Ở đầu ra, bên kia dây chuyền kiểm tra, Lowndes sẽ nhận được chiếc cặp giả.

    Sandra lắc đầu:

    - Thông thường có hai nhân viên coi máy, chưa kể bảo vệ an ninh đứng gần đó. Có thể nói việc tráo cặp mà không ai nhìn thấy là không thể thực hiện được, vả lại, tôi không thể xách chiếc cặp tráo được bước đi trong khi cả một dòng người đang đợi lấy đồ kiểm tra. Nếu Lowndes phát hiện chiếc cặp bị tráo trước khi máy bay cất cánh, thì tôi không thể tránh khỏi bị cảnh sát tóm.

    Nick thừa nhận Sandra hoàn toàn có lý. Thực hiện việc này có quá nhiều rủi ro. Anh trầm ngâm:

    - Gần 5 giờ rồi. Chúng ta không còn nhiều thời gian để nghĩ ra kế hoạch nào khá hơn.

    Sandra lục tủ, lấy ra một vali cỡ trung:

    - Tôi có thứ này. Vali với ngăn phụ, một dụng cụ thông dụng của các tay trộm cắp chuyên nghiệp. Phía dưới vali được ngăn đôi. Anh chỉ việc đặt nó lên ngay vật anh muốn tráo; thế là khi xách vali lên, vật ấy sẽ chui tọt vô trong ngăn. Nếu anh muốn tráo đồ thì chỉ việc đặt vật muốn tráo vô sẵn trong ngăn. Đã có lần tôi sử dụng vali để lấy cắp bản kế hoạch chi tiết một loại xe hơi mới từ văn phòng kiến trúc. Lúc họ biết chuyện thì tôi đang ung dung trên máy bay tẩu thoát rồi!

    Nick gật đầu:

    - Được đấy, nếu Lowndes rời tay khỏi cặp.

    Nick tin Sandra sẽ thành công lần này khi họ đang trên đường đến sân bay. Sandra lý luận:

    - Lowndes không biết tôi, nên tôi chỉ cần đứng hay ngồi gần bên anh ta và chờ cơ hội.

    - Nếu cô lấy được tấm hình lâu đài, cô sẽ được chia số tiền mà Traylor trả công cho tôi.

    - Dĩ nhiên. Tôi đã nói với anh rằng tôi không làm việc gì miễn phí!

    Họ ngồi chờ ở phòng đợi. Thời gian lặng lẽ trôi. 6g30 rồi 7 giờ. Nick bắt đầu lo:

    - Hay Lowndes không đi?

    - Còn cả 1g30 phút nữa mới đến giờ bay mà!

    - Người ta vừa thông báo hành khách phải đến sân bay sớm một giờ trước khi máy bay cất cánh.

    Chính Sandra thấy Lowndes trước, lúc anh ta sắp hàng đăng ký vé.

    - Anh ta kìa!

    Tay thám tử Lowndes rời quầy đăng ký vé, mang theo chiếc cặp đen. Một phụ nữ trẻ đẹp khoác tay anh ta. Sandra ồ lên một tiếng nho nhỏ, vẻ kinh ngạc. Nick hỏi:

    - Ai vậy?

    - Michelle, vợ góa của Mc Gruder!

    - Mọi chuyện đều đã rõ. Lowndes đến nhà gặp tình nhân. Chắc Michelle đã cho anh ta biết bí mật về tấm hình lâu đài. Thậm chí có thể chính Lowndes gây nên chuyện đổ vỡ hôn nhân của Mc Gruder. Có lẽ bà ta thông đồng để tình nhân đến lấy tấm hình và giết Mc Gruder. Có thể chính bà ta đã đăng ký 2 vé máy bay, chứ không phải cô thư ký của chồng bà ta.

    Sandra nói:

    - Vấn đề là tôi đã có lần gặp Michelle Mc Gruder tại bữa tiệc đã kể anh nghe chuyện này. Bà ta hẳn sẽ nhận ra tôi và bắt chuyện. Vậy làm sao tôi tráo cặp được?

    - Cứ lại thử coi. Nếu bà ta nhận ra cô, tôi sẽ tìm cách làm họ phân tám.

    Anh lấy tờ báo che mặt khi Sandra lại gần hàng ghế nơi Lowndes và Michelle đang ngồi. Trước khi cô tới chỗ họ, một hành khách khác chiếm mất chiếc ghế trống duy nhất cạnh Lowndes. Giọng nói trong hệ thống thông tin sân bay vang lên:

    - Chuyến bay 223 đến sân bay Heathrow Luân Đôn, khởi hành lúc 8g30. Hành khách sẽ lên máy bay trong năm phút nữa. Xin quí khách cầm sẵn vé và giấy thông hành để tiện việc kiểm tra.

    - “Chỉ còn năm phút nữa, có lẽ tấm hình lâu đài sẽ vuột mất”, Ních nghĩ thầm và thất vọng.

    Rồi anh thấy Sandra đứng dậy, bước đến kế bên họ, tay xách vali. Cô nói gì đó với Michelle và nét mặt người thiếu phụ sáng lên. Bà ta mỉm cười, bắt tay cô; còn George Lowndes lịch sự đứng dịch sang một bên. Chiếc cặp đen của anh ta để dưới sàn, ngay chân anh.

    Nickquay mặt, lo sợ, không dám nhìn họ. Vài giây sau, khi anh quay đầu lại, Sandra đã khéo léo đẩy Lowndes dịch xa ra một chút và đặt vali của cô lên ngay chiếc cặp. Mười phút sau, cô trở lại gặp anh.

    - Xong việc chứ?

    Cô mỉm cười:

    - Tất nhiên, nó nằm trong này! Họ chẳng nghi ngờ chút nào, khi tôi nhắc lại với Michelle rằng chúng tôi đã gặp nhau ở Hamptons. Tôi phải đứng loanh quanh chờ đến khi họ lên máy bay, nhưng Lowndes lấy cặp lên mà chẳng hề để ý gì cả.

    Anh cầm vali giùm cô và họ bước đến cổng ra. Anh nói:

    - Thật may cho cô vì vali không phải qua máy dò tia X.

    Bỗng họ nhận ra thiếu tá Steinmitz đứng... trước mặt họ!


    ***


    Chính thiếu tá là người lấy lại vẻ bình tĩnh trước:

    - Anh làm gì ở đây vậy, Nick? Anh cũng định rời Mỹ sao?

    Đứng cạnh Nick, Sandra sợ đến cứng người. Nick đã toan gạt viên thiếu tá qua một bên rồi vắt giò lên cổ chạy, nhưng có vẻ gì đó trong thái độ của Steinmitz khiến anh lưỡng lự. Anh làm bộ vui vẻ:

    - Chào thiếu tá. Rất mừng khi gặp lại ông.

    - Có trát gởi anh đấy. Vượt ngục, trốn ra nước ngoài để khỏi bị truy tố - ông vẫy một cảnh sát đi phía sau ông để canh chừng Nick - Tôi sẽ nói chuyện với anh sau khi lo xong cho George Lowndes.

    Môt tia sáng lóe trong óc Nick:

    - Ông đến đây kiếm Lowndes hả? Anh ta lên máy bay đi Luân Đôn rồi!

    - Tôi biết. Anh ta sẽ không ra khỏi đây được đâu.

    - Ông biết anh ta giết Mc Gruder?

    Steinmitz gật đầu:

    - Chúng tôi có đủ bằng chứng. Bằng chứng về chuyện Lowndes dan díu với vợ của Mc Gruder; về chuyện anh ta ghi vào sổ điện thoại tại văn phòng cảnh sát để chứng tỏ câu chuyện cú điện thoại nặc danh báo về vụ cướp là có thật. Không có cú điện thoại nào như thế! Vậy anh ta đến nhà Mc Gruder để làm gì? Chúng tôi có những nhân chứng biết anh ta rời trụ sở lúc 3 giờ, và một hàng xóm nhà Mc Gruder thấy anh ta đến đây vào lúc 3 giờ rữa. Anh ta đã giết ông Mc Gruder và khi anh vô nhà, anh ta nghĩ cách gán cho anh tội giết người.

    Nick hỏi:

    - Vậy tôi thoát tội chớ?

    - Không hoàn toàn. Nhưng tôi cho rằng tôi có thể xí xóa cho anh nếu anh ký giấy hứa không kiện cảnh sát bắt oan anh. Không có chứng cứ nào về việc anh lấy đồ trong nhà Mc Gruder. Sáng mai anh đến gặp tôi được không?

    - Tất nhiên là được. Tôi đâu có điên.

    Họ nán lại nhìn Lowndes và bà Mc Gruder bị dẫn giải từ sân bay ra, rồi mới lên xe hơi của Sandra. Lần đầu tiên trong ngày, Nick cảm thấy thoải mái:

    - Bây giờ chúng ta chỉ việc đưa tấm hình lâu đài cho Traylor. Tôi đoán Steinmitz chẳng thể biết mình có tấm hình này.

    - Tôi đã nói với anh rằng chúng ta sẽ trở thành một cặp bài trùng ngon lành mà! Tuy nhiên có đôi điều tôi nghĩ nên cho anh biết sớm.

    - Điều gì vậy?

    - Anh biết đấy, tôi không làm việc chơi chơi. Việc nguy hiểm phải được trả tiền khá chứ?

    - Cô nói sao?

    - Gloria cho rằng luật sư không đủ giỏi để đưa anh ra khỏi trại giam. Nên chị ấy thuê tôi cứu anh ra khỏi nhà tù. Bây giờ tôi chở anh về nhà gặp chị ấy để tôi lãnh tiền!



    (HẾT)
     
    meetdak, vuivui2013, tducchau and 2 others like this.
  6. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CHIẾC VÒNG NGỌC

    Truyện của Tào Hiểu Lam

    Đông Phong dịch


    Mãi cho đến một ngày, tôi nhận được một gói đồ do anh ấy gởi đến, khi mở ra, đó là một chiếc vòng ngọc đã vỡ được kết dính lại.

    Năm 21 tuổi, tôi trải qua một giấc mộng.

    Vào đời Đường, một cô gái trong trang phục Đường ngồi thất thần trên băng ghế gỗ trong ngôi chùa Vĩnh Thanh, một vị ni già tay cầm kéo đang xuống tóc cho cô. Cô gái lung linh nước mắt, một tay đang xoay tròn chiếc vòng ngọc trên cổ tay kia.

    Người tặng chiếc vòng là một chàng thư sinh, chàng tặng cho cô gái ấy chiếc vòng ngọc phỉ thúy gia truyền và thề rằng sẽ không cưới ai khác ngoài cô. Nhưng cuối cùng, anh đã rời xa cô.

    Một lọng tóc mượt mà rơi xuống, chiếc vòng ngọc cũng vuột khỏi tay cô gái trong trang phục đời Đường, nó vỡ tan.

    Giấc mộng chỉ là bấy nhiêu.

    Khi tôi học đại học, có nghiên cứu tiểu thuyết cổ điển “Hồng lâu mộng”. Ấn tượng mà tôi để lại cho người khác về mình là một cô bé vênh mặt lên trời, không biết trang điểm. Nhưng có một chi tiết mà rất ít người để ý đó là trên cổ tay tôi lúc nào cũng leng keng một chiếc vòng.

    Vòng đeo tay do nhiều người tặng, mỗi ngày tôi đều thay chúng, không cố định. Nào là Cảnh Thái lam, sợi tay bạc, sợi tay xoắn, theo thời gian chúng được chất đầy trong hộp trang sức của tôi.

    Vào một buổi chiều, trời đột nhiên mưa to nổi gió, tôi trú mưa bên dưới một căn nhà màu hồng, một người bán hàng già với khuôn mặt đầy những nếp nhăn cũng đến trú mưa. Một làn gió thổi qua, hàng trang sức trên quầy chạm nhau làm vang lên một âm thanh thanh thoát, vui tai. Tôi quay đầu lại, không khỏi ngạc nhiên. Toàn là vòng tay, mà là vòng ngọc đời Đường. Chiếc nào cũng đẹp hơn chiếc của tôi.

    Trong lúc mải mê nhìn, đột nhiên tôi ngây người ra. Chiếc vòng đeo tay trong giấc mộng hôm đó xuất hiện trên kệ hàng của người bán hàng già, đúng là chiếc vòng ngọc phỉ thúy trên tay cô gái trong trang phục đời Đường rơi xuống vỡ tan.

    Tôi đã hỏi câu chuyện về chiếc vòng ngọc đó. Người bán hàng già kể: “Cô à, chiếc vòng ngọc này là vật gia truyền của nhà tôi đấy. Vào đời ông cố tôi, nó vốn là một cặp. Ông ấy tặng một chiếc cho một cô gái tên là Thu Nghi và xem nó như là vật đính hôn. Ông ta yêu người con gái ấy. Đáng tiếc, Thu Nghi lại là người hầu trong phủ, tuy xinh đẹp nhưng địa vị thấp hèn, nếu cưới cô ta sẽ làm mất thanh danh của gia đình. Bà cố biết được, tuyệt thực 7 ngày. Trong tình thế bất đắc dĩ, ông cố đã chấm dứt qua lại với Thu Nghi và dự tính sau này sẽ tìm cách cùng Thu Nghi bỏ trốn. Không ngờ, sự việc bị bà cố biết được, thế là tin đồn được lan ra, đó là ông cố đã cưới một cô gái giàu sang khác! Đến khi ông cố biết được chạy tìm Thu Nghi thì không biết cô đã đi về phương nào.

    Sự ra đi của Thu Nghi là một cú sốc rất lớn đối với ông cố. Ông khống còn tâm trí để mưu cầu công danh nữa mà nguyện đi làm một người bán hàng rong chuyên thu mua vòng ngọc, ông hy vọng bằng cách này có thể tìm được Thu Nghi. Nhưng ông mãi mãi không tìm được chiếc vòng đó. Sau đó, ông nội tiếp tục tìm cho ông cố,... và nay tôi lại tiếp tục...”

    Người bán hàng già nói xong, vô cùng xúc động.

    Sau ngày hôm đó, chiếc vòng trên cổ tay tôi cuối cùng đã được cố định, đó là chiếc vòng phỉ thúy mà người bán hàng già tặng cho tôi.

    Tháng hai đầu mùa xuân, một chàng trai tên là Chu Nhan gõ vang cánh cửa phòng ký túc xá của tôi. Anh là biên tập viên của một nhà xuất bản ở Thượng Hải đến giúp tôi hoàn thành một tập bản thảo.

    Để đáp lại, tôi mời anh uống cà phê tại quán Tì Đức Bảo gần trường. Chu Nhan 30 tuổi, mặt mày khôi ngô tuấn tú. Anh nhìn tôi với đôi mắt sâu thẳm. Anh chú ý đến chiếc vòng ngọc phỉ thúy trên tay tôi. Anh nhìn chăm chăm vào chiếc vòng, nhìn rất lâu.

    Hôm sau, anh mang bản thảo của tôi trở về Thượng Hải.

    Trong quá trình xuất bản sách, quan hệ giữa tôi và anh trở nên khăng khít, số lần điện thoại đường dài từ Thượng Hải mỗi ngày một nhiều. Rồi đến một hôm, tôi và anh tuy vẫn giữ ống nghe nhưng không nói nên lời.

    Chu Nhan nói, vì tôi nên anh nhất quyết thành lập một nhà xuất bản để chỉ phục vụ cho việc phát hành tiểu thuyết của tôi. Lúc đó, ngày tốt nghiệp vẫn chưa biết là bao giờ nên tôi cố ý lạnh nhạt với anh. Rồi nhớ đến giấc mơ đó, tôi cảm thấy tình yêu bây giờ sao mông lung đến thế. Còn Chu Nhan thì mỗi ngày một yêu tôi say đắm.

    Cho đến một ngày, tôi nhận được một gói đồ do anh ấy gởi đến, khi mở ra, đó là một chiếc vòng ngọc đã vỡ được kết dính lại. Trên tấm thiệp, Chu Nhan ghi như sau: “Vào đời Đường, một ni cô đã dùng phần đời còn lại của mình kết dính lại chiếc vòng ngọc này có lẽ với mong muốn ở kiếp sau, nó có thể bù đắp một phần cho sự nuối tiếc, tác thành tình yêu của một đôi trai gái chăng?”

    Tôi đã khóc.

    Ba năm sau, tôi và Chu Nhan cưới nhau.*
     
  7. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    LẠC ĐẠN

    Truyện của Angela Noel
    Ninh Bình phỏng dịch


    Tác giả: Angela Noel sinh năm 1931 và hiện đang sống tại Lancashire, nơi bà quản lý một trại nuôi ngựa. Hầu hết những tác phẩm của bà bao gồm các truyện ngắn đăng trên các tạp chí dành cho phụ nữ. Đồng thời, bà cũng xuất bản bốn tiểu thuyết tình cảm, tất cả đều đặt bối cảnh ở miền quê nước Anh. Cuốn sách mới nhất của bà có tựa Hãy nhớ đến em. Truyện Lạc đạn này được in lần đầu vào tháng ba năm 1980 trong tuyển tập Những bí ẩn của Luân Đôn.

    Mặc dù câu chuyện đặt bối cảnh ở xứ Wales, ý tưởng trong đó được rút ra từ một bài tường thuật trên báo về một sự kiện có thật trong cuộc sống có liên quan đến hai anh em người Tây Ban Nha, một người bị kết tội mưu sát người kia.


    Câu chuyện:

    Tính sở hữu dường như là một đặc tính cơ bản của con người: nó thôi thúc người ta phải chiếm hữu mọi vật dụng - và cả con người. Và nếu như những thứ thuộc quyền sở hữu của chúng ta bị vuột khỏi tầm tay, cảm giác bực bội về sự bất công của cuộc đời có thể sẽ bùng lên rất mạnh. Người ta nói rằng trong mỗi người chúng ta đều có một tên sát nhân hiện diện, rằng nếu như áp lực đủ lớn, bất kỳ ai cũng có thể bị lôi cuốn vào hành vi bạo lực. Ý nghĩ đó quả là không dễ chịu tí nào.

    Trong một thung lũng xinh đẹp ở xứ Wales, suốt trong nhiều năm, Owen Parry đã nghiền ngẫm và cay đắng về sự bất công của cuộc đời. Sự bực bội của hắn ta tập trung vào người em tên Huw. Huw đã lấy được Rhiannon, Huw được sống trong một ngôi nhà tiện nghi, Huw đã gây ra cái chết hàng loạt của bầy cừu. Chỉ có Huw đứng chắn giữa Owen và hạnh phúc, và lẽ ra người được sở hữu tất cả phải là Owen...

    Owen đã định đeo găng tay. Hắn ta có một đôi cũ bằng da màu nâu mà hắn thường mang vào những dịp đi nhà thờ trong mùa đông. Nhưng bàn tay nông dân của hắn thường trở nên quá thô kệch trong cặp găng, vả lại, đây là một công việc đòi hỏi sự nhẹ nhàng và tinh tế.

    Hắn ngừng lại và nhìn quanh với một nụ cười hơi đểu trên môi. Tại sao lại cứ phải bận tâm với đôi găng? Đây là nhà riêng của hắn, phải không nào? Thế nào mà cảnh sát chẳng tìm thấy vô số dấu tay của hắn ở mọi nơi. Hai chiếc ghế bằng gỗ của hắn được sắp xếp đấu lưng với nhau, cách xa một khoảng cách đã được đo lường cẩn thận.

    Cây súng cũng của hắn. Đương nhiên là nó có dấu tay của hắn. Hiện giờ cây súng được đặt ngang lưng hai chiếc ghế, cột chặt bằng dây. Nó đang chĩa vào cánh cửa duy nhất.

    Khẩu súng được lên đạn sẵn. Một sợi dây cột vào cò súng, đầu kia nối vào tay nắm cửa. Khi cánh cửa được mở ra, sợi dây sẽ giật cò súng. Có bao giờ mà em hắn chịu mở cửa nhẹ tay đâu. Trong một lúc bụng dạ của Owen hơi nôn nao, nhưng hắn vẫn tiếp tục công việc. Bật ngọn đèn lên để mời gọi, hắn tự nhủ, hắn rời khỏi ngôi nhà bằng cửa sổ.

    Em hắn thường hay ở đây trước giờ đi chầu buổi tối.


    “Để nói chuyện về việc bổ sung lại bầy gia súc cho trại” Owen đã nói dối như vậy để dụ Huw đến.

    “Hả, bổ sung bầy gia súc à?” Huw đã hơi càu nhàu, “Bàn tính chuyện tương lai hả?”

    Cả hai gương mặt vẫn còn xanh xám vì cơn ác mộng họ vừa trải qua: dịch lở mồm long móng đã tàn phá trang trại của họ. Do lệnh của chính phủ, người ta giết hết đàn gia súc. Cả mấy con chó của họ nữa, những con chó xinh đẹp, thông minh và trung thành. Thậm chí cả con Beth, con chó mà cả hai người quý nhất.

    Owen thở dài khi nghĩ đến Beth nhưng đồng thời những kỷ niệm về con chó yêu quý đã củng cố thêm quyết tâm của hắn. Hắn đã chịu đựng quá đủ rồi. Hắn bắt đầu đi vào làng để tạo chứng cứ ngoại phạm.

    Thậm chí ngay cả lúc này, hắn cũng cảm thấy cảm xúc đang dâng tràn về cái nơi hắn đã quen thuộc, từng cái sườn đồi thoai thoải, dòng sông uốn khúc lấp lánh ánh bạc và cả khu đất nơi gia đình đang chung sống.

    Chẳng bao lâu nữa tất cả những thứ đó sẽ là của hắn và chỉ mỗi mình hắn. Hắn sẽ làm việc, chăm sóc và làm sống lại trang trại. Những ngọn đồi sẽ vang lên tiếng kêu của bầy gia súc khoẻ mạnh. Mấy con chó sẽ lại xuất hiện, chạy lăng xăng trên cánh đồng cỏ gần dòng sông.

    Dù vậy, chắc sẽ chẳng bao giờ có một con chó giống như con Beth được. Thậm chí ngay hôm nay, trên con đường vào làng, Owen còn nghe thấy tiếng sủa của nó ở bãi nhốt cừu trên đồi, phía sau căn nhà của hắn.

    Chung sống với em hắn! Hừ! Huw đã lấy Rhiannon, cô gái mà cả hai người cùng yêu, một cô gái xinh xắn, dễ thương, dịu dàng, cả hai người đó đã chiếm phần đất tốt, đẩy hắn ra tận ngôi nhà cũ kỹ phía bờ sông.

    Tệ nhất là, sau một hai năm đầu, Huw không mang lại hạnh phúc cho Rhiannon. Cuộc hôn nhân của họ, bất hạnh vì không có con, đang bắt đầu héo úa từ từ.

    Huw là một gã đàn ông tóc đen, giọng trầm và khoẻ như vâm. Đối với anh ta, việc không có con đã gây tổn thương và làm anh ta mất mặt. Anh ta tưởng tượng dân làng đang cười khẩy sau lưng mình “Nhìn thằng Huw Parrykìa, có cả nửa cái thung lũng cùng với anh hắn, thế mà lấy vợ năm năm rồi vẫn không làm cho vợ có bầu được!”.

    Thế thì còn ai khác trong cái thung lũng này mà Rhiannon có thể trông cậy, ngoài người anh chồng? Bộ cô ta không biết, trong khi bất kỳ người phụ nữ nào cũng biết, rằng lúc nào hắn cũng yêu cô sao?

    “Anh giống như dòng sông, anh Owen ạ”, cô nói với hắn, “chảy chầm chậm và sâu lắng”.

    Hồi còn nhỏ, hai anh em thường chơi đùa, nhảy múa và cả hôn cô nữa. Nhưng bây giờ họ không còn là trẻ con nữa. Có một ngày, Owen bồng cô em dâu lên tay và giấc mơ hắn ta hằng nuôi dưỡng trong nhiều năm im lặng đã trở thành sự thực.

    Nhưng sự ra đời của Margo đã làm Huw thay đổi đến nỗi cả Owen và Rhiannon phải kinh ngạc. Có vẻ như suốt đêm Huw cứ đứng nhìn con. Hắn ca hát lúc làm việc và phô bày một sự dịu dàng mà hai người kia chưa bao giờ trông thấy trước đó.

    Lần thứ hai trong đời, Owen nhìn thấy Rhiannon tách rời hắn và dính chặt vào với Huw. Ngọn lửa cũ trong lòng hắn lại tiếp tục âm ỉ, yên lặng và đầy đe dọa. Thế nào nó cũng bùng cháy lên một ngày nào đó.

    Cuối cùng, việc cả bầy gia súc bị giết là cái mồi làm ngọn lửa bùng lên.

    Lẽ ra mấy chuyện đó không nên xảy ra. Owen đã từng nhủ đi nhủ lại bao nhiêu lần điều đó. Họ phát hiện một con cừu chảy nhớt dãi, chỉ một con thôi, và lẽ ra họ có thể thủ tiêu nó một cách bí mật. Rồi sau đó với vài lít thuốc tẩy, họ sẽ cố gắng, ít ra cũng thử cố gắng, để bảo vệ đàn gia súc tránh khỏi cái tai họa của dịch bệnh đó.

    Thế mà không được! Cái thằng Huw liêm chính và sùng đạo đó, hắn báo cho nhà chức trách. Trẻ hơn và khoẻ mạnh hơn, hắn tống Owen sang một bên và mạnh dạn cầm lấy điện thoại. Cơn ác mộng đã xảy ra. Thanh tra thú y đến và ban hành án tử cho cả bầy cừu và chó.

    “Tao hy vọng là mày đã thỏa mãn rồi”, Owen nói với Huw đêm hôm đó và cảm thấy nỗi căm giận em hắn đã vượt qua cái ngưỡng chịu đựng và trở nên khó kềm chế.

    Owen đã kêu gọi Rhiannon lần cuối. Huw đang ở bên ngoài, nhìn đăm đăm dòng sông một cách ủ ê. Họ nghe thấy tiếng Margo đang chơi trong sân, gọi tên con chó Beth một cách thảm thiết.

    “Huw không dám nói cho con bé biết chuyện anh ấy đã phải bắn chết con chó” Rhiannon nói một cách dịu dàng, mắt nhìn chồng qua cánh cửa sổ nhà bếp. “Em sẽ không bao giờ quên cảnh tượng anh ấy để con Beth chạy ra xa, ve vẩy cái đuôi, ngoan ngoãn tuân lệnh cho tới tận lúc ấy. Lúc nào Margo cũng cưng nó nhất, và anh ấy rất đau khổ khi phải làm chuyện đó”.

    Owen choàng cánh tay qua vai Rhiannon. “Chúng ta không thể cứ tiếp tục mãi thế này được, em à”, hắn nói. “Em phải nói hết sự thực cho Huw biết. Để hắn đi tìm một trang trại khác. Chúng ta sẽ nuôi một đàn gia súc mới ngay khi họ cho phép và sẽ xây dựng lại một mái gia đình ngay ở đây”.

    Hắn liếc nhìn một cách thèm muốn bức tường vững chắc, sự rộng rãi và kiên cố của ngôi nhà, hoàn toàn khác biệt với mái lều tranh tồi tàn của hắn.

    Nhưng khi hắn quay lại nhìn Rhiannon, cái vẻ vô cảm của nàng làm hắn cụt hứng.

    “Anh điên rồi sao?” Cô nói: “làm sao em có thể nói anh ấy đi sau tất cả những gì anh ấy đã chịu đựng, sau sự sụp đổ và tai họa này? Làm sao em dám cướp hết đất đai và con cái của anh ấy?”

    “Con của ai?” Owen hỏi .

    Rhiannon tái mặt. “Chúa tha tội cho con. Nhưng anh ấy đã cư xử như một người cha hết sức tốt của nó”.

    Owen xoè bàn tay ra: “Em sẽ chẳng có đứa nào nếu em không ngủ với anh”.

    Rhiannon lắc lắc cái đầu có mái tóc dài và đen của cô. “Em biết anh rất tốt với em khi cuộc sông hôn nhân của em không được hoàn toàn. Em cần anh lúc ấy, anh Owen ạ. Nhưng anh Huw và em đang rất hạnh phúc. Chắc anh cũng thấy đó. Anh ấy đã trở thành một người khác. Anh ấy tôn sùng Margo và em sẽ không để cho anh lấy con bé ra khỏi tay anh ấy đâu. Em sẽ chối bỏ những gì anh nói và anh ấy sẽ tin em thôi”.

    Owen chộp lấy vai của Rhiannon, đôi vai mỏng manh dưới bàn tay đầy ham muốn của hắn, và lắc mạnh. Mái tóc của cô rủ ra phía trước. Cô hất đầu lên nhìn hắn thách thức.

    Hắn rất muốn gầm lên “Em đã lợi dụng tôi như một con cừu đực” nhưng lại cố gắng kềm chế. Nếu mất Rhiannon, cuộc sống của hắn sẽ chẳng còn có ý nghĩa gì.

    Hắn quay lưng bước đi, cảm thấy mệt mỏi về điều hắn phải làm.

    Đêm hôm đó Owen khóc một mình trong căn nhà tồi tàn của hắn. Và nỗi đau sâu lắng nhất của hắn là con bé Margo, đứa con mắt nâu của hắn. Chẳng có ca đoàn nào hát hay như tiếng cười của nó.

    Lúc Huw còn sống thì đương nhiên Rhiannon là vợ hắn và Margo là con hắn. Làm sao Owen có chọn lựa nào khác được? Một người đàn ông chỉ có thể được - hay mất - thế thôi.

    Owen nghiền ngẫm kế hoạch trong một tuần. Có lẽ hắn nên tự tay bóp cò - nhưng hắn biết rằng hắn không đủ can đảm. Huw chỉ cần nhìn hắn bằng đôi mắt đen dữ dội là bao nhiêu sức lực hắn sẽ tan biến ngay. Vả lại, làm cách nào để thuyết phục người ta tin rằng đó la một tai nạn?

    Không được, chính Huw sẽ phải bóp cò súng. Và liệu người ta có chịu tin rằng việc tàn sát hết bầy gia súc, sự nghiệp cả một đời, là động cợ để một người tự tử? Gần đây, sau vụ mất mát, Huw có vẻ gì tuyệt vọng không? Còn chỗ nào tốt hơn là ngay căn nhà này?

    Ý tưởng về cái bẫy nảy sinh từ đó.

    Một cách miễn cưỡng, Huw đồng ý đến nhà của Owen vào chiều chủ nhật để bàn về trang trại. Huw sẽ mở toang cánh cửa và tất cả sẽ xong xuôi. Sẽ không ai nghi ngờ gì. Một cái giá quá rẻ để mua lấy hạnh phúc cho một người, Owen nghĩ.

    Owen sẽ đi bộ về nhà sau khi tan lễ, bảo đảm chắc chắn chứng cớ ngoại phạm của hắn. Chỉ mất có vài phút để ngụy tạo bằng chứng, xóa sạch mọi dấu vết dây nhợ và đặt khẩu súng vào bàn tay của người chết. Sau đó Owen sẽ giả vờ kinh hoàng chạy đi báo cảnh sát. Người góa phụ sẽ khóc than trong vòng tay an ủi của hắn.

    Trái tim của Owen đập mạnh trong lồng ngực khi hắn rời khỏi căn nhà và để lại khẩu súng, đã nạp đạn sẵn, phía sau lưng.

    Ngôi làng như đông lại trong một buổi chiều chủ nhật yên tĩnh. Dù vậy, khí hậu không hẳn là quá lạnh đối với bà Price, chủ tiệm tạp hóa, lúc nào cũng ngồi ở bậc cửa. “Không có gì làm buồn ghê nhỉ?”, bà ta gợi chuyên.

    Owen ngừng bước. Còn nhân chứng nào tốt hơn trong buổi chiều hôm nay, bà ta với cái đầu óc bé như cái ổ sóc, nhồi nhét toàn những nghi ngờ và chuyên môn ngồi lê đôi mách.

    Sau cùng khi bà Price ngừng nói huyên thiên, hắn ghé thăm bà Hughes và lịch sự hỏi thăm về chứng bệnh thấp khớp của bà ta. Bà Hughes mời hắn dùng trà.

    Owen đi khỏi nhà bà Hughes khi gần đến giờ lễ. Hắn bước vào nơi tôn nghiêm đó, đóng cánh cửa đánh ầm và phá vỡ sự im lặng bằng cách ho một tràng.

    Sau đó, bỏ qua sự bất kính của hắn, người ta hỏi thăm hắn về Huw. Họ nói “Không thể nhớ được lần cuối cùng anh ta đến đây là lúc nào”.

    Owen lắc đầu và thì thào về sự sa sút gần đây.

    Dù trời đang lạnh, Owen toát mồ hôi khi hắn rời con đường làng và khi bước chầm chậm trên bãi cỏ về nhà.

    Đến bậc cửa, hắn rút tay ra...

    Khoan đã. Có khi khẩu súng còn nằm yên đó, nếu như vì lý do nào đó Huw không đến. Thậm chí trong chuyện chết chóc, hắn cũng không tin em hắn. Hắn nghiêng mình nhìn qua cửa sổ.

    Tiếng rú của Owen xé rách màn đêm.

    Hắn chạy bổ vào trong nhà, hàm trễ xuống, mắt nhìn thô lố, tay vò đầu. Hắn há hốc miệng ra nhìn trừng trừng hai thi thể đang nằm dài trên sàn nhà.

    Đó là Margo và con Beth.

    Hắn lấy chân hích nhẹ vào con chó. Nó đã chết cứng. Hắn không thể chạm vào người đứa bé. Cô bé là con ruột của hắn. Hắn ôm mặt khóc.

    Đầu óc hắn giờ đây đầy ắp hoang mang và kinh hoàng. Dần dần, sự thực loé lên trong cái đầu mờ mịt của hắn.

    Huw đã đánh lừa hắn. Anh ta đã không bắn chết con chó theo lệnh của chính quyền, mà chắc hẳn đã giấu nó đâu đó. Owen chợt nhớ ra tiếng sủa ma quái hôm nào ở phía chuồng cừu. Thảo nào! Rồi ngày hôm nay nó sổng ra, hoặc có lẽ Margo phát hiện và thả nó ra, rồi con bé và con chó chạy xuống sườn đồi tới nhà hắn để báo cho bác Owen biết tin vui...

    Hắn chỉ mất có vài phút để tháo bỏ mấy sợi dây, nạp đạn lại và bắn một phát vào đầu...

    Tiếng súng nổ đánh thức đứa bé. Margo choàng tỉnh và khóc váng lên, vì tiếng súng tái hiện nỗi kinh hoàng của nó. Nhìn đăm đăm vào con Beth đang nằm bất động, cô bé nhớ lại lúc đuổi theo con chó và lúc con chó nhảy cẫng lên xông vào cánh cửa nha Owen, tiếng nổ khủng khiếp, con chó ngã xuống, rên rỉ và co giật. Margo đã lao mình xuống ôm chầm lấy con chó, vuốt ve nó, cố gắng lay tỉnh nó, và do vậy mình mẩy cô bé đẫm đầy máu của con vật. Chắc là cô bé đã khóc cho đến khi kiệt sức ngủ thiếp đi trên sàn nhà.

    Lúc này cô bé chồm dậy và chạy ào ra khỏi căn nhà, vừa chạy vừa hét vang. Trên đường đi, loạng choạng vấp ngã mấy lần trong ánh trăng, bé tông phải Huw.

    “Ồ, Margo của bố, bố đi tìm con cả hai tiếng đồng hồ”, Huw nhấc bổng đứa bé lên và hồ hởi cõng nó về nhà, trong lòng tạ ơn Chúa về sự an toàn của đứa con gái yêu.

    Anh ta quyết định không vào nhà gặp Owen nữa vì đã quá muộn. ★

    (Từ tập “Crime Never Pays”của nhiều tác giả)
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/1/24
    meetdak, amylee, vuivui2013 and 2 others like this.
  8. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    BỨC TRANH

    Truyện của M.R.James
    Bảo Hương dịch


    Nhiều năm qua ông Williams làm việc trong bảo tàng Trường đại học Oxford, chăm chỉ bổ sung thêm cho bộ sưu tập tranh ảnh vốn đã rất phong phú về các ngôi nhà và nhà thờ miền quê nước Anh trưng bày nơi đây. Quả tình không có công việc nào tẻ nhạt hơn là việc thu thập các tranh ảnh loại này nhưng ông Williams cho rằng chính nó cũng có những điều bí ẩn bất ngờ.

    Ông đã từng mua nhiều tranh của của hãng J.W.Britnell ở London. Mỗi năm hai lần ông Britnell gửi bản liệt kê các bức tranh sẵn có cho tất cả khách hàng quen của mình để họ có thể chọn xem trước và đặt mua.

    Tháng hai năm 1895 ông Williams nhận được bản liệt kê của ông Britnell cùng với lá thư sau:

    Thưa ông,

    Có lẽ ông sẽ thích bức tranh số 978 trong danh sách này, nếu ông muốn, tôi xin hân hạnh gửi để ông xem.

    J.W.Britnell

    Ông Williams lật tìm số 978 trong danh sách và đọc dòng chú thích: “Số 978. Vô danh. Tranh một ngôi nhà đồng quê Anh quốc, đầu thế kỷ 19. Kích thước 25 x 40cm. 20 bảng”.

    Có vẻ như không có gì thú vị và giá lại khá cao. Tuy nhiên ông Williams cũng thêm nó vào danh sách những bức tranh ông muốn người ta gửi đến.

    Lô tranh được đưa đến vào một buổi chiều thứ bảy, khi ông Williams đã ra về. Người ta bèn mang đến phòng ông trong khuôn viên trường để ông có thể xem qua trong ngày nghỉ cuối tuần. Ông Williams trông thấy chúng khi ông cùng người bạn là ông Binks vào phòng để uống trà.

    Bức tranh số 978 vẽ mặt tiền của một ngôi nhà miền quê khá rộng. Nhà có ba hàng cửa sổ với cửa chính nằm giữa hàng dưới cùng. Hai bên nhà đều có cây to và phía trước là một bãi cỏ rộng. Ở một góc bức tranh có mấy chữ tắt A. W. F. Ông Williams cho rằng tranh không được đẹp lắm, có lẽ đây là tác phẩm của một họa sĩ nghiệp dư, và ông không hiểu tại sao ông Britnell lại định giá đến 20 bảng. Ông dẹp nó sang bên và trông thấy một mẩu giấy nhỏ đính phía sau có ghi phần sau của một cái tên. Tất cả những gì còn đọc được là phần cuối của hai dòng viết tay. Dòng thứ nhất: “__ ngly Hall”; dòng thứ hai: “__ ssex”.

    Ông Williams nghĩ sẽ thú vị nếu tìm được tên ngôi nhà trong mấy tập sách hướng dẫn của mình trước khi gửi trả bức tranh vào sáng thứ hai. Ông đặt bức tranh trên bàn, thắp đèn vì thấy trời đã tối và đi pha trà.

    Trong khi họ dùng trà, người bạn cầm bức tranh lên ngắm nghía và hỏi: “Ngôi nhà này ở vùng nào đấy anh Williams?”

    “Đó chính là điều tôi muốn tìm” Williams vừa nói vừa với tay cầm một quyển sách trên kệ, “lật phía sau anh sẽ thấy tên nó là cái gì đấy HallEssex hay Sussex. Một nửa bị nhòe mất thấy không. Chắc anh chẳng biết căn nhà ấy đâu nhỉ?”

    “Không”, ông Binks trả lời, “cái này chắc của Britnell gửi đến hả? Anh mua cho phòng bảo tàng à?”

    “Ờ, tôi sẽ mua nếu nó được bán với giá hai bảng”, ông Williams đáp, “nhưng không hiểu vì lý do gì ông ta lại đòi đến hai mươi bảng. Tôi chẳng hiểu tại sao. Nó đâu phải là một bức tranh đẹp, hơn nữa lại chẳng có tí hình người ngợm nào để trông hay ho hơn một chút”.

    “Quả là nó chẳng đáng đến hai mươi bảng”, ông Binks nói, “nhưng tôi không cho rằng nó quá tệ như vậy. Ánh sáng trông khá đẹp và ngay bên rìa bức tranh, phía trước nhà có một hình người đây này”.

    “Xem nào”, ông Williams nói, “Ờ, đúng là ánh sáng được vẽ khá đẹp. Hình người đâu? À, đây rồi! Chỉ là một cái đầu, ngay góc trước bức tranh”.

    Đúng là ở ngay rìa bức tranh có một cái đầu không rõ đàn ông hay đàn bà đang nhìn về phía căn nhà. Lúc nãy ông Williams đã không chú ý đến nó.

    Ông bảo: “Mặc dù trông nó có khá hơn mới thoạt nhìn nhưng ngân quỹ bên phòng bảo tàng cũng chẳng thể nào trả đến hai mươi bảng để mua bức tranh một ngôi nhà mà tôi thậm chí chẳng biết gì về nó”.

    Ông Binks có mấy việc phải làm nên chẳng mấy chốc đã ra về và ông Williams dành trọn thời gian trước bữa ăn tôi lục tìm tung tích căn nhà trong các bộ sách hướng dẫn.

    Ông tự nhủ: “Kể mà mình biết mấy chữ cái đứng trước chữ “__ngly” thì cũng còn dễ tìm. Nhưng quả tình có nhiều tên kết thúc bằng __ngly hơn là mình tưởng”.

    Sau khi dùng bữa tối lúc bảy giờ mấy người bạn của ông ghé vào phòng để chơi bài. Trong lúc giải lao, ông Williams cầm bức tranh trên bàn lên đưa cho ông Garwood, cũng là một người mê tranh, xem. Ông Garwood ngắm bức tranh và bảo:

    “Bức tranh này đẹp đấy anh Williams ạ. Theo tôi thì ánh sáng xử lý rất khéo và mặc dù cái hình thù ở đây trông khá kỳ cục nhưng cũng hay hay”.

    “Thật thế à?” ông Williams đang bận mang nước ra cho các vị khách nên chỉ thờ ơ hỏi, chẳng kịp nhìn lại bức tranh.

    Sau khi khách đã về hết, ông Williams còn phải viết nốt một lá thư, vì vậy lúc ông chuẩn bị đi ngủ thì đã quá nửa đêm. Bức tranh nằm ngửa mặt trên bàn ở chỗ mà ông Garwood đã để và ông Williams chợt thấy nó lúc chuẩn bị tắt đèn. Ông đứng sững một lúc vì quá ngạc nhiên, sau đó từ từ cầm bức tranh lên và dán mắt nhìn kinh hãi. Chính giữa bãi cỏ, phía trước ngôi nhà lạ ấy có một hình người hiện ngay chỗ trước kia trống rỗng không có gì. Hình thù ấy đang bò về phía căn nhà, mình choàng một tấm vải đen kỳ lạ có hình Thánh giá trắng trên lưng.

    Vài giây sau ông Williams cầm một góc bức tranh và mang nó vào một phòng trống. Ông đặt nó vào tủ mặt úp xuống rồi khóa tủ lại, sau đó khóa cả cửaphòng. Ông trở lại phòng mình và khóa luôn cửa. Trước khi ngủ, ông bèn viết một bản mô tả chi tiết những thay đổi kỳ dị của bức tranh kể từ khi nhận được.

    Ông thoáng mừng nhớ lại rằng lúc ông Garwood xem bức tranh lúc sẩm tối cũng đã trông thấy cái hình thù quái dị kia. Ông quyết định sáng đến sẽ đề nghị vài người nữa cùng xem kỹ lại bức tranh với ông đồng thời cũng phải cố hết sức tìm cho được tên ngôi nhà. Ông sẽ mời ông bạn hàng xóm Nisbet cùng ăn sáng và sau đó sẽ dành trọn buổi sáng để lục tìm tên ngôi nhà trong mớ sách hướng dẫn của mình.

    Ông Nisbet đến lúc 9 giờ và hai người cùng dùng điểm tâm. Xong bữa, vừa căng thẳng vừa hồi hộp, ông Williams vội vã đến căn phòng trong. Ông mở khóa tủ, lôi bức tranh ra, vẫn úp xuống mang đến đưa cho ông Nisbet mà không nhìn lại nó.

    “Nào Nisbet”, ông bảo, “hãy nói xem anh nhìn thấy gì trong bức tranh này. Làm ơn tả chi tiết nhé. Tôi sẽ giải thích sau”.

    “Được”, ông Nisbet đáp, “đây là bức tranh một căn nhà ở làng quê nước Anh ngập tràn ánh trăng”.

    “Ánh trăng? Anh chắc thế chứ?”

    “Đúng vậy mà. Mặt trăng vẽ khá rõ và còn có mây trên trời nữa”

    “Được rồi. Tiếp tục đi. Nhưng tôi chắc rằng - ông Williams khẽ nói thêm - lần đầu tiên khi tôi xem bức tranh này chẳng hề có trăng sao gì cả”.

    “À, tôi cũng chắng thấy thêm gì nhiều” ông Nisbet nói tiếp “căn nhà có ba hàng cửa sổ, mỗi hàng năm chiêc trừ hàng cuối thay bằng cửa chính ở giữa và...”

    “Còn cái hình người thì sao?” ông Williams cực kỳ hồi hộp hỏi.

    “Hình người à? Chả có người nào cả”, ông Nisbet đáp.

    “Sao? Không có hình người trên bãi cỏ trước nhà à?”

    “Không, Chả có gì cả”.

    “Thật không?”

    “Thật đây mà. Nhưng mà có cái khác”

    “Cái gì vậy?”

    “Một cánh cửa sổ ở tầng dưới cùng, bên trái cửa chính, đang mở”.

    “Thật à? Trời ơi! Chắc hắn đã vào nhà rồi”, ông Williams kêu lên vẻ kích động.

    Ông ta vội vã lao đến chỗ Nisbet đang ngồi, giành lấy bức tranh tự mình xem xét. Quả đúng như vậy. Chẳng có hình người nào trên bãi cỏ và có một cánh cửa sổ đang mở.

    Ông Williams đờ ra một lúc vì quá ngạc nhiên, sau đó ông định thần ngồi xuống ghế và viết. Viết xong ông cầm hai tờ giấy đến cho ông Nisbet. Ông yêu cầu ông Nisbel ký vào tờ thứ nhất, mô tả lại những điều chính ông này trông thấy, sau đó đọc tờ thứ hai, là tờ mà ông Williams viết hồi đêm.

    “Tất cả những điều này có ý nghĩa gì?” Nisbet hỏi.

    “Đó chính là điều tôi phải tìm cho ra đấy” ông Williams đáp, “Bây giờ có ba việc tôi phải làm. Trước hết tôi phải hỏi lại Garwood xem chính xác anh ta thấy gì lúc xem tranh tối hôm qua, sau đó tôi phải chụp lại hiện trạng bức tranh trước khi nó thay đổi thêm cái gì đó và thứ ba, tôi phải tìm xem ngôi nhà này ở đâu”.

    “Tôi có thể chụp hình giùm anh” ông Nisbet bảo “nhưng anh hiểu không, tôi nghĩ chúng ta đang được xem một cái gì rất khủng khiếp xảy ra ở đó. Vấn đề là chuyện đó đã xảy ra hay sắp xảy ra? Anh thật sự cần phải tìm xem ngôi nhà đó ở đâu”.

    Ông ta xem lại bức tranh và lắc đầu: “Tôi nghĩ anh nói đúng, anh Williams ạ. Hắn đã vào trong nhà. Tôi chắc sẽ có chuyện gì rắc rối trong đó”.

    “Tôi sẽ cho anh biết tôi định làm gì”, ông Williams nói. “Tôi sẽ đưa bức tranh cho Tiến sĩ Green. Ông ấy lớn lên ở Essex và thường đi Sussex thăm người anh sống ở đấy. Ông đã từng ở đó hàng năm trời. Hẳn ông biết mấy nơi này rõ lắm”.

    “Ý kiến hay đấy” ông Nisbet đồng ý “nhưng tôi nghe Green bảo ông ấy đi đâu đó mấy ngày cuối tuần này mà”.

    Ông Williams đáp: “Ờ phải, tôi nhớ rồi, ông ấy đi Brighton nghỉ cuối tuần. Tôi sẽ nhắn ông ấy tới gặp tôi ngay khi trở về. Trong khi đó anh mang bức tranh đi chụp lại, còn tôi sẽ tìm Garwood để hỏi xem anh ta thấy cái gì khi xem tranh tối hôm qua - ông ngừng một lúc rồi thêm vào - Anh biết không, sau tất cả những chuyện này tôi cho rằng hai mươi bảng không phải là quá đắt để mua bức tranh”.

    Chẳng mấy chốc ông Williams đã quay lại phòng cùng với Garwood. Garwood cho biết khi ông xem thì hình người ấy vừa bắt đầu bò qua bãi cỏ. Ông nhớ rằng nó choàng trên người một tấm vải đen với một vệt trắng trên lưng, không chắc có phải là hình Thánh giá hay không. Lúc ông đang viết bản mô tả này thì ông Nisbet quay về cho biết bức tranh đã được chụp lại.

    Ông Garwood hỏi: “Anh định làm gì bây giờ, Williams, ngồi đây mà canh suốt ngày à?”

    “Không, theo tôi chúng ta chẳng cần làm thế đâu - Williams đáp - anh thấy không, kể từ khi tôi thấy cái hình người ấy vào tối hôm qua quá đủ thời gian để hắn có thể làm xong việc mà hắn muốn làm nhưng rốt cuộc hắn chỉ mới đi vào được trong nhà. Cửa sổ đang mở và hẳn là hắn vẫn còn trong đó. Tôi cho rằng hắn muốn chúng ta chứng kiến những chuyện tiếp theo. Dù sao đi nữa thì chắc bức tranh này cũng sẽ không thay đổi nhiều lắm trong ngày hôm nay đâu. Tôi đề nghị chúng ta nên đi dạo sau bữa trưa rồi về đây dùng trà. Tôi sẽ đặt bức tranh trên bàn rồi khóa cửa lại. Người giúp việc của tôi có chìa khóa và có thể vào nhà nếu cần, ngoài ra không còn ai nữa”.

    Mọi người đồng ý rằng đó là một kế hoạch hay. Họ cũng muốn tránh nói với bất cứ ai về bức tranh kỳ dị này vì biết rằng điều đó sẽ kích động trí tò mò cũng như gây ra các cuộc tranh cãi.

    Vào khoảng năm giờ chiều họ trở lại phòng ông Williams để uống trà. Khi bước vào phòng họ ngạc nhiên thấy Filcher, người giúp việc, đang ngồi trên chiếc ghế bành của ông Williams và kinh hãi nhìn chằm chằm vào bức tranh trên bàn. Filcher đã làm việc trong trường suốt nhiều năm và chưa bao giờ lại xử sự kỳ quặc như vậy. Hình như ông ta cũng nhận ra điều này, cố gắng đứng bật dậy khi ba vị kia bước vào.

    “Xin ông tha lỗi - ông ta nói - tôi không định ngồi thế này”.

    “Không sao đâu Robert - Williams đáp - tôi định hỏi anh nghĩ gì về bức tranh này?”

    “Dạ thưa ông - người giúp việc trả lời - quả tình tôi không hiểu lắm về tranh ảnh, nhưng tôi không muốn con gái tôi xem nó tí nào cả. Chắc chắn nó sẽ gây ra cho con bé những cơn ác mộng. Đây không phải là loại tranh có thể bỏ lung tung. Nó làm cho ai cũng phát khiếp khi thấy một cái hình thù ghê rợn như vậy mang đứa bé tội nghiệp đi. Đó là điều mà tôi nghĩ đấy thưa ông. Ông có việc gì cần tôi giúp hôm nay nữa không ạ? Dạ, cám ơn ông”.

    Filcher đi ra và ba ông bạn lập tức đến bên chiếc bàn. Vẫn có căn nhà nằm dưới ánh trăng với mây phủ trên trời. Nhưng cánh cửa sổ mở trước kia nay đã đóng lại, và cái hình người ấy lại một lần nữa xuất hiện trên bãi cỏ; nhưng lần này không phải đang bò. Lúc này hắn đang bước đi bằng những bước sải dài về phía trước bức tranh. Mặt trăng đang ở phía sau và tấm vải choàng đen che gần kín mặt hắn. Ba người vô cùng tạ ơn trên là họ không phải trông thấy gì nhiều trên khuôn mặt ấy ngoài một cái trán cao trắng nhợt và một ít tóc dài, mỏng. Đôi chân lộ ra dưới tấm choàng trông gày khủng khiếp; tay hắn ôm một cai gì trông như đứa bé con, khó nói được là còn sống hay đã chết.

    Cả ba theo dõi bức tranh cho đến tận giờ ăn tối nhưng không thấy thay đổi gì thêm. Họ vội vã trở lại căn phòng sau khi ăn xong. Bức tranh vẫn ở nguyên chỗ họ để, nhưng hình người đã đi, chỉ còn lại ngôi nhà tĩnh lặng dưới ánh trăng và các đám mây.

    Williams nói: “Này, bây giờ chúng ta thật sự phải tìm xem ngôi nhà này ở đâu”. Họ lôi các tập sách hướng dẫn ra và bắt đầu lần tìm.

    Khoảng hai giờ sau Williams đột nhiên kêu lên: “A, cái này có vẻ giống đây”.

    Ông ta đọc to quyển “Hướng dẫn về Essex” đang cầm trong tay:

    “Anningly. Nhà thờ thế kỷ 12 trong có hầm mộ của gia tộc Francis với tòa nhà Anningly. Hall ngay phía sau nhà thờ. Gia tộc này hiện đã tuyệt tận. Người cuối cùng của dòng họ biến mất một cách bí ẩn vào năm 1802 khi còn bé. Người cha, ngài Arthur Francis, một họa sĩ nghiệp dư nổi tiếng, sống cô đơn lặng lẽ sau sự kiện đó cho đến khi chết ba năm sau, khi đã hoàn tất bức tranh về tòa nhà”.

    Khi ông Williams đọc xong thì có tiếng gõ cửa và Tiến sĩ Green bước vào. Ông vừa đi Brighton về và thấy mấy lời nhắn của ông Williams. Ông xác nhận ngay rằng đây chính là tòa nhà Anningly, vốn ở không xa nơi mà ông lớn lên.

    Khi Williams hỏi: “Anh có giải thích được cái hình người ấy không Green?”

    “Tôi không biết, Williams ạ”, Tiến sĩ Green trả lời. “Ngày tôi còn bé những người già ở Anningly vẫn thường kể về vụ mất tích của đứa bé nhà Francis. Họ nói rằng ngài Arthur có nhiều ân oán với số dân địa phương thường lẻn vào lãnh địa của ông để ăn trộm cá và chim muông. Ông đã quyết phải bắt và trừng phạt tất cả bọn họ và đã làm như vậy cho đến khi chỉ còn lại một người. Người này tên là Gawdy, vốn xuất thân từ một gia đình xưa kia rất giàu có và danh tiếng trong vùng đất ấy.

    Thực tế là một số người trong dòng họ đã được chôn trong nghĩa trang nhà thờ của làng khi qua đời. Tuy nhiên qua nhiều năm dòng họ này dần dần mất đi nhiều đất đai và tiền của - Gawdy luôn cảm thấy cay đắng về điều này. Suốt một thời gian dài ngài Arthur không thể bắt quả tang Gawdy điều gì cho đến một đêm người làm của ngài bắt gặp Gawdy trong lãnh địa Francis với một xâu chim. Đã xảy ra xô xát và một người làm bị bắn chết. Đây là cơ hội cho ngài Arthur; tất nhiên công lý hoàn toàn đứng về phía ông ta và gã Gawdy khốn khổ bị xử treo cổ sau đó mấy ngày. Người ta cho rằng bạn bè của Gawdy đã bắt cóc đứa con trai bé bỏng của ngài Arthur để trả thù, đồng thời đặt một dấu chấm hết cho dòng họ Francis. Nhưng bây giờ thì tôi cho rằng có vẻ như chính Gawdy đã làm điều đó. Hừm, tôi không muốn nghĩ về nó nữa. Chúng ta cùng uống chút gì đi nhé?”

    Câu chuyện về bức tranh được kể cho vài người khác; một số tin còn một số lại hoàn toàn không. Ông Britnell không biết gì về sự kiện này, ngoại trừ bức tranh có điều gì đó khác thường. Hiện giờ người ta treo nó trong phòng bảo tàng và dù hết sức cố gắng quan sát, không ai được thấy nó thay đổi lần nào nữa. *
     
    meetdak, amylee, hungbc1010 and 2 others like this.
  9. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    THỎI SON MÔI

    Truyện của Mary Roberts Rinehart
    Thủy Vịnh dịch


    Sau cuộc thẩm vấn, tôi tản bộ về nhà. Còn mẹ thì về bằng xe hơi. Trông bà rất ốm yếu từ sau cái chết của Elinor - đứa em bà con của tôi.

    Đến giờ tôi vẫn như nhìn thấy nó thức dậy vào mỗi buổi sáng, vặn vẹo thân mình dễ thương trong tấm khăn trải giường bằng lụa và gọi to anh Fred tội nghiệp đang ở trong phòng.

    “Anh Fred ơi, hôm nay chúng ta có một vài người đến nhà ăn tối đấy”.

    “Được thôi mà, cưng”.

    Với Fred, những gì Elinor muốn đều hợp lý.

    ... Và bây giờ, tôi còn nhớ rõ khuôn mặt của anh trong buổi thẩm vấn - sững sờ và đau khổ.

    “Ông có biết vì sao cô Elinor tự tử không?”

    “Tôi không biết gì cả”.

    “Sức khỏe chẳng hạn - có thể lắm chứ?”

    “Không đâu. Cô ấy luôn khỏe mà”.

    “Vậy sao cô ấy lại đến bác sĩ Barclay?”.

    “Chắc chỉ mệt thôi,” anh trả lời với vẻ không vui.

    Chẳng ai tận mắt thấy Elinor bị đẩy hay nhảy xuống từ cửa sổ phòng đợi của bác sĩ trên tầng mười cả. Nhưng nhân viên điều tra dường như tin rằng tự cô làm chuyện đó.

    Hôm đó, bác sĩ Barclay không gặp cô. Chỉ có ba y tá. “Chẳng có ai ở trong phòng đợi cả”, bà nói với nhân viên điều tra. Bác sĩ đang hỏi chuyện một bệnh nhân. Cô Elinor đến ngồi cạnh cửa sổ, cởi nón, châm một điếu thuốc và nhặt lấy tờ tạp chí. Còn tôi trở lại văn phòng làm việc cho đến khi...”.

    “Xin bà cứ tiếp tục”. Nhân viên điều tra nhẹ nhàng nói.

    “Tôi nghe tiếng của một bệnh nhân đang rời phòng khám. Khi bác sĩ gọi tôi mời bệnh nhân tiếp theo, tôi sang phòng đợi để gặp cô Elinor. Cô ấy không còn ở đó nữa. Tôi thấy cái nón vẫn còn nhưng túi cô ấy đã biến mất. Rồi...” bà dừng lại và khó khăn lắm mới thốt lên. “... Rồi tôi nghe tiếng mọi người la hét ở dưới đường. Tôi vội đến cửa sổ và nhìn xuống...”

    Nhân viên điều tra cho bà một ít thời gian, rồi hỏi “Sáng hôm đó bà thấy cô ấy có gì bất thường không, bà Comings?”

    “Có gì đâu. Cô ấy trông rất vui vẻ”.

    “Bà có chắc là cánh cửa sổ cạnh cô ấy đang mở chứ?”

    “Sao lại không. Nhưng mà tôi không thể nào tin rằng...”. Lúc này bà đã rơi nước mắt. Rõ ràng là bà đã kể tất cả những gì mình biết.

    Bác sĩ Barclay - người mới đến - được gọi tiếp. Anh ta khoảng gần 40 tuổi và khá dễ nhìn. Tôi biết rất rõ Elinor. Cô rất thích những người đàn ông điển trai. Nhưng Fred - người có dáng vẻ bên ngoài rất thô kệch - lại là một ngoại lệ.

    Sáng hôm đó người bác sĩ không gặp Elinor. Khi anh gọi bệnh nhân kế tiếp thì không thấy ai vào. Anh đến phòng đợi và thấy bà Comings đang nhìn ra cửa sổ. Đột nhiên bà hét lên. May mắn là vào lúc đó bà Thompson vừa đến và đỡ bà vào ghế.

    Khi được hỏi về lý do Elinor đến phòng mạch của mình, anh nói, “Tôi có rất nhiều bệnh nhân bị căng thẳng hay lo nghĩ quá nhiều. Cô Elinor đã bị như vậy nhiều năm rồi”.

    “Cô ấy có đề cập đến chuyện gì đáng chú ý không?”

    Bác sĩ cười nhẹ. “Chúng tôi luôn có nhiều chuyện để nói. Một vài chuyện do tưởng tượng. Một vài chuyện lại là thật. Nhưng... có lẽ trong thời gian qua tinh thần cô Elinor không được ổn cho lắm. Tôi đã khuyên cô ấy nên đi xa một thời gian để thư giãn. Và cô ấy cũng muốn như vậy.”

    Giọng nói của anh điềm tĩnh và có chừng mực. Tuy nhiên, không biết tại sao Fred lại nhìn anh trừng trừng.

    “Có lần nào cô ấy bày tỏ ý định tự tử với ông không?”

    “Chưa. Chưa bao giờ’.

    Anh không cho biết những gì anh và Elinor đã trao đổi với nhau. Theo anh, những chuyện như vậy giữa bác sĩ và bệnh nhân phải được giữ kín. Nếu anh biết điều gì giúp ích cho việc điều tra thì anh sẽ bảo cho họ biết - nhưng rồi anh không nói thêm gì cả. Anh ngồi xuống cạnh chúng tôi và nhân chứng kế tiếp - bà Thompson - được gọi vào.

    “Tôi làm vệ sinh cho căn hộ của bác sĩ một tuần một lần”, bà nói. “Hôm đó tôi cần ứng trước một ít tiền vì vậy tôi đến gặp bác sĩ”.

    Bà không vào phòng làm việc ngay. Bà nhìn vào phòng đợi, thấy Elinor đang ở đó. Rồi bà đứng đợi ở ngoài hành lang. Bà cũng nhìn thấy bệnh nhân trước đó - một phụ nữ - rời phòng bác sĩ và đi xuống cầu thang. Một phút sau hoặc hơn một tí, bà nghe tiếng hét của người y tá.

    “Bà ấy vừa nhìn ra ngoài cửa sổ vừa hét lớn. Bác sĩ chạy vào và chúng tôi cùng đỡ bà ấy lên ghế. Có người nào đó đã rơi xuống lầu - bà ấy nói - nhưng không nói rõ là ai”.

    Khi được hỏi là đã ở hành lang bao lâu, bà nói rằng khoảng mười lăm phút. Và bà cũng tin chắc rằng không bệnh nhân nào khác đã vào phòng tròng suốt thời gian đó. Vì nếu có thì chắc hẳn bà đã thấy.

    “Bà có thấy thứ gì đó của cô Elinor không? Trong phòng đợi đó?”

    “À, có. Tôi thấy cái túi của cô ấy. Hình như là ở sau cái máy sưởi phía trước cửa sổ. Nó nằm ở chỗ ấy kể cũng hơi lạ. Sau đó tôi đã đưa cho cảnh sát khi họ đến”.

    Vậy thì Elinor, sau khi đặt nón lên bàn, lại mang cái túi đến cạnh cửa và đánh rơi nó phía sau máy sưởi trước khi nhảy xuống, có cái gì đó tôi thấy không hợp lý lắm.

    Cuối cùng, nhân viên điều tra cũng nhận định đây là một vụ tự tử. Không một ai cho rằng đó là một vụ giết người. Sau lời kể của bà Thompson, điều này hầu như không thể được. Fred lắng nghe với đôi mắt ngây dại. Chị gái của anh - Margaret - đang ngồi cạnh anh đứng phắt dậy. Còn bác sĩ Barclay nhìn chằm chằm về phía trước rồi cũng đứng dậy và đi ra ngoài.

    Trên đường về tôi thấy rất bực bội. Họ ngốc thật đấy, tôi nghĩ. Tôi biết rõ Elinor mà. Cho dù gặp rắc rối đến đâu nó cũng không thể nào tự tử. Có ai đã giết nó và đánh lừa được tất cả. Nhưng ai, ai đã ghét nó đến mức độ như thế nhỉ? Một vụ ghen tuông? Không thể được. Nó thường đùa giỡn với người khác nhưng không bao giờ đi quá trớn. Dĩ nhiên cũng có nhiều người không ưa nó. Vì đôi khi nó chế nhạo và làm họ tổn thương. Thậm chí với Fred. Nhưng anh không bao giờ giận cả.

    Tôi nghĩ đến Fred giờ này hẳn đang ngồi cô đơn một mình. Tội nghiệp cho anh quá. Vì vậy, sau bữa tối tôi đến thăm anh. Đó là một ngôi nhà khá rộng có sân vườn bao quanh. Một người đàn ông đang đứng cạnh cổng và quan sát ngôi nhà. Bỗng nhiên anh ta quay ngoắt lại - hóa ra là bác sĩ Barclay.

    Anh ta không biết tôi. Có lẽ do không nhìn thấy tôi trong buổi thẩm vấn. Anh ta sửa lại nón và rời khu nhà. Một lúc sau, tôi nghe tiếng xe xa dần.

    Thấy tôi, Fred nhẹ nhõm hẳn. “Tôi tưởng là cảnh sát lại đến nữa chứ,” anh ấy nói.

    Chúng tôi vào trong phòng đọc sách. Bề bộn kinh khủng - như thể chưa được dọn dẹp suốt hàng tháng trời. Nhà của Elinor lúc nào cũng như vậy: luôn đầy người, đầy khói thuốc vá đầy cả những chén bát chưa rửa. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy túi của Elinor ở trên bàn. Thấy tôi nhìn chằm chằm vào nó, Fred nói.

    “Cảnh sát mới gởi trả hôm nay đó. Cô uống gì không?”

    “Thôi, không đâu. Cho tôi xem qua một chút được không?”

    Anh gật đầu. “Mọi thứ vẫn còn nguyên trong đó. Không có gì đặc biệt cả”.

    Tôi mở túi. Vẫn đầy đủ mọi thứ như thường lệ: đồ trang điểm, tiền bạc, sổ tay, một cái khăn có dấu son môi... Fred nhìn tôi - mắt anh đỏ ngầu, mệt mỏi. “Tôi đã bảo rồi mà. Có gì đặc biệt đâu.” anh nói. Tôi lục cái túi một lần nữa nhưng không thể nào tìm thấy một vật mà lẽ ra nó phải có ở đó. Tôi đặt nó trở lại bàn. Fred đang thẫn thờ nhìn bức ảnh của Elinor được lồng trong một khung bạc ở trên bàn. “Cô ấy đẹp làm sao!”.

    “Quả thật vậy!” tôi nói một cách chân thành.

    “Margaret cho rằng cô ấy rất ngốc nghếch và tiêu xài hoang phí.” Anh liếc nhìn lên bàn - một đống hóa đơn cần thanh toán trên đó. “Cũng đúng thôi nhưng với tôi nó chẳng là gì cả”.

    Anh im lặng đợi tôi lên tiếng. Vì vậy, tôi hỏi “Anh không biết cô ấy đã đến thăm tay bác sĩ đó à, Fred?”

    “Không, mãi đến khi tôi nhận hóa đơn thanh toán của hắn ta”.

    Vào lúc đó, Margaret bước vào. Cô ta gật đầu chào tôi.

    “Tối nay chị sẽ ở đây”, cô ta nói với Fred. “Chị không muốn để em một mình. Ngày mai chị sẽ kiểm tra lại mọi thứ trong nhà, Fred ạ”.

    Fred trông rất bực bội. Margaret và Elinor không hợp nhau lắm. Đã có một cuộc tranh cãi dữ dội giữa hai người. Tôi nhìn Margaret. Có lẽ cô ta là người thù địch với Elinor hơn bất cứ ai.

    Cô ta nhìn đống hóa đơn trên bàn. “Chà, giàu nhỉ. Tiêu xài như thế đấy!”

    “Thôi mà chị,” anh nói.

    Anh đứng dậy và họ nhìn nhau trừng trừng. Fred dựa lưng vào bàn, như thể anh đang bảo vệ Elinor. Thấy vậy tôi xin phép về.

    Khi gần đến nhà, tôi chợt nhận ra mình đang bị theo dõi. Cảm thấy lo sợ, tôi quay lại. Nhưng chỉ là một cô gái. Cô gọi tên tôi.

    “Chị Baring phải không? Tôi đã thấy chị trong buổi thẩm vấn. Chị vừa đến nhà của gia đình Hammond phải không?”

    “Vâng. Mà có chuyện gì không?”

    Cô khá trẻ và dường như rất bối rối.

    “Chị là bạn của cô Elinor phải không?”

    “Cô ấy là em họ tôi. Nhưng mà sao?”

    Cô lấy trong túi ra một điếu thuốc và châm lửa. “Cô ấy bị đẩy ra khỏi cửa sổ đấy. Văn phòng làm việc của tôi ở bên kia đường. Tôi đã thấy cô ấy. Dĩ nhiên lúc đó tôi chưa biết cô ấy là ai”.

    “Cô đã nhìn thấy mọi việc hả?” tôi sửng sốt hỏi.

    “Không, không phải vậy. Lần đầu, khi tôi nhìn ra ngoài, cô ấy đang tô môi. Chỉ một chốc sau, tôi nhìn ra ngoài một lần nữa thì cô ấy đã... nằm trên vỉa hè.” Tay cô bắt đầu run rẩy và cô ném mẩu thuốc lá đi. “Chẳng ai có thể tin răng một người vừa mới tô son lại có thể làm vậy, đúng không chị?”

    “Đúng rồi”, tôi nói. “Nhưng chị có chắc là Elinor không?”

    “Chắc chứ, cô ấy mặc cái áo đầm xanh lá cây và tôi còn nhớ rõ mái tóc của cô ấy nữa kìa. Tối nay tôi trở lại để tìm thỏi son ấy. Nhưng không tìm được. Đường phố quá đông. Có lẽ có ai đó đã nhặt nó. Ba ngày rồi còn gì”.

    Đây cũng là điều mà tôi đã muốn bảo với Fred - thỏi son môi màu vàng của Elinor không còn trong túi của nó.

    Tôi nhìn đồng hồ. Đã mười một giờ đêm.

    “Nào, chúng ta đến đó xem lại lần nữa đi”.

    Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được thỏi son. Nó ở mép đường, phủ đầy bùn. Khi tôi chùi sạch thì chữ “E” quen thuộc hiện ra.

    Cô gái nhìn thấy nó, thở hắt ra. “Vậy là đúng rồi.”

    Rồi cô ta nhảy lên xe buýt và tôi chẳng bao giờ gặp lại cô ta nữa.

    Tối hôm đó tôi ngủ chập chờn. Sáng hôm sáu tôi vội đến văn phòng của bác sĩ Barclay. Tôi vào phòng làm việc và dằn mạnh thỏi son của Elinor lên bàn.

    “Chuyện gì vậy? Tôi không hiểu gì cả”, anh ta nói, nhìn chằm chằm vào nó.

    “Elinor đã ở bên cửa sổ tô lại môi, chỉ một phút trước khi ngã”.

    “Vậy thì sao nào?”

    “Ý của tôi là cô ấy không tự tử. Chẳng lẽ một phụ nữ có thể tô lại môi trước khi tự tử hay sao? Ông nghĩ mà xem”.

    Anh ta mỉm cười. “Cô bạn thân mến ơi, nếu cô hiểu rõ tính cách của con người thì chẳng có gì ngạc nhiên đâu”.

    “À, ra vậy. Việc Elinor đã nhảy ra khỏi cửa sổ văn phòng của ông với thỏi son trên tay, việc ông đã quan sát nhà cô ây tối hôm qua và rồi vội vã rời khỏi đó khi tôi xuất hiện. Có nghĩa là...”

    Anh ta sửng sốt. Đúng rồi, tối qua anh ta đã không nhận ra tôi.

    “À, tôi biết rồi”, anh ta nói. “Chính cô là người...”

    Anh ta nghiêng mình tới trước. “Này, cô nên ăn nói cẩn thận một chút. Tôi không thích cái kiểu mà ông Fred Hammond nhìn tôi trong cuộc thẩm vấn đó. Tôi e rằng ông ta có lẽ sẽ... sẽ tự giết mình.”

    “Chẳng lẽ có thể ngăn cản được anh ấy khi cứ lẩn quẩn ở ngoài sao?”, tôi nói.

    “Thì tôi đang tự hỏi làm thế nào để vào trong. Đúng lúc đó cô tới. Chị của ông ta gọi điện cho tôi. Cô ấy rất lo lắng”.

    “Tôi không tin Margaret. Cô ta không ưa Elinor”. Tôi đứng dậy, nhặt lấy thỏi son.

    “Cô ngộ thật đấy, cô Baring ạ”, anh ta nói. “Sao cô không để yên việc này nhỉ? Chẳng thể nào mang cô ấy trở lại được đâu. Cô biết điều đó mà”.

    “Điều tôi biết là cô ấy không tự giết mình”, tôi dáp.

    Tôi ra ngoài và thật sự ngac nhiên khi thấy Margaret trong phòng đợi. Cô ta đang đứng tựa vào khung cửa sổ để ngỏ.

    “Margaret!” tôi gọi to. Cô ta quay lại, mặt tái nhợt. “Ồ, Louise đó hả”. Cô ngồi xuống và lấy khăn lau mặt. “Chắc hẳn là Elinor đã trượt ngã, Lou ạ. Sàn nhà trơn trượt. Cô thử mà xem”.

    Tôi chỉ gật đầu. Tôi không có ý định nhìn ra ngoài khung cửa sổ để ngỏ đó trong khi Margaret ở phía saa tôi. Cô ta đến để trả tiền thanh toán cho Elinor, nhưng hôm đó có những điều rất lạ về cách xử sự của cô ta.

    Tôi mở máy xe hơi chậm và do vậy tôi đã nhìn thấy lúc Margaret rời tòa nhà. Cô ta quan sát vỉa hè - nơi Elinor đã ngã - một cách chăm chú. Chắc là cô ta đã biết về thỏi son của Elinor.

    Cô ta gọi một chiếc taxi và lên xe. Tôi vội theo sau. Bây giờ cô ta là kẻ tình nghi số một của tôi .Chiếc taxi cứ chạy, cứ chạy mãi. Khi tôi bắt đầu cảm thấy mình đang làm một việc khá ngớ ngẩn thì taxi dừng lại. Cô ta bước đến một căn nhà và bấm chuông.

    Cô ta ở trong đó khoảng một tiếng. Khi cô ta ra ngoài, tôi đứng dậy và chăm chú nhìn. Người phụ nữ đang tiễn cô ta ra cửa là bà Thompson. Chiếc taxi chạy ngang qua tôi nhưng Margaret chẳng buồn nhìn ngó chung quanh. Bà Thompson không vào trong nhà ngay. Khi tôi đến căn nhà, bà vẫn còn đứng bên ngoài.

    “Bà cho tôi hỏi chuyện một chút.” Tôi nói

    Bà ta nhìn tôi nghi ngờ. “Có chuyện gì vậy? “

    “Cái chết của Elinor! Tôi biết bà đang che giấu một chuyện gì đó”.

    Mặt bà ta tái hẳn đi. “Đó không phải là vụ giết người”, bà ta nói. “Nhân viên điều tra đã nhận định...”

    “Sao lại không. Nếu vậy thì cô Margaret đến đây để làm gì?”

    “Tôi chưa bao giờ thấy cô ta trước đây cả”, bà nói. “Cô đến để cám ơn về những gì mà tôi đã nói trong cuộc thẩm vấn. Vì nó cho thấy rõ là chính cô Elinor tội nghiệp đã làm điều đó”.

    “Và để trả tiền cho bà về việc này, đúng không?”

    “Tiền bạc gì ở đây chứ.” Bà ta nói một cách giận dữ. “Nếu cứ nghĩ là có ai đó trả tiền để mua chuộc tôi thì cô nhầm rồi”.

    Bà ta vào trong nhà và đóng sầm cửa lại. Bà ta đã nói thật? Không - Tôi không tin là bà ta đã nói hết tất cả trong cuộc phỏng vấn. Tôi cũng chắc rằng người bác sĩ cũng biết việc gì đó. Nhưng tại sao anh ta lại giấu nó chứ?

    Suốt cả buổi chiều hôm đó tôi tự hỏi điều mà bác sĩ Barclay và bà Thompson đã biết là gì. Sau đó, tôi đến tiệm cắt tóc. Đây cũng là tiệm quen của Elinor.

    “Tôi đang đợi cô ấy”, một trong những cô gái phục vụ ở đó nói. “Dĩ nhiên cô ấy không bao giờ đến và...”

    ‘“Ủa, vậy là chị đang đợi cô ấy vào cái ngày đó hả?”

    “Cô ấy đã hẹn tôi bốn giờ mà. Khi tôi nghe chuyện đó tôi không thể nào tin được, mặc dù vài tuần qua cô ấy không giống như trước nữa”.

    “Cô ấy thay đổi từ khi nào vậy?” tôi hỏi

    “Khoảng vào lễ Phục Sinh đấy. Cô ấy nói nhiều điều lạ lùng lắm”.

    Chiều hôm đó tôi và mẹ tôi mời Fred ăn tối. Trong bữa ăn tôi đã hỏi anh vào mùa xuân Elinor có gì lạ không. “Vào khoảng thời gian lễ Phục Sinh ấy mà”, tôi nói.

    “Tôi nhớ là không có gì cả,” anh nói. “Trừ một điều là cô ấy bắt đầu đến nhà gã bác sĩ tâm lý cũng vào khoảng thời gian đó”.

    “Nhưng sao cô ấy lại đến bác sĩ nhỉ, Fred?” mẹ tôi hỏi.

    “Thì dì cũng đã thấy hắn rồi mà”, anh nói. “Hắn ta trông rất dễ nhìn, hình như cô ấy thích gặp hắn lắm”.

    Sau đó Fred về nhà rất sớm.

    Tôi lại ngủ chập chờn và ăn sáng rất trễ. Mẹ vừa đọc xong tờ báo và tôi cầm lấy. Mặt sau tờ báo có vài dòng thông báo về việc bà Thompson đã bị bắn vào tối hôm qua.

    Thật không thể nào tin được!

    Tôi đọc lại một lần nữa. Bà không chết nhưng vết thương rất trầm trọng. Phổi bị lủng và đến giờ vẫn chưa nói được. Bà bị bắn khi đang ngồi trước nhà. Không ai nghe thấy tiếng súng cả.

    “Vậy là bà ta đã biết điều gì đó đã gây nguy hiểm cho bà”, tôi nhủ thầm. Tôi nhớ lại giây phút Margaret đến nhà bà, giây phút Margaret tìm thỏi son trên đường. Cũng chính Margaret là người không ưa Elinor... Rồi tôi chợt nhớ lại khẩu súng mà Fred luôn để nó trong ngăn kéo bàn làm việc.

    Tôi nghĩ đến khẩu súng. Nghĩ đi nghĩ lại về nó nhiều lần. Cuối cùng tôi quyết định đến cảnh sát. Viên đại úy ở sở trông rất thờ ơ nhưng rồi một nhân viên điều tra cũng đến gặp tôi.

    “Sao cô lại cho là cô Elinor bị giết chứ?” ông ta hỏi.

    Tôi kể cho ông ta nghe về thỏi son môi, về cuộc hẹn của Elinor ở tiệm uốn tóc, về một điều gì đó mà bà Thompson muốn che giấu.

    “Nhưng ai có thể làm việc đó chứ?”

    “Theo tôi có lẽ là chị của Fred. Hôm qua cô ta có mặt ở trong văn phòng của bác sĩ Barclay và cứ khăng khăng cho rằng Elinor trượt ngã ra ngoài cửa sổ. Cô ta nói rằng sàn nhà rất trơn, rồi còn bảo tôi hãy thử đi nữa chứ.” Tôi châm một điếu thuốc và nhận thấy tay mình đang run rẩy. “Cô ta cũng biết về thỏi son - tôi thấy cô ta cố gắng tìm nó trên đường đấy.” Nhưng điều mà tôi sắp nói mới thực sự làm ông ta ngạc nhiên. “Tôi tin rằng cô ta có mặt ở văn phòng bác sĩ vào ngày mà Elinor bị giết. Và bà Thompson cũng biết điều đó. Vì vậy tối hôm qua cô ta bắn bà ấy.”

    Viên thanh tra đứng dậy, không biểu lộ cảm xúc gì cả. “Tôi muốn nói với cô một điều, cô Baring ạ”, ông ta nói. “Hãy để việc này cho chúng tôi. Nếu cô đúng, đó là việc chúng tôi. Nếu cô sai thì cũng không hề gì.”

    Tôi đợi điện thoại suốt cả chiều hôm đó. Rồi ông ta gọi tới, bảo rằng bà Thompson bây giờ đã nói được rồi. Bà không biết ai đã bắn bà ấy, cũng không biết lý do tại sao. Bà vẫn cho là Margaret đến thăm chỉ để cám ơn về việc làm nhân chứng ở cuộc thẩm vấn thôi.

    Nhưng có một điều mà bà Thompson đã nói cho Margaret biết sau cuộc thẩm vấn. Đó là có một người đã vào phòng trong lúc bà đang ở ngoài hành lang.

    “Một người chẳng ai để tâm đến”, viên thanh tra nói. “Người đưa thư đấy. Tôi đã nói chuyện với ông ta. Ông đã nhìn thấy cô Elinor ở trong phòng vào buổi sáng hôm đó. Ông vẫn còn nhớ rõ về cô ấy. Cô ấy đang đọc tạp chí”. “Ông ta có thấy bà Thompson không?” “Hình như không để ý nhưng bà ấy lại thấy ông”.

    “Vì thế nên tối hôm qua ông ta đã bắn bà”.

    Viên thanh tra cười lớn. “Hôm qua ông ta đưa gia đình đi xem phim. Vụ này chỉ là một tai nạn thôi. Dạo này có nhiều người mang súng ra ngoài lắm, cô Baring ạ”.

    Vậy là Elinor đã tự mình nhảy xuống lầu và bà Thompson bị trúng đạn do tình cờ! Tôi chẳng thể nào tin được. Thậm chí tôi càng tin vào lập luận của mình hơn sau cuộc viếng thăm của bác sĩ Barclay vào tối hôm đó.

    Sau khi ăn tối, tôi đang nghe đài thì anh ta đến. Tôi đã kể cho anh nghe về những việc vừa qua và anh ngạc nhiên thật sự. “Cô đã đến cảnh sát à?” anh ta nói.

    “Sao lại không chứ? Ông hèn nhát lắm. Chỉ vì sợ mọi người biết có người bị đẩy khỏi phòng khám của mình nên ông...”

    Anh ta nổi nóng. “Đừng có mà nhúng mũi vào việc mà cô chẳng hiểu gì cả. Làm ơn đứng ngoài vụ này đi.”

    Tôi mất bình tĩnh. “Ai mà biết được ông có làm điều đó hay không chứ?” Tôi hét lên “ Ông hay người đưa thư hả?”

    “Người đưa thư?” anh nhìn tôi chằm chằm. “Ý cô muốn nói gì vậy?”, vẻ mặt đầy vẻ ngạc nhiên của anh ta trông thật tức cười. Tôi cười đến chảy cả nước mắt. Tôi không thể nào mà nín lại được. Đột nhiên, anh ta tát tôi.

    “Đi ra ngoài ngay!” tôi giận dữ bảo, nhưng anh ta vẫn đứng yên.

    “Tốt rồi, anh ta nói và vỗ về vào vai tôi. “Tôi đến đây là có việc đấy. Tôi đến để bảo cô đêm hôm đừng ra ngoài một mình”.

    “Làm gì mà dữ vậy chứ?”

    “Nguy hiểm lắm. Đặc biệt là phải tránh xa ngôi nhà của gia đình Hammond ra. Mong cô đủ thông minh để hiểu điều đó”.

    Anh ta đi ra, đóng sầm cửa lại. Rồi điện thọại vang lên trong khi tôi vẫn còn bực mình. Đó là Margaret! “Tôi gọi để cám ơn cô đấy. Cảnh sát lại đến nhà chúng tôi”, giọng cô ta đầy mỉa mai. “Cô nhiều chuyện quá đi!”

    “Được rồi”, tôi giận dữ nói. “Này, cho tôi hỏi một chuyện. Tại sao sáng hôm qua cô đến nhà bà Thompson? Và tối qua ai đã bắn bà ấy vậy?”

    Cô ta thở hổn hển rồi đặt điện thoại xuống. Mẹ tôi đã đi ngủ. Khoảng nửa tiếng sau, tôi thấy Fred đang đứng ở cửa bếp. “Tôi có thể vào nhà được không?” anh nói. “Tôi đang di dạo bên ngoài, thấy đèn còn sáng.”

    Trông anh có vẻ đỡ hơn, tôi nghĩ thầm.

    “Tôi chẳng thể nào ngủ được”, anh nói. “Ở nhà giờ này lạnh lẽo và cô đơn quá”. Anh hút thuốc và uống một ly cà phê, rồi tôi đưa anh ra tận cổng. Tôi quay vào. Sắp đến nhà thì nghe tiếng sột soạt trong bụi cây nên tôi dừng lại để xem. Rồi một cái gì đó đã đập vào đầu tôi. Tôi ngã xuống. Lịm đi...

    Khi tỉnh lại, tôi nghe tiếng của mẹ tôi. Tôi đang nằm trên giường. Một giải băng trắng quấn ngang đầu.

    “Nó gàn bướng quá!” giọng mẹ buồn bã. “Cứ làm theo ý mình. Nó sao rồi, bác sĩ?” “Không nghiêm trọng lắm đâu, bà Baring ạ”, một giọng đàn ông vang lên.

    Đó là bác sĩ Barclay. Anh đang đứng cạnh giường. Trông lạ hẳn. Một mắt sưng vù và áo thì nhàu nát. “Ủa, có chuyên gì vậy?”, tôi hỏi.

    “Một viên đạn đã sượt qua đầu cô”, anh đáp. “Tôi phải cắt đi một mảng tóc. Đừng lo lắng gì cả. Tóc đẹp đấy chứ. Nó sẽ sớm trở lại như xưa thôi mà.”

    “Ai vậy? Ai đã bắn vậy?”

    “Gã đưa thư”, anh vừa nói vừa ra khỏi phòng.

    Rồi tôi chìm vào giấc ngủ. Sáng hôm sau, tôi thấy anh bước vào cười rạng rỡ - mắt phải vẫn tím bầm và chưa thể mở ra được. Rồi anh kể cho tôi nghe.

    “Sáng hôm đó, khi Elinor đang chăm chú tô lại môi thì tên sát nhân nhẹ nhàng bước vào. Hắn cải trang thành người đưa thư. Vì như cô biết đấy, chúng ta thường chẳng bao giờ để tâm đến người đưa thư. Người đưa thư thật đã đến đó sớm hơn. Ông ta thấy cô Elinor đang ngồi trên ghế và đọc tạp chí. Nhưng ông đã rời khỏi nơi đó trước khi bà Thompson đến. Người đưa thư mà bà thấy là người, ừm ... là người đã giết Elinor.” “Có phải là Fred không?”. Tôi đoán.

    “Đúng rồi. Đó là Fred Hammond”. Anh nắm tay tôi. “Tôi xin lỗi, cô bạn thân mến. Tôi đã cố gắng khuyên Elinor đi xa một thời gian nhưng cô ấy chưa kịp làm điều đó.” “Khùng thật đấy, Fred yêu cô ấy lắm mà”.

    “Phải rồi, anh ta rất yêu cô ấy nhưng cũng sợ mất cô ấy. Anh ta đã ghen tuông một cách mù quáng”. Trông anh có vẻ ngượng ngùng. “Có lẽ anh ta ghen với tôi.”

    “Nhưng anh ta thật sự yêu cô ấy mà”

    “Khoảng cách giữa yêu thương và thù hận rất mỏng manh. Có thể anh ta thấy rằng cô ấy chỉ thực sự thuộc về anh ta khi..., khi mà không ai có thể với tới được cô ấy. Kế hoạch của Fred khá hoàn hảo. Mọi việc đều như đã định. Chỉ trừ một điều - bà Thompson đã đến một cách bất ngờ.”

    Anh lặng lẽ kể tiếp. Bà Thompson đã nhận ra Fred chính là người đưa thư. Người đã vào phòng rồi bước ra ngoài trước khi bà nghe tiếng thét của người y tá. Và cũng chính là người đã bắn bà - nhân chứng duy nhất chống lại anh ta.

    Tôi cố suy nghĩ. “Nhưng tại sao anh ta lại muốn giết tôi chứ?”

    “Bởi vì cô cứ xới tung mọi thứ lên. Cô đã trở nên nguy hiểm từ giây phút cô cứ nằng nặc cho rằng Elinor bị sát hại. Và cũng vì tối qua cô hỏi Margaret lý do tại sao đến thăm bà Thompson”.

    “Anh ta đã nghe chúng tôi nói chuyện à?”

    “Đúng đó. Do vậy mà Margaret bảo tôi đến thông báo cho cô”.

    Anh đã quan sát ngôi nhà của gia đình Hammond suốt cả tối hôm đó. Khi Fred đến cửa sau nhà tôi thì anh cũng đang ở phía ngoài. Anh thấy Fred bắt đầu đi bộ về nhà. Tuy nhiên, khi anh nhận ra anh ta đang quay trở lại thì đã quá trễ. Anh nhào tới đúng lúc Fred bắn tôi. Sau đó là cuộc vật lộn. Fred thoát được và rồi... tự bắn vào mình.Tôi chợt nhận ra là mình đang khóc. Thật là khủng khiếp. Anh lấy khăn tay lau nước mắt cho tôi.

    “Giờ thì mọi việc đã qua rồi”. Anh nói. “Cô thật dũng cảm, Louise Baring ạ.” Anh đứng dậy. “Bây giờ cô cần yên tĩnh, sắp có người đến thay băng cho cô đấy”.

    Tôi nhìn lên anh. Trông anh rất mỏi mệt, râu ria lởm chởm. Nhưng trông cũng rất cao lớn, mạnh mẽ và điềm tĩnh. Phụ nữ hẳn sẽ cảm thấy an toàn khi ở bên cạnh anh - tôi thầm nghĩ, bất kỳ người phụ nữ nào. Dĩ nhiên chẳng ai lại nói cho anh biết điều đó.

    “Anh thay băng không được sao? “ tôi nói. “Anh không thể dành cho tôi một vài phút sao?”

    Anh mỉm cười, hôn nhẹ lên má tôi. “Ngay giây phút mà em dằn mạnh thỏi son đó trước mặt anh thì anh biết... đời anh đã dành cho em rồi,” anh thì thầm. “Này, lo để tâm vào việc dưỡng lại mái tóc được rồi đấy. Thôi điều tra vớ vẩn đi nhé... À, mà anh cũng phải đi đâu đó một chút,” anh nháy mắt. “Để thời gian cho người khác nữa chứ.”

    Tôi nhìn lên. Mẹ đang đứng bên cạnh cửa, mỉm cười.


    (Dịch từ bản tiếng Anh “The Lipstick” của Mary Roberts Rinehart trong tuyển tập “American Crime Stories” - Oxtord University Press. 1997)
     
    meetdak, amylee, vuivui2013 and 2 others like this.
  10. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    HỒ SƠ CHƯA KHÉP

    Truyện của Edward D. Hoch
    Quang Hùng dịch


    Tod Baxter là một người có chiều cao và sức nặng trung bình, mặt mũi không có gì đặc biệt (trừ một chiếc răng cửa gãy), trạc tuổi trung niên. Người ta có thể thấy nhan nhản những người tương tự như gã trong số những người thuộc văn phòng luật sư ăn cơm trưa tại Câu lạc bộ Đại học, hoặc trong số dân vô gia cư ngủ dưới gầm cầu Broad Street hàng đêm. Baxter chẳng phải là luật sư, cũng không vô gia cư. Gã làm việc cho người anh ruột tên Sam và đêm về ngủ tại một căn hộ nhỏ mà gã thuê cách nay đã ba năm, từ khi gã ly dị vợ.

    Vào chiều ngày thứ bảy tháng mười ấy, Tod ngồi ở bàn ăn trong bếp, nghĩ đến Marcy Mc Gregor. Đúng hơn, gã nghĩ đến chồng cô - gã vừa biết rằng Charlie Mc Gregor không chịu ly dị vợ. Nghĩ một lát và thấy mình không thể sống thiếu Marcy, gã rời ghế, đến mở chiếc tủ nhỏ trong bếp, cầm chiếc hộp nhỏ và bật nắp Bên trong là khẩu súng ngắn Beretta tự động mà gã đã mua từ lâu ở một cửa hàng cầm đồ tại Las Vegas. Súng còn hoạt động tốt. Gã lắp đạn, cài chốt an toàn, xong nhét súng vô túi có khoá, bước ra xe hơi. Việc phải được giải quyết trong ngày hôm nay, dù thế nào đi nữa.

    Hôm nay là thứ bảy, có nhiều khả năng Charlie ở nhà với vợ. Quả vậy, khi đậu xe trước nhà, Baxter thấy cả hai đang lúi húi ở sân sau. Charlie lo đẩy máy cắt cỏ, trong khi Marcy đang tỉa hàng rào.

    Marcy nhìn thấy gã trước, vội bước ra và ra dấu cho gã hãy đi đi vì sợ chồng cô thấy gã. Nhưng chiếc máy cắt cỏ bỗng dừng lại và Charlie Mc Gregor bước đến đứng ngay phía sau vợ, lớn tiếng:

    - Anh đến đây làm gì, Baxter? Không ai muốn đón tiếp anh đâu!

    Marcy bảo:

    - Tod - Và chợt chị thấy khẩu súng - Chúa ơi, anh định...

    Charlie cũng đã thấy khẩu súng. Anh mở miệng định nói gì đó nhưng Tod Baxter không cho anh kịp nói. Gã nhắm ngay ngực Mc Gregor, nhả đạn.

    Marcy luống cuống khi chồng chị đưa hai tay ôm ngực ngã xuống, cố nói:

    - Thằng điên đó bắn anh ! Marcy, gọi cảnh sat...

    Tod Baxter đưa tay trái nắm áo Marcy:

    - Đi, chúng ta đi khỏi đây ngay!

    - Anh có điên không, Tod? Tôi không đi đâu cả. Chúa ơi, máu...!

    Một người hàng xóm xuất hiện, thận trọng vừa lại gần, vừa sẵn sàng kiếm chỗ nấp. Marcy quỳ gối bên chồng, cố lau máu trào ra từ vết thương nơi ngực. Baxter quay lưng chạy về phía xe hơi của hắn.

    Có tiếng còi hụ xa xa và lớn dần.

    Baxter không vô xe hơi mà chạy vòng sau bụi trường xuân, quăng khẩu súng ra xa. Tiếng còi đã tới sát bên, xe cảnh sát dừng lại. Gã ẩn mình sau bụi cây. Có ai đó la:

    - Gã trốn ở đằng kia kìa!

    Baxter cố thu mình nhỏ lại, như chơi trò trốn tìm.

    Rồi gã nghe có tiếng nói kế bên:

    - Cảnh sát đây! Đưa tay lên và bước ra, không tôi bắn!

    Charlie Mc Gregor chưa chết. Với vết thương sát tim, anh ta chập chờn giữa cái sống và sự chết. Tod Baxter ra trước tòa vào sáng thứ hai và được tại ngoại hầu tra nếu đóng nửa triệu đôla tiền thế chân. Anh của gã đến gặp gã tại phòng giam. Gã la lên:

    - Anh không nói giảm tiền thế chân được sao! Tôi sẽ phát điên nếu bị giam cả tháng trời để chờ xét xử.

    Sam Baxter, lớn hơn em 8 tuổi, lắc đầu:

    - Luật sư bảo họ sợ chú mày bỏ trốn,

    - Vô lý. Tôi đã sống ở đây hầu hết cuộc đời. Tôi có việc làm chung với anh; và anh thì ai chẳng biết!

    - Này, chú đã toan giết chồng của bạn gái chú. Hắn đang dở sống dở chết. Nếu hắn chết vì vết thương gây ra trong vòng một năm, chú sẽ bị kết tội sát nhân.

    - Tôi…

    - Chú đã làm một việc điên rồ và chú sẽ ngồi tù vì việc ấy. Chẳng ai, kể cả tôi, cứu nổi chú. Tod, chú đã 41 tuổi rồi mà còn cố theo váy một cô gái 28 tuổi đã có chồng!

    - Anh à, tôi biết lỗi rồi. Anh cố cứu tôi, lần chót!

    - Đào đâu ra nửa triệu đôla?

    - Công việc cưa xẻ gỗ của anh. Anh có thể chạy vạy, vay ngân hàng chẳng hạn. Em sẽ nhớ ơn anh suốt đời. Em sẽ không bỏ trốn mà lo tu tỉnh làm ăn...

    Sam lắc đầu, thở dài :

    - Tôi không dám hứa hẹn gì cả. Tối nay tôi sẽ bàn với Rose. Chuyện như vầy phải có sự đồng ý của vợ tôi.

    - Cám ơn anh, Sam.


    ***


    Fletcher vừa được đề bạt làm đội trưởng đội trọng án thay cho Leopold đã tới tuổi nghỉ hưu. Cô thư ký Connie Trent hỏi anh:

    - Thủ truởng có nghe tin mới nhất về Tod Baxter chưa? Gã đã được tại ngoại rồi!

    - Tại ngoại! Gã lấy đâu ra nửa triệu đôla?

    - Không phải gã, mà là anh gã thế chấp hãng cưa xẻ gỗ. Thủ trưởng có nghĩ gã vẫn cố giết Mc Gregor không?

    - Đừng gọi tôi là thủ trưởng! Thẩm phán đã ra lệnh cho Tod Baxter không được lại gần bệnh viện và nhà của Mc Gregor. Và chúng ta sẽ cho người canh gác bệnh viện ít nhất trong vài ba đêm tới.

    - Khi nào thì đại bồi thẩm đoàn họp?

    - Chắc trong tuần tới. Chiều nay tôi sẽ đến bệnh viện xem Mc Gregor đã đủ khoẻ chưa để bảo anh ấy làm bản tường trình.

    - Còn vợ anh ta ra sao?

    - Chị ta nói mình không thấy gì cả. Chị đang quay lưng lại thì nghe tiếng súng nổ. Theo hàng xóm thì chị ta nói dối.

    - Chị ta đang lưỡng lự giữa một bên là người chồng sắp chết, một bên là người tình đang bị giam.

    Chiều hôm ấy, khi Fletcher đến bệnh viện, bác sĩ nói với anh:

    - Charlie Mc Gregor còn yếu lắm. Anh chưa thể gặp được đâu.

    - Tôi muốn có bản tường trình trước khi đại bồi thẩm đoàn họp xét vụ này.

    - Anh chịu khó chờ thêm đôi ba ngày.

    - Bác sĩ nghĩ Charlie sẽ thoát chết?

    - 48 giờ đầu là những lúc nguy hiểm nhất. Qua được thời gian ấy rồi thì còn nhiều hy vọng.

    - Nhưng ít ra tôi có thể nhìn qua anh ta chứ?

    Bác sĩ lắc đầu:

    - Anh cảm phiền mai trở lại.

    Ra đến gần cổng bệnh viện, anh gặp Marcy Mc Gregor. Anh lịch sự tự giới thiệu:

    - Tôi là đại úy Fletcher thuộc đội trọng án. Tôi đã nói chuyện với chị vào ngày thứ bảy.

    - Tôi nhớ. Anh đã hỏi Charlie chưa?

    - Bác sĩ không cho tôi gặp. Nhưng ngay khi Charlie nói được, tôi cần có bản tường trình để kịp gởi lên đại bồi thẩm đoàn trong tuần tới.

    - Tôi không hiểu anh cần bản tường trình để làm gì, vì đã có lời chứng của những người hàng xóm rồi.

    - Nếu có tiếng nói từ phía nạn nhân thì hay hơn! - Anh ngập ngừng trước khi tiếp - nhất là do chị lại quay lưng vào đúng lúc xảy ra sự việc.

    - Thế anh nghĩ tôi bao che cho Tod Baxter sao?

    - Tôi không biết. Có người nói chị thân với Tod Baxter. Người ta thấy chị và anh ta cùng đi chơi.

    - Tod dẫn tôi đến thăm xưởng cưa của anh ruột của Tod. Đó chẳng lẽ là một việc làm phạm luật?

    - Tất nhiên là không. Nhưng Tod Baxter hẳn phải có động cơ khi muốn giết chồng chị.

    - Anh nên hỏi Tod Baxter thì sẽ rõ!

    Dĩ nhiên Fletcher đã hỏi, nhưng không điều tra được gì. Baxter khai gã có chuyện bất hòa với Charlie, nên đem súng đến dọa, không ngờ súng cướp cò. Chẳng ai tin như vậy; và viên biện lý tin chắc ông có thể chứng minh trước tòa rằng Tod Baxter và Marcy Mc Gregor đã là tình nhân của nhau.

    Nhưng Fletcher chỉ đáp “Cám ơn bà Mc Gregor”. Và thay vì về nhà, anh quyết định đến thăm Leopold, thủ trưởng cũ của mình.

    Leopold sống chung với vợ, Molly, nhỏ hơn ông 27 tuổi, trong ngôi nhà nhìn ngay ra vịnh Bradford. Ông đang ngồi trầm ngâm ngắm chiều rơi chầm chậm trên mặt nước mênh mông, tĩnh mịch thì Fletcher đến.

    - Chào Fletcher. Rất mừng được gặp anh.

    - Chào thủ trưởng. Chị đâu?

    - Molly ra ngoài có chút việc. Đừng gọi tôi là thủ trưởng nữa. Thế nào, công việc có gì mới không?

    - Bình thường. Vụ bắn Mc Gregor là sự kiện lớn vào cuối tuần rồi, nhưng không mất nhiều công sức điều tra. Baxter vừa được tại ngoại.

    - Connie ra sao?

    - Khoẻ. Cô ấy vẫn thường nhắc đến anh luôn. Anh có tính làm việc gì cho vui không?

    - Ổng thị trưởng mời tôi làm ủy viên an ninh công cộng, nhưng mỗi tháng chỉ họp một lần.

    Sáng hôm sau, tại trụ sở của đội trọng án, Fetcher nói với Connie Trent về chuyện anh đến thăm Leopold; và nói thêm:

    - Ông ấy có vẻ hơi buồn vì quá rảnh. Tôi nghĩ mình phải điện thoại cho Molly xem chị ấy nghĩ sao. Nếu có thể giúp gì cho ông ấy thì rất nên giúp.

    - Tôi cũng nghĩ thế. À, bác sĩ ở bệnh viện mới gọi điện khi sáng, cho biết Charlie Mc Gregor đã tỉnh và anh có thể nói chuyện với bệnh nhân trong vòng năm phút.

    - Vậy tôi phải đi ngay, kẻo bác sĩ đổi ý.


    ***


    Marcy đang ngồi cạnh chồng lúc Fletcher đến. Chờ một lát, đến khi Marcy ra ngoài, Fletcher thận trọng:

    - Tôi là đại úy Fletcher, đội trưởng đội trọng án. Ông nghe tôi rõ không, Mc Gregor?

    Bệnh nhên đang còn ống thở gắn vô mũi và chuyền dịch vào mạch máu ở phía lưng bàn tay, nhưng nhấp nháy mắt:

    - Tôi nghe rõ.

    - Ông cảm thấy đủ khoẻ để tường trình vụ ông bị bắn hay không?

    - Được chứ! Đâu có gì phải nói nhiều. Tôi đang xén cỏ bằng máy thì hắn bước ra khỏi xe hơi ngừng ngay trước nhà tôi - Mc Gregor ngừng một lát để lấy hơi và nói tiếp - Tôi bảo hắn cút đi thì hắn rút súng bắn tôi.

    - Mc Gregor, tôi sẽ thu băng lời ông kể. Sau này, khi ông khoẻ hơn, chúng ta sẽ cần có bản tường trình đúng thủ tục.

    - Được!

    Băng vừa thu xong thì y tá bước vào, ra hiệu đã hết thời hạn năm phút.

    - Cho tôi hỏi thêm hai câu: Ai đã bắn ông, ông Mc Gregor? Ông có nhận ra kẻ ấy không?

    - Tất nhiên. Đó là Tod Baxter.

    - Tại saoTod bắn ông?

    - Hắn dan díu với vợ tôi và muốn chiếm đoạt vợ tôi.

    Y tá kéo tay áo anh. Marcy đang chờ anh ngoài hàng lang

    - Tôi hy vọng ông không làm anh ấy mệt.

    - Ông ấy đang bình phục. Nội trong tuần tới, Mc Gregor có thể cho chúng tôi bản tường trình đầy đủ và chính xác về chuyện đã xảy ra.

    - Ông cần bản tường trình lắm sao?

    - Tất cả đều cần phải rõ ràng trước tòa. Nếu bà cảm thấy cần bổ sung vào bản tường trình của bà...

    Marcy bỗng quyết định:

    - Tôi sẽ bổ sung. Tôi nhìn thấy toàn bộ vụ việc. Tôi sẽ kể đúng những gì đã xẩy ra.

    Charlie Mc Gregor, chồng Marcy đang khoẻ lại và chắc chắn thoát chết, nên bà ta cần quyết định đứng về phía nào.

    Báo chí phát hành vào sáng thứ bảy đều đăng bài về việc Marcy Mc Gregor đã làm chứng chống lại người tình. Vụ việc được đưa ra trước đại bồi thẩm đoàn ngày thứ ba; và Tod Baxter bị kết tội âm mưu giết người và sở hữu súng bất hợp pháp. Nhưng giờ đây Charlie Mc Gregor đã qua khỏi nguy cơ bị chết, nên luật sư của Tod Baxter đề nghị giảm số tiền thế chân để tại ngoại. Tuy nhiên, thẩm phán vẫn giữ nguyên mức tiền thế chân nửa triệu đôla.

    Thứ hai tiếp theo, Connie Trent đến phòng làm việc của Fletcher:

    - Tôi đã tìm ra nơi cư ngụ của người vợ trước của Tod Baxter. Chị ấy dùng tên hồi cồn con gái là Grace Smiley. Anh cần nói chuyện với chị ấy không?

    - Cần hỏi xem chị ấy có thể đến đây trong tuần này được không?

    Grace Smiley đến vào sáng thứ tư. Đó là một phụ nữ trạc tứ tuần, với nhan sắc chắc là không mấy hấp dẫn. Thật khó xác định điều này vì chị trang điểm quá mức. Chị hình như cũng hiểu vậy nên vừa ngồi xuống ghế đối diện với Fletcher, vừa giải thích:

    - Tôi đang làm cho một hãng mỹ phẩm - và vô đề ngay - Vào lúc vụ án xảy ra, tôi không có mặt tại thành phố. Nhưng thật ra, vụ này chẳng liên quan gì đến tôi. Tôi cũng không hề ngạc nhiên vì Tod có thể dám làm mọi việc.

    - Chị sống chung với Tod lâu không?

    - Hơn năm năm. Chúng tôi ly dị đã ba năm nay.

    - Anh ta có một người đàn bà khác?

    - Tôi không rõ. Công việc khiến tôi phải đi suốt; và Tod không thích thế. Anh ta thuộc mẫu người cần một bà mẹ hơn là một người vợ.

    - Hình như anh ta dan díu với vợ của Charlie. Đó là lý do tại sao Tod bắn Charlie. Anh ta hay có dấu hiệu hành vi bạo lực khi sống chung với chị không?

    - Không. Chưa bao giờ anh ta đánh đập tôi. Đôi khi Tod giận dữ về việc gì đó, và đập bể bình lọ hoặc ly tách. Có lần anh ta bị sưng tay vì đấm mạnh vô tường. Tôi nghĩ Tod có vấn đề với anh của anh ta.

    - Sam Baxter?

    - Phải. Sam lớn hơn Tod tám tuổi. Khi cha chết, Sam phải nuôi dưỡng em mình, nên vừa là cha, vừa là anh Tod. Anh ta thành công khi lập xưởng gỗ, trong khi Tod làm gì cũng thất bại. Họ rất thân, thường tặng quà cho nhau. Cuối cùng Sam tìm việc làm cho Tod.

    - Sam nộp tiền thế chân cho em đấy.

    - Tôi không ngạc nhiên.

    - Vụ án đã mở ra và khép lại. Tôi muốn hỏi thêm chị có biết gì về quan hệ giữa Tod với Marcy không?

    - Không hề! Tôi không biết Marcy và đã không nói chuyện với Tod từ khoảng gần một năm nay.

    Fletcher đứng dậy, ngầm tỏ ý buổi nói chuyện đã kết thúc:

    - Cám ơn chị. Khi nào cần gặp chị, tôi sẽ nhắn tin sau.

    Anh cho đánh máy bản tường trình về buổi gặp và đưa vô hồ sơ vụ án.

    Connie Trent trực đêm thứ sáu, và Fletcher đi xem phim cùng với vợ. Khi về nhà, họ còn coi chương trình truyền hình khuya rồi mới lên giường. Anh đang ngủ say thì chuông điện thoại reo vang, đánh thức anh. Đồng hồ chỉ 3 giờ 24 phút.

    - Connie đây, thủ trưởng. Rất tiếc vì làm phiền anh.

    - Gì vậy? Tôi nghe đây, Connie. Tôi đã quen bị đánh thức vào giờ này. Có chuyện gì phải không?

    - Tôi nghĩ anh cần biết ngay: Tod Baxter vừa tự sát!


    ***



    Một vụ tự sát thường không cần dựng Fletcher thức dậy vào giữa đêm khuya và bắt anh phải đến hiện trường. Nhưng vụ này thì khác. Anh lái xe đến ngay khu phía Tây thành phố. Trước đây, sau khi bắt Tod Baxter, anh đã lục soát nhà Baxter rất kỹ nhưng không khám phá ra vật gì bất thường. Giờ đây, khi dừng xe trước căn nhà vào lúc 3 giờ 30 sáng, anh thấy có một xe tuần tra cảnh sát, một xe cấp cứu, xe của Connie Trent và một chiếc xe Buick lạ màu đỏ.

    Connie gặp anh ở cửa ra vào và dẫn anh vào căn hộ trên lầu:

    - Mọi viêc đều rõ ràng. Gã gọi điện thoại chào vĩnh biệt anh gã, rồi tự bắn vào miệng. Gã cũng để lại một lá thứ viết tay.

    Sam Baxter, chủ nhân chiếc Buick, đang đứng ở đầu cầu thang, tỏ ra bối rối. Anh ta gật đầu chào Fletcher, dù có lẽ không nhận ra Fletcher là ai. Trong căn hộ, tử thi nằm cuộn trong một chiếc ghế bành lớn kê bên chiếc bàn nhỏ, trên có đặt điện thoại và nửa ly chất lỏng có màu hổ phách. Tod Baxter đã đặt nòng khẩu súng ngắn vào miệng và bóp cò. Viên đạn thổi bay mấy chiếc răng cửa, trước khi làm phía sau đầu gã thủng một lỗ lớn. Tay phải Tod vẫn còn nắm chặt khẩu súng với nòng nhuộm máu, vắt ngang bụng.

    Fletcher bảo Connie:

    - Kiểm tra mọi thứ để lấy dấu tay. Nhất là khẩu súng, điện thoại và chiếc ly này.

    - Đây là bức thư tay mà Tod Baxter để lại. Tôi vừa bỏ vô bao để kiểm nghiệm lại. Đó là một tờ giấy có nếp gấp ngay giữa.

    - Cô thấy thư ở đâu?

    - Ngay cạnh ly, mở ra như vầy!

    Thư ngắn, Fletcher đọc lướt nhanh: “Sam - Tôi biết rằng đây là điều tệ hại nhất tôi chưa từng làm, nhưng tôi không thể chịu nổi ý nghĩ mình phải ngồi tù. Tôi hy vọng anh sẽ tha thứ cho đứa em thân yêu của anh - Tod”.

    Fletcher đưa lại bì thư cho Connie:

    - Kiểm tra thư tìm dấu tay và đưa cho một chuyên gia giảo tự. Sam Baxter đã coi thư chưa?

    Cô gật đầu:

    - Anh ta gọi số cấp cứu ngay sau khi Tod gọi điện thoại đến anh ta. Xe tuần tra đến trước Sam chút xíu, còn tôi cũng tới ngay sau xe Buick.

    - Mọi người dưới gác có hay biết gì không?

    - Mỗi thứ sáu họ đều đi chơi nhân dịp cuối tuần.

    Fletcher bước ra đầu cầu thang nói chuyện với Sam Baxter.

    - Tôi được biết Tod gọi điện cho anh trước khi việc xảy ra, phải vậy không?

    - Tôi... phải, xin lỗi, quả là một cú sốc.

    - Tod nói thế nào?

    - “Vĩnh biệt anh, Sam”- Chú ấy chỉ nói vậy thôi. Rồi có tiếng nổ lớn và đường dây bị gián đoạn. Tôi không tin ở tai mình. Tôi vội gọi số cấp cứu và chạy tới đây. Suốt dọc đường, tôi cầu nguyện, nhưng...

    - Anh có chắc đó là giọng của em anh không? Nếu Tod nói có vài ba tiếng thì rất có thể kẻ nào đó bắt chước giọng.

    - Cái gì? Hẳn nhiên đó là giọng của Tod. Nghe giọng của chú ấy, tôi không thể lầm được!

    - Một điều hơi lạ là khi một người tay cẩm khẩu súng, tay cầm điện thoại. Nhưng cũng có thể, trong khi Tod dùng tay trái chuẩn bị bỏ điện thoại xuống thì tay phải kê súng vô miệng và bóp cò.


    ***


    Các bản báo cáo nằm trên bàn giấy của Fletcher vào sáng thứ hai. Có dấu tay người chết trên khẩu súng, trên ly rượu, lá thư và trên điện thoại. Dấu tay trái trên điện thoại, tay phải trên ly và súng. Những phân tử nitrate trên tay nạn nhân chứng tỏ chính anh ta bắn súng. Một chuyên viên giao tự kết luận chắc chắn Tod Baxter đã viết lá thư tuyệt mệnh gởi anh mình.

    Hồ sơ đã khép lại, hoặc sẽ khép lại sau khi Fletcher nói chuyện với Marcy McGregor. Chị đến văn phòng anh khá trễ vào sáng hôm ấy.

    - Rất tiếc vì phải mời chị đến đây. Chồng chị ra sao rồi?

    - Cám ơn, đã khá hơn nhiều. Bác sĩ nói anh ấy đã qua cơn nguy hiểm và sẽ chuyển anh ấy lên phòng chăm sóc.

    - Tôi rất vui khi biết vậy. Hẳn chị đã nghe việc Tod Baxter tự tử?

    - Tôi có đọc trên báo.

    - Đó là lý do khiến tôi mời chị tới đây, để hỏi chị ít câu. Trong thời gian giữa lúc chồng chị bị bắn và vụ tự tử, chị có khi nào gặp Baxter không?

    - Không.

    - Cả qua điện thoại, lẫn gặp mặt?

    - Không. Sau khi anh ấy bắn Charlie, tôi chẳng muốn gặp anh ấy nữa. Thật ra, cô đã chia tay với Tod Baxter trước khi xảy ra vụ bắn Charlie. Đó là lý do khiến anh ta đến nhà tôi vào thứ bảy ấy.

    - Anh ta có nhắn gởi chị điều gì ám chỉ đến việc tự tử không?

    - Không.

    - Báo cáo phẫu thuật cho thấy có một lượng lớn rượu trong cơ thể nạn nhân vào lúc chết. Tod Baxter có nghiện rượu nặng không?

    - Không. Nhưng tôi nghĩ một kẻ sắp tự tử uống nhiều rượu là việc thường tình.

    - Thêm một câu hỏi nữa Baxter dùng một khẩu súng ngắn để bắn chồng chị và một khẩu súng khác để bắn vô đầu mình. Chị có biết súng ở đâu ra không? Cả hai khẩu đều không có giấy phép.

    Marcy lắc đầu:

    - Anh ta không khi nào nói chuyện súng ống với tôi cả.

    - Thỉnh thoảng chị có đến nhà anh ấy chứ?

    Marcy hơi lúng túng:

    - Có... đôi ba lần gì đó.

    - Chị có bao giờ nhìn thấy súng không?

    - Không bao giờ.

    Fletcher đặt bút xuống:

    - Cám ơn chị đã tới đây. Chúc chồng chị mau bình phục.

    Khi Marcy McGregor đã ra về, Fletcher vẫn ngồi đó, nhìn tập hồ sơ đang mở ra trên bàn trước mặt anh. Mở và khép.

    Anh vẫn thắc mắc về khẩu súng. Nhấc điện thoại, anh gọi đến nhà của Grace Smiley. Không ai trả lời. Anh gọi tiếp đến số của hãng mỹ phẩm nơi chị làm. Sau một lát chờ đợi, chị cầm máy, Fletcher tự giới thiệu và bắt đầu:

    - Chị Smiley, tôi muốn hỏi về khẩu súng mà chồng cũ của chị dùng để tự tử. Anh ta đã dùng khẩu Beretta không có giấy phép để bắn Charlie Mc Gregor, giờ lại dùng khẩu Smith and Wesson cũng không có giấy phép để tự tử. Chị có biết anh ta lấy súng ở đâu ra không?

    - Tôi biết. Súng ở Las Vegas. Chúng tôi tới đó vào dịp kỷ niệm đám cưới năm thứ nhất. Anh ấy đi lang thang chơi quanh phố và thấy có vài khẩu súng ở một tiệm cầm đồ. Anh ấy mua hai khẩu, rồi chẳng bao giờ đăng ký, và tôi cũng chưa hề nhìn thấy súng bao giờ nữa.

    - Tốt lắm. Tôi chỉ muốn biết rõ về điểm này. Cám ơn chị rất nhiều.

    Anh gọi Connie vào và đưa cho cô hồ sơ về vụ bắn Mc Gregor và Tod Baxter tự sát:

    - Vụ án đã khép lại, Connie. Cất vô tủ hồ sơ.

    Cô cầm hồ sơ, đọc lướt qua:

    - Lần đầu tôi mới thấy một vụ như vầy: một vụ tự sát mà nạn nhân cắn răng lại trong khi kê súng bắn vô miệng. Thông thường họ há miệng thọc nòng súng vô trước khi bóp cò.

    - Phải. Vì vậy đạn mới thổi bay mất hai chiếc răng cửa.

    Khi Connie ra khỏi phòng, anh ngồi ngẫm nghĩ. Cô ta có lý. Kẻ tự sát thọc súng vô họng. Hoặc họ bắn vô thái dương. Trừ khi...

    Anh nhớ lại nụ cười thiếu răng cửa của Tod Baxter đăng trên một tờ báo. Anh quay số điện thoại của Connie:

    - Connie, trong hồ sơ Mc Gregor có ảnh của Tod Baxter chụp để làm tư liệu khi bị bắt không?

    - Không, nhưng tôi có thể có ngay.

    - Tìm ảnh và mang lại hồ sơ cho tôi.

    Tod Baxter trông ra sao? Thực ra Fletcher định tìm hiểu điều gì? Anh cũng không rõ nữa. Trong một khoảnh khắc, anh ước gì Leopold chưa nghỉ hưu.

    Connie gõ cửa, đặt mấy tấm ảnh của Tod Baxter lên bàn. Dĩ nhiên, Tod Baxter không cười trong ảnh tư liệu. Chỗ hở giữa hàm răng cửa không lộ ra. Fletcher rủa thầm và cầm mấy tấm ảnh phẫu thuật lên. Chắc chắn cái chết làm diện mạo người ta biến dạng.

    - Connie!

    - Dạ, có gì không?

    - Cô nhìn vào tai trong những tấm ảnh này thử coi!

    Cô chăm chú ngắm nghía một lát:

    - Chúng khác nhau.

    - Quả là khác nhau mới chết chớ! Và tai người ta chắc chắn không biến dạng sau khi chết.

    - Anh nói gì vậy? Các dấu vân tay hoàn toàn khớp mà.

    - Vân tay trên súng, ly và điện thoại đều khớp với vân tay của người chết. Nhưng đã kiểm tra đối chiếu lại với vân tay của Tod Baxter khi anh ta bị bắt chưa?

    Sao lại phải đối chiếu? Người chết ở trong nhà của Tod Baxter, mặc quần áo của Tod Baxter, nhìn giống Tod Baxter. Chắc chắn đó làTod Baxter chứ không lẽ là ai khác?

    - Giờ đã phát hiện nghi vấn. Phải kiểm tra lại ngay.

    Mười lăm phút sau, Connie quay lại:

    - Vân tay không khớp!

    - Điều ngay một xe cảnh sát đến nhà Marcy Mc Gregor, và một xe khác đến bệnh viện. Tod Baxter vẫn còn sống!

    Tối hôm ấy, Fletcher gọi điện thoại đến nhà Leopold ngay sau bữa tối. Molly trả lời:

    - Anh ấy đang ngồi ngắm cảnh chiều tà. Mời anh đến chơi.

    Hai mươi phút sau Fletcher gặp Leopold tại nhà, mang theo nguyên tập hồ sơ vụ án, Leopold vui vẻ:

    - Sao, có vụ gì đấy?

    - Vẫn vụ Mc Gregor. Đã mở ra và khép lại, trừ một điều. Kẻ tự sát không phải là Tod Baxter.

    Leopold cau mày:

    - Một anh em sinh đôi chưa hề lộ diện?

    - Có lẽ tôi nên kể từ đầu... - Và Fletcher vừa kể vừa giở hồ sơ, đưa cả ảnh cho Leopold - Anh có để ý cái tai này không?

    - Ờ, phải cái tai. Một phương pháp nhận dạng mới ngoài dấu vân tay. Rất thú vị!

    Fletcher tiếp tục kể:

    - Để trả lời câu hỏi vừa rồi của anh, người chết không phải anh em sinh đôi với Tod. Đó là một kẻ vô gia cư tên Pete Detroit.

    - Hay đấy.

    - Tôi nhận xét Tod Baxter là một người nhìn qua rất bình thường, trung bình về chiều cao, sức nặng, không có gì đáng chú ý trên khuôn mặt. Người ta dễ nhận lầm một người có mái tóc và màu mắt giống anh ta, nhất là sau khi chết. Bởi không nghe ai báo bị mất tích sau vụ tự sát, tôi nghĩ nếu kẻ chết không phải là Baxter thì phải là một gã lang thang, chẳng hạn trong số người ngủ hàng đêm dưới gầm cầu Broad Street. Tôi cho mang tấm ảnh tư liệu của Tod Baxter ra, đồ lại chút đỉnh, che hai tai lại. Connie cho người đến khu vực quanh cầu đưa ảnh ra nhờ nhận diện, có hai người nói kẻ trong ảnh là Pete Detroit mà họ thường gặp trước lúc Tod tự tử, nhưng nay hắn ta đã biến đi đâu mất.

    - Tốt, tốt lắm. Vậy anh nghĩ sự việc xảy ra như thế nào?

    - Có lẽ Tod Baxter gặp anh chàng Pete Detroit và thấy anh chàng hơi giống gã. Khi gã quyết định dựng lên vụ tự sát giả tạo, gã tìm Pete Detroit, dụ anh chàng về nhà gã. Có lẽ gã cho anh chàng tắm rửa, mặc quần áo của gã. Rồi gã phục anh chàng uống rượu say và giết anh chàng, kê súng bắn vào răng cửa để không ai phát hiện xác chết thiếu chiếc răng này. Tod để anh chàng lưu lại dấu tay khắp nơi trước khi ra tay hạ sát. Tất nhiên Tod Baxter là thủ phạm, bởi bức thư chính là chữ viết tay của gã.

    - Hiện giờ Tod Baxter ở đâu?

    Retcher cau mày và lắc đầu:

    - Tôi không rõ. Tốt nhất là tóm cổ được gã, trước khi công bố cho báo chí biết. Tôi có cảm tưởng gã chưa đi xa. Ai đó có thể chứa chấp gã.

    - Ai?

    - Có ba kẻ tình nghi, ông anh Sam vốn rất thân với gã. Marcy Mc Gregor đã từng dan díu với gã, và có thể việc chị ta hòa hoãn với chồng chị là một vở kịch. Nay chồng chị ta còn đang nằm bệnh viện, Tod rất có thể đang trốn trong nhà chị ta. Người thứ ba là vợ cũ của gã, Grace Smiley. Ai mà biết được, “tình cũ không rủ cũng tới” mà!

    - Nhưng ai có khả năng nhất?

    - Không rõ. Cho nên tôi mới đến nhờ anh.

    - Tôi cần suy nghĩ thêm... Nhưng chứng cứ vẫn chưa rõ lắm...

    - Vậy, anh biết?

    - Tôi biết vài chuyện chứ không phải tất cả. Nhưng có thể nói tôi biết điều quan trọng nhất. Nào, chúng ta cùng đi một chuyến.

    Molly ở phòng bên gọi với sang:

    - Anh ra ngoài sao, Leopold?

    - Một lát thôi, Fletcher và anh cùng đi.

    Họ quay về thành phố. Fletcher lái xe theo hướng Leopold chỉ, và anh nhận ra xe đang chạy đến gần nhà của Sam Baxter. Khi họ ngừng xe, đèn ở tầng trệt bật sáng. Rose Baxter bước ra cửa, ngạc nhiên khi thấy họ:

    - Ồ! Đại úy Fletcher phải không?

    Leopold hỏi:

    - Chúng tôi muốn gặp chồng chị.

    Làm như nghe tiếng ông, Sam Baxter xuất hiện cạnh vợ:

    - Có chuyện gì vậy?

    Leopold chỉ tay vao Sam:

    - Chính ông ta, Fletcher. Hãy bắt Sam ngay!

    - Đồng lõa của em mình? .

    - Không, không. Anh đoán sai động cơ nên dẫn đến đoán sai kẻ giết người. Có lẽ Tod không hay biết gì về vụ này đâu. Chính Sam Baxter đã giết Pete Detroit!

    Tiếp đó Leopold giải thích toàn bộ sự việc trước sự hiện diện của Fletcher, Connie Trent va một số anh em trong đội trọng án:

    - Đây là một vụ án khó, đầy những nghi vấn. Đến với vụ án quá trễ, tôi đành chỉ căn cứ vào những miêu tả sự kiện rất chính xác của Fletcher, cùng với những tấm ảnh và hồ sơ. Nhưng có hai điều - những đầu mối, có thể nói như vậy - giúp tôi chọn đúng hướng. Đó là lá thư viết tay của Tod Baxter và hai khẩu súng.

    Fletcher rút lá thư trong chồng hồ sơ ra:

    - Thư đây.

    - Và tôi biết chắc có dấu vân tay của người chết trên thư, cũng như trên khẩu súng và ly rượu. Không mấy khó khăn khi nhét khẩu súng vô tay một người say hoặc đã bất tỉnh, nắm lấy tay anh ta, để họng súng vô răng cửa của anh ta rồi bóp cò. Trên bàn tay nạn nhân sẽ có dấu nitrate, như mọi người đều đã biết. Nhưng hãy đọc kỹ lá thư. Lá thư đặt trên bàn, mở ra, tuy nhiên lại có dấu gấp ở giữa. Tại sao vậy?

    Connie lên tiếng:

    - Có lẽ anh ta đã xếp lại và rồi lại đổi ý. Người say có thể làm nhiều chuyện khó đoán.

    - A, nhưng do tưởng lầm Tod Baxter là người tự tử, mà thật ra kẻ chết lại là Pete Detroit. Chính Detroit mới say nhưng anh ta đâu có viết thư! Và nếu đọc kỹ lại lá thư, các bạn sẽ thấy nội dung thư không hề đả động đến chuyện tự sát: “Sam - tôi biết rằng đây là đều tệ hại nhất tôi chưa từng làm, nhưng tôi không thể chịu nổi ý nghĩ mình phải ngồi tù. Tôi hy vọng anh sẽ tha thứ cho đứa em thân yêu của anh - Tod”. Hãy nhớ rằng đây là thư em viết cho anh. Điều tệ nhất mà Tod chưa từng làm là bỏ trốn và để mặc Sam Baxter chịu trách nhiệm về nửa triệu đôla tiền thế chân, nên gã xin anh mình tha lỗi. Thư được xếp lại vì Tod tính gởi thư bằng bưu điện đến Sam.

    Fletcher nhớ ra:

    - Nên anh nói tôi đoán sai động cơ.

    - Tất nhiên! Khi khám phá kẻ chết không phải là Tod Baxter, các bạn lập tức nghi Tod là tên sát nhân. Nhưng chính Sam mới là người nhớ rằng có kẻ trông giống em mình, nên Sam tìm Detroit, dụ anh chàng này đến nhà Tod cho uống rượu say, và giết Detroit. Sam đã thế chấp hãng xưởng của mình để Tod tại ngoại. Nay nếu Tod bỏ trốn, Sam sẽ mất sạch, trừ trường hợp anh ta thuyết phục được rằng Tod đã chết. Giống như trong một vụ cháy hoặc tại nạn xe hơi, người ta thường kiểm tra dấu vân tay và đặc điểm về răng. Bằng cách bắn Detroit ngay trong nhà Tod, Sam hy vọng sẽ không ai kiểm tra những thứ này. Mũi súng được đặt ngay răng cửa sẽ khiến không thể đối chiếu với chiếc răng gãy của Tod. Nhưng Sam quên không để ỷ đến cái tai.

    - Còn chuyện khẩu súng?

    - Tôi sẽ đề cập đến liền bây giờ. Thư đã đến tay Sam Baxter nên anh ta mới có thời gian sắp xếp kế hoạch của mình. Fletcher, anh đã kể tôi nghe chuyện hai anh em Baxter rất thương yêu nhau và hay gởi quà tặng nhau. Grace Smiley từng kể Tod mua hai khẩu súng ở Las Vegas. Tod đã dùng một khẩu để bắn Charlie Mc Gregor. Nhưng còn khẩu kia? Súng không có trong nhà Tod vì các anh đã lục soát nhà rất kỹ sau khi bắt Tod. Vậy nếu Tod không giữ súng thì anh ta dùng nó để làm gì? Câu trả lời đúng nhất là Tod đã mua súng tặng cho anh mình. Và đó chính là khẩu súng Sam đã dùng để giết anh chàng vô gia cư. Cả lá thư và khẩu súng đều dẫn đến kết luận: Sam Baxter là thủ phạm!

    Connie hỏi:

    - Vậy hiện Tod trốn ở đâu?

    Leopold nhún vai:

    - Gã có thể đang ở bất cứ nơi nào và chúng ta cần tìm cho ra. Nhưng cũng rất có thể chúng ta chẳng bao giờ tìm ra hắn cả...*
     
    meetdak, hungbc1010, tducchau and 2 others like this.
  11. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    MARTHA

    Tác giả: Kahlin Gibran
    Người dịch: Liêu An

    Cha Martha chết khi em còn nằm trong nôi, và Martha mất mẹ trước khi lên mười. Là một cô bé mồ côi, Martha được một gia đình nông dân nghèo nhận nuôi, thực chất là đem em về làm người giúp việc. Họ sống trong một làng nhỏ tối tăm trên sườn dốc của một ngọn núi đẹp ở phía Bắc Lebanon. Khi chết, cha em chỉ để lại cho gia đình mỗi cái tiếng tốt và một túp lều nằm giữa một cây liễu và cây óc chó. Thế rồi cái chết của người mẹ đã làm cho em thực sự đơn độc trên cõi đời. Sự trống trải trong trái tim bé bỏng của em không bao giờ bù đắp được. Martha trở thành ngươi xa lạ ngay ở nơi em đã sinh ra. Ngày ngày trên đôi chân trần, em phải đi chăn bò cho ông bà chủ. Trong khi con bò gặm cỏ, em đứng dưới cây, ca hát cùng bầy chim, rồi khóc than cho số phận mình bên dòng suối. Em mải mê ngắm nhìn những bông hoa cùng lũ bướm đang bay lượn xung quanh.

    Đến tối, em trở về nhà, ăn bữa tối đạm bạc với bánh mì, quả ô liu và trái cây khô. Martha phải ngủ trên một đống rơm, gối đầu lên cánh tay mình. Ước mơ duy nhất của em là được ngủ một giấc thật say. Bởi trời vừa rạng sáng thì ông chủ đã đánh thức em dậy và Martha phải làm mọi việc trước khi dắt bò ra đồng cỏ.

    Thế rồi những năm tối tăm và u ám trôi qua, và Martha trở thành một thiếu nữ. Trong trái tim cô nảy nở một thứ tình cảm thầm kín mà chính cô cũng không biết... giống như sự thơm mát từ nhụy một bông hoa. Cô đắm mình trong sự tưởng tượng giống như một con cừu đến bên dòng suối uống bao nhiêu cũng không hết khát. Tâm hồn Martha giống như một mảnh đất chưa được khai phá, nơi học thức sẽ được gieo trồng, không có cỏ dại và không có dấu chân của bất kỳ ai.

    Chúng ta, những người sống giữa sự náo nhiệt của thành phố chẳng biết gì về cuộc sống của người dân thôn quê cả. Chúng ta bị cuốn vào nhịp sống vội vã, hỗn loạn cho đến khi chúng ta quên đi sự thanh bình, yên ả ở thôn quê. Mùa xuân đến, họ tận hưởng cuộc sống với những cuộc vui chơi rộn rã, họ hăng hái làm việc vào mùa hè, thu hoạch vào mùa thu, và nghỉ ngơi thoải mái khi cái rét mướt của mùa đông tràn về. Tất cả đều theo một chu kỳ.

    Chúng ta có thể hơn họ về tiền bạc, nhưng lại thua họ về tâm hồn phóng khoáng. Những gì chúng ta có từ cuộc sống là sự trộn lẫn sự đắng cay và sự thất vọng, sự sợ hãi và sự chán chường, nhưng họ lại sống rất hạnh phúc và mãn nguyện với những gì mình có.

    Đến tuổi mười sáu, tâm hồn của Martha như một tấm gương sáng bóng phản chiếu mọi hình ảnh tươi đẹp, trái tim cô như một thung lũng ban sơ vang vọng mọi âm thanh.

    Một ngày mùa thu, cô đứng bên bờ suối, ngắm lá vàng rơi, ngắm cơn gió đang lột trần cây cối, gió lùa qua các cành cây khẳng khiu như cái chết đang ăn dần ăn mòn con người. Cô nhìn những bông hoa đang tàn lụi và những hạt giống tìm kiếm nơi trú ẩn trên mặt đất như những người tị nạn đi tìm cuộc sống mới.

    Bỗng cô nghe tiếng móng ngựa gõ trên mặt đất. Quay lại, cô nhìn thấy một thanh niên đang cưỡi ngựa đến gần. Khi đến bờ suối, anh xuống ngựa và chào cô bằng những lời lẽ ngọt ngào mà cô chưa bao giờ được nghe. Anh ta hỏi:

    - Cô gái, tôi đã bị lạc đường. Cô có thể chỉ tôi đường đến bờ biển không?

    Cô bối rối trả lời:

    - Tôi rất tiếc, thưa ông, tôi không thể chỉ cho ông được, tôi chưa bao giờ đi xa nhà cả. Nhưng nếu ông hỏi ông chủ tôi, tôi chắc ông ấy có thể giúp ông.

    Đôi má ửng hồng làm cô trông càng dịu dàng và xinh đẹp. Khi cô quay đi thì anh ta ngăn cô lại:

    - Làm ơn đừng đi.

    Dường như có một sức mạnh kỳ lạ từ giọng nói của chàng trai khiến cô đứng yên. Cô khẽ liếc trộm anh ấy và cô nhận thấy anh ấy cũng đang ngắm cô say sưa. Anh ta nhìn đôi chân trần đáng yêu, vóc người mảnh dẻ như một cành cây trước gió, vầng trán nhẵn và mái tóc óng ả. Anh ta ngắm gò má ửng hồng và gương mặt đẹp như một bức tượng với cái nhìn đầy yêu thích. Cô không thốt lên một lời và cũng chẳng nhúc nhích.

    Con bò về chuồng một mình vào buổi tối. Ông chủ Martha đi tìm cô khắp thung lũng nhưng không thấy. Bà vợ ông khóc suốt một đêm. Và sáng hôm sau, khi tỉnh dậy bà nói:

    - Tôi đã mơ thấy Martha, và nó đang bị một con quái vật dụ dỗ. Con quái vật muốn giết nó, nhưng Martha vẫn mỉm cười.

    Mùa thu năm 1900, sau kỳ nghỉ ở vùng phía Bắc Lebanon, tôi trở lại Beyrouth. Trước khi trở lại trường học, tôi đi lang thang khắp thành phố với bạn bè. Chúng tôi như những con chim được sổ lồng, muốn bay đến đâu tùy thích.

    Tuổi trẻ là một giấc mơ đẹp, hệt như một cuốn sách sáng ngời. Chúng ta dùng quá ít lòng nhiệt tình của tuổi trẻ.

    Một buổi chiều, tôi đứng ngắm con đường đông đúc ở Beyrouth, và thấy điếc cả tai bởi tiếng rao hàng của những ngươi bán rong. Tôi chợt chú ý đến một cậu bé chỉ khoảng năm, sáu tuổi đang mang một khay đầy hoa. Với một giọng đầy chán nản, nó hỏi tôi:

    - Anh có muốn mua hoa không ạ?

    Miệng nó chỉ mở một nửa. Cánh tay nó ốm, để trần và thân người ốm yếu của nó cúi gập xuống khay hoa như một cành hoa bị héo úa.

    Tôi mua vài bông hoa, nhưng mục đích của tôi là bắt chuyện với cậu bé. Tôi cảm thấy trái tim nó giống như một sân khấu mà một vở kịch về cuộc sống nghèo khổ đang liên tục diễn ra.

    Khi nghe những lời nói lịch sự của tôi, nó có vẻ cảm thấy an tâm, và một nụ cười nở ra làm sáng bừng cả khuôn mặt lem luốc. Nó có vẻ rất ngạc nhiên khi nghe những lời lịch thiệp, giống như những người nghèo khác nó đã quen với sự thô lỗ. Nó nói tên mình là Fu’ad. Tôi hỏi:

    - Em là con ai?

    Nó trả lời:

    - Em là con của mẹ Martha.

    - Thế cha em là ai? Tôi hỏi.

    Nó lắc đầu, vẻ rất bối rối, cứ như thể nó không hiểu những gì tôi hỏi. Tôi tiếp tục:

    - Thế bây giờ mẹ em đang ở đâu, Fu’ad?

    Nó bắt đầu khóc:

    - Mẹ em đang ở nhà, mẹ đang ốm.

    Thình lình, trong đầu óc tôi nảy ra một điều gì đó. Martha, một câu chuyện dang dở tôi nghe từ một người già trong ngôi làng nhỏ ở phía Bắc Lebanon. Liệu mẹ đứa trẻ nghèo này có phải là Martha? Chẳng lẽ nguời con gái trẻ ngày trước vẫn đi dạo trên những cánh đồng xanh ngát và tận hưởng cảnh đẹp thiên nhiên nay lại đang hứng chịu nỗi đau của sự thiếu thốn, một cô gái mồ côi, một thiếu nữ trong trắng đã sống trong thiên đường yên bình, tĩnh lặng lại đang bị dày vò bởi sự khắc nghiệt của thành phố?

    Khi cậu bé sắp đi, tôi nắm lấy tay nó và nói:

    - Hãy đưa anh đi gặp mẹ em, anh muốn gặp bà ấy.

    Cậu bé dẫn tôi đi một cách lặng lẽ. Vào mọt con đường chật hẹp và dơ bẩn, mùi tử khí như vương đầy trong không khí. Tôi đi bên cạnh Fu’ad mà thầm phục những bước chân bình thản của cậu bé. Phải can đảm lắm mới dám đi trong khu phố ổ chuột, nơi mà bạo lực, tội phạm và bệnh dịch diễn ra như cười nhạo sự phồn hoa của thành phố.

    Khi chúng tôi đến một ngã tư hết sức dơ nhớp, cậu bé chỉ vào một ngôi nhà tồi tàn, những bức tường cứ như chực ngã đổ nhào xuống. Tim tôi đập thình thịch và tôi theo Fu’ad vào môt căn phòng không có ánh sáng, và gần như không có không khí, chẳng có đồ đạc gì ngoài một chiếc đèn dầu và một chiếc giường cũ kỹ mà một phụ nữ ốm yếu đang nằm. Đó là Martha. Fu’ad đặt tay lên vai cô ấy, khẽ nói:

    - Mẹ!

    Khi cô ấy ngước dậy một cách khó khăn, cậu bé chỉ vào tôi. Cô ấy cố nhích thân hình yếu ớt dưới tấm mền rách rưới, và với giọng giận dữ, cô nói:

    - Điều gì khiến anh tới đây? Anh muốn gì? Nếu anh tới đây để mua đi chút phẩm giá còn lại của tôi và hủy hoại nó thì hãy cút đi. Con đường này đầy những phụ nữ anh có thể mua được đấy. Đừng lại gần tôi và con tôi.

    Tôi vội vàng thanh minh:

    - Đừng sợ tôi, Martha. Tôi không có ý gì xấu, tôi chỉ muốn làm bạn thôi. Tôi là người Lebanon, tôi sống gần ngôi làng của cô. Đừng sợ!

    Nhận ra những lời nói của tôi có vẻ thành thực, cô ngã xuống như một cành cây yếu đuối bị gió quật đổ. Cô úp mặt vào lòng bàn tay, thổn thức khóc. Những kỷ niệm ngọt ngào và chua xót như tràn về với cô.

    Rồi bỗng nhiên với một giọng mạnh mẽ lạ thường, cô nói:

    - Anh đến đây vì lòng tốt, cầu Chúa phù hộ cho anh. Nhưng tôi xin anh hãy đi đi, sự có mặt của anh ở đây chỉ làm tôi thêm tủi nhục mà thôi. Lòng tốt của anh chẳng thể nào phục hồi được danh dự của tôi, nó không làm tôi bớt xấu hổ mà cũng chẳng bảo vệ tôi khỏi bàn tay của thần chết. Chính tội lỗi của tôi đã đem lại khổ sở cho tôi. Bây giờ tôi như một người bị cùi hủi mà ai cũng xa lánh. Đi đi, đừng làm anh cũng bị tai tiếng. Đừng bao giờ nhắc đến tên tôi ở làng tôi. Một con cừu bị ghẻ lở cũng bị người ta bỏ mặc bởi sợ nó lây cho những con khác. Hãy nói là tôi đã chết rồi.

    Rồi cô ấy ôm chặt lấy cậu con trai và nghẹn ngào nói:

    - Mọi người rồi sẽ sỉ nhục con trai tôi, họ sẽ nói nó là đứa con của tội lỗi, là con của con Martha khốn nạn, đĩ thõa. Thà rằng họ đui mù để không nhìn thấy người mẹ của nó chỉ cho nó một cuộc sống khổ sở như thế này. Tôi sẽ chết và để lại nó mồ côi giữa những đứa trẻ khác, những ký ức về tôi chỉ làm cho nó thêm tủi hổ mà thôi. Nhưng khi lớn lên nó sẽ quên tôi. Và khi nó chết, nó sẽ nhận ra rằng tôi luôn luôn chờ đợi nó ở thiên đường, nơi ánh sáng và thanh bình vĩnh viễn.

    Với sự cảm thông sâu sắc, tôi thốt lên:

    - Martha, cô không giống như một người cùi hủi. Cô luôn luôn trong sạch. Những lời dèm pha của mọi người không thể bôi đen tâm hồn của con người được.

    Nghe những lời chân thành của tôi, gương mặt của Martha đầy kích động. Nhưng đó có lẽ chỉ là biểu hiện của cái chết đang đến gần. Ngày hôm qua, cô hãy còn đi dạo trên những cánh đồng đầy hoa mà giờ đây lại bệnh tật khổ sở, chờ đợi cái chết giải thoát mình khỏi sự đau đớn của cuộc đời. Gom hết chút lực tàn, cô thì thầm:

    - Đúng như những gì anh nói. Chính sự yếu đuối của tôi đã dìm tôi trong tội lỗi... người thanh niên đi ngựa đến... hắn ta nói thật lịch thiệp và dịu dàng... hắn hôn tôi... tôi chẳng biết gì cả và tin vào những lời của hắn. Hắn đưa tôi đi và những lời nói tốt đẹp, những nụ cười đã che đi bản mặt xấu xa của hắn. Sau khi làm nhục tôi, hắn đã ruồng bỏ tôi với đứa con. Chúng tôi đã rất khổ sở... Để nuôi con trai tôi, tôi đã phải bán thân cho nhiều người. Nhiều lúc tôi đã muốn tìm đến cái chết. Bây giờ, cuối cùng giờ khắc ấy đã đến và thần chết sẽ cuốn tôi vào đôi cánh của người.

    Rồi với một giọng mạnh mẽ lạ thường, cô kêu lên:

    - Ôi! Sự công bằng! Xin người hãy nghe tiếng kêu thét từ con tim vỡ nát của tôi. Xin hãy thương hại lấy tôi, hãy bảo vệ đứa con tôi và giải thoát cho tôi.

    Hơi thở của cô yếu dần. Cô nhìn đứa con trai đầy âu yếm rồi thì thầm:

    - Cha của chúng ta đang ở Thiên đàng. Hãy quên đi mọi tội lỗi của chúng ta...

    Giọng cô vụt tắt, đôi môi khép lại. Martha tắt thở. Cặp mắt cô vẫn mở trân trân nhìn vào khoảng không.

    Khi hoàng hôn buông xuống, Martha được đặt vào một cái hòm mục nát và hai người đàn ông nghèo khiêng cô ra nghĩa địa, nơi nằm xa thành phố Beyrouth. Vị linh mục từ chối cầu nguyện cho Martha và cấm chôn cất cô ở khu vực dành cho người ngoan đạo. Và cũng chẳng một ai đưa Martha về nơi yên nghỉ cuối cùng ngoại trừ cậu con trai nhỏ Fu’ad và một người thanh niên biết yêu thương và có lòng trắc ẩn. ★
     
    meetdak, hungbc1010, amylee and 2 others like this.
  12. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CHIẾC VÉ

    Truyện của Emil A. Draitser (Nga)
    Ngọc Quỳnh dịch


    Ôi, Roma ao ước mọi người hiểu rằng nó không còn là một đứa bé biết bao. Nhưng họ không hiểu điều đó. Mẹ đưa nó tới trường bằng xe buýt và mẹ luôn từ chối mua vé cho nó. Nếu người soi vé cứ khăng khăng không đổi ý, mẹ sẽ đẩy nó ra giữa lối đi. “Đấy, ông xem nó đi!”

    Và trong sự đau khổ và tủi hổ của Roma, thông thường những người soát vé sẽ đồng ý.

    Đương nhiên là họ sẽ càu nhàu chửi rủa - nhưng lúc nào cũng vậy - họ sẽ cho nó đi qua. Nó sẽ đứng ngay giữa lối đi, co rúm người, đầu cúi gằm, hai vai nhô lên giống như một cái móc áo hơn là một cậu bé.

    Thậm chí đôi khi tình hình còn tồi tệ hơn cho Roma khi nó phải lén lút trèo lên xe buýt để không bị chú ý và nấp sau áo khoác của ai đó vì mẹ không cho nó một xu nào.

    “Mấy xu đó chẳng là cái quái gì cả! Họ không nghèo đi đâu mà sợ!” mẹ nói về ai đó - nó chẳng biết đó là ai - khi mẹ chuẩn bị cho nó tới trường.

    “Nhưng nếu họ thấy cặp của con thì sao?”

    “Cứ bảo họ là con học ở trường nhạc. Ở đó nhận trẻ sáu tuổi!”

    May mắn là ít khi người ta đòi nó phải trả tiền vé. Tuyến đường đến trường chỉ mất mười phút, nhưng với Roma, đó luôn là một trận bão tuyết dài cả năm đầy nguy hiểm, gió rét và lạnh lẽo.

    Một ngày nọ, Roma không thể chịu đựng hơn được nữa. Nó bắt đầu đi bộ đến trường. Con đường chạy dọc theo một công trường xây dựng nhớp nháp những vũng nước bẩn thỉu. Đôi giày mới của nó nhanh chóng làm quen với vôi vữa, đất sét và những mảnh gạch vụn. Lúc trở về, trước khi vào nhà, Roma đã cẩn thận rửa chúng trong một vũng nước nhỏ. Lúc đầu thì trông chúng ổn thỏa cả, nhưng khi khô, chúng đột nhiên nứt nẻ ra và chuyển sang màu xám xịt. Hôm đó, nó được một trận đòn nhớ đời. Trong tiếng thổn thức câm lặng, nó nghe mẹ nói với nó bằng một giọng rất lạ, xa vắng và lạnh lùng, “Làm sao con dám, con chưa từng nói dối mẹ!”.

    Nó có thể làm gì bây giờ? Làm sao nó có thể tiếp tục đi xe buýt?

    Tối đó, nó nảy ra một quyết định. Một lúc thật lâu, Roma trăn trở trên giường, nó lăn từ đầu này tới đầu kia giường, duỗi, sấp rồi co người, hai đầu gối nó cuộn tròn dưới cằm.

    Trời chỉ vừa hửng sáng là nó đã tuột khỏi giường và lặng lẽ mặc quần áo, lấy cặp và định chuồn đi. Cánh cửa bị cài chặt bằng một cái móc sắt. Tim Roma đập mạnh trong lồng ngực giống như khi nó lắc mạnh quả banh trong cái quả lắc bằng gỗ đặt ở phòng khách.

    Roma thử lấy tay đẩy cái móc lên. Nó chẳng nhúc nhích gì cả. Roma túm chặt cái móc lạnh ngắt và giật mạnh lên. Cái móc kêu ken két nhưng vẫn ở nguyên chỗ cũ.

    Lần này Roma ngồi thụp xuống, nó kê vai vào cái móc, tì chặt hai đùi và dùng hết sức hất cả thân mình nó lên.

    Cùng với tiếng rít nghiến của kim loại, cánh cửa chậm chạp mở ra và đánh rầm một tiếng khủng khiếp vào một ống dẫn nước sát tường. Roma nhắm nghiền mắt và nín thở.

    Nó vừa ra khỏi cổng thì nghe tiếng gào to từ cửa sổ, “Roma, đi đâu đấy? Vào nhà ngay! Vào ăn sáng đi!”

    Sữa có vị chua, bánh mì thì có mùi mốc, còn cái cốc quen thuộc của nó thì trông xấu xí một cách đáng ghét. Một giờ sau đó, họ đi đến trạm xe buýt. Roma cúi gằm đầu, lặng người nhìn mũi đôi giày của nó đều đặn thò ra dưới áo khoác, phải, trái, phải, trái,...

    Họ đứng bên dưới chiếc xe buýt. Người mẹ trả một đồng năm kopeck cho chiếc vé của mình.

    Người phụ nữ soát vé lớn tuổi săm soi đồng xu dưới mũi bà ta và nói trong tiếng khịt mũi, “Này bà, thằng nhóc này là con bà à? Nó đi không à?”

    Mẹ nó quay lại và nói trổng, “Không phải trả tiền. Chưa đến trường mà.”

    Gương mặt Roma trở nên hằn học và ngạo mạn. Nó nóng bừng bừng cả người, hai thái dương của nó rần rật. Nó nghiến chặt hai hàm răng, giằng mạnh khỏi tay mẹ nó và òa lên nức nở, “Cháu đã đến trường rồi! Cháu đang học lớp ba! Cháu ... cháu đã chín tuổi rồi! Cháu chỉ nhỏ con thôi!”

    Nó đến sát bên người soát vé trên lối đi, giật tung nắp cặp và vẫn tiếp tục khóc, nó bắt đầu lôi những quyển tập của nó ra.

    “Đây này... đây là tập tiếng Nga! Bà xem, ở đây có ghi là lớp ba. Đây là tập số học! Đây nữa này!”

    Những tờ giấy thấm xổ ra từ những quyển tập của nó. Roma chụp lấy chúng, chậm nước mắt khi hành khách trên xe bắt đầu xúm đến. Nó ngồi thụp xuống sàn để nhặt những tờ giấy thấm và sợ hãi liếc nhìn mẹ nó qua khoé mắt. Một cuộc cãi vã om sòm bắt đầu huyên náo ngay trên đầu nó. Roma chẳng thể nào hiểu họ đang quát tháo với nhau điều gì. Nó khóc.

    Sáng hôm sau, mẹ nó lôi nó đang chống cự quyết liệt đến trạm xe buýt. Roma cố gắng cơ hội cuối cùng vùng thoát khỏi tay mẹ, nhưng mẹ nhanh chóng tóm được nó và đẩy nó lên xe buýt.

    Người mẹ đưa tiền, hơi lưỡng lự, nhưng cuối cùng bà vẫn nói, giọng cố tỏ ra lãnh đạm, “Hai vé”.

    Ngay khi vừa nghe điều này, Roma đứng thẳng người lên. Nó lớn lên một cách thầm lặng và kiêu hãnh. ★
     
  13. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    BẦU TRỜI HOA THỦY TIÊN

    Truyện của H. E. Bates
    Võ Thu Bảo Ngọc dịch


    Bill bước xuống tàu. Bầu trời màu vàng sẫm đang nổi cơn giông bão. Theo quán tính, hắn đi về phía cầu tàu. Đó là con đường nhanh nhất để vào thị trấn. Hắn có thể đi ít hơn cả nửa dặm bằng con đường này.

    Nhưng rồi hắn bỗng thấy chiếc cầu đã bị chắn ngang. Có một cái biển lớn màu xanh “Nguy hiểm!”

    “Thị trấn đã thay đổi”, hắn thầm nhủ.

    Thế là hắn phải đi con đường dài, băng qua những dãy nhà máy nằm dọc theo đường ray hẹp đen đúa. Chẳng bao lâu hắn đã tới quán rượu. Ngày xưa, mỗi tuần khi vào thị trấn Bill đều tạt qua đó.

    Ngày ấy, Bill vào thị trấn đều đặn mỗi tuần. Đầu mùa xuân hắn mang trái cây, rau cải và những bông hoa thủy tiên vào bán ở chợ. Ban đầu, hắn chở bằng xe ngựa, nhưng hắn nhanh chóng tậu được chiếc xe hơi đầu tiên.

    Những bức tường của quán rượu bị nám đen bởi khói từ các đoàn tàu chạy qua. Bill bước vào bên trong cánh cửa thủy tinh và bước đến quầy bar.

    “Cho tôi một ly bia”, hắn nói.

    Hai nhân viên tàu hỏa đang chơi đánh bài ở góc quầy.

    Bill trả tiền ly bia của mình, “Tôi muốn tìm cô Whitehead”, hắn nói. “Cô ấy rất thường đến đây, cô ấy sống ở đường Wellington và làm việc trong một xưởng giày gần đó”.

    “À, chuyện đã lâu lắm rồi”, người chủ quầy đáp. “Mười năm trước họ đã xây một nhà máy mới bên ngoài thị trấn”.

    “Cô ấy thường đến đây khi Jack Shipley là chủ quán rượu này”.

    “Jack Shipley”, người đàn ông kinh ngạc, “ông ấy chết chín năm nay rồi!”

    Một trong hai nhân viên tàu hỏa ngừng chơi và ngước nhìn.

    “Ý ông muốn hỏi Cora Whitehead”, ông ta tiếp tục.

    “Vâng”.

    “Cô ấy vẫn sống ở đường Wellington với người cha già đấy”.

    “Ồ, cám ơn ông nhiều lắm”.

    Bill uống xong và trở ra ngoài. Bầu trời trên đầu hắn vẫn một màu hoa thủy tiên. Đột nhiên hắn nhớ lần đầu tiên hắn đến quán rượu này, hình như lâu lắm rồi, đã xa xôi lắm, hắn đã tạt vào trong cơn bão để lấy nước cho ngựa và một ít bia cho mình “Đã bao nhiêu năm rồi nhỉ?”. Hắn tự hỏi “Nhưng ta vẫn nhớ như in mọi thứ”.

    Chiếc xe đầy hoa thủy tiên, hắn nhớ lại. Đó là những bông hoa thủy tiên vàng rực rỡ giống y như bầu trới giông bão trên đầu hắn bây giờ. Hắn đang băng qua cầu thì sấm sét gầm lên. Hắn không có gì để che chắn cho chiếc xe. “Nào tiến lên”, hắn quát. Hắn đánh xe đến quán rượu và tìm một nơi khô ráo cho xe và ngựa, sau đó đội mưa chạy về phía cửa quán.

    “Đừng làm tôi ngã chứ”, giọng một cô gái cất lên.

    “Tôi xin lỗi”, hắn nói.

    Hắn không chú ý đến màu áo của cô gái, có lẽ là màu xanh thì phải, hắn cũng không chắc. Nhưng hắn chú ý đến đôi môi căng mọng, mái tóc màu nâu đỏ và đôi mắt nâu to tròn.

    Hắn không thể mở cửa với đôi bàn tay ướt đẫm. Nàng bắt đầu phá lên cười. Giọng cười thật mạnh mẽ, thân thiện nhưng không to lắm. Một lát sau mặt trời ló dạng. Hắn có thể cảm nhận những tia nắng ấm áp mơn man ở mặt và ở cổ.

    “Anh tốt như trời mưa mà có dù vậy”, nàng bảo.

    Cuối cùng, cửa cũng mở, và họ bước vào trong quán, khói thuốc và bia, sandwich và những cơ thể ấm áp. Nhưng nàng lại hỏi:

    “Ở đây có hương thơm của hoa, anh có ngửi thấy không?”

    “Tôi có một xe đầy những hoa là hoa”, hắn trả lời. “Hoa thủy tiên tôi đã hái chúng từ lúc sáu giờ sáng. Hương thơm của chúng vương đầy tay tôi”.

    Và hắn đưa tay cho nàng.

    “Đúng là nó”, nàng la lên, “Mùi hương mới thật dễ thương làm sao”. Hắn quan sát nàng nốc cạn ly bia. “Cô ấy thật đẹp”, hắn thầm nghĩ. Hắn muốn đến chợ trước mười hai giờ nhưng hắn đã nán lại quán rượu đến tận hai giờ chiều. Mỗi khi hắn nghĩ đến chuyện rời khỏi thì y như rằng sấm sét lại nổi lên và mưa lại đập ầm ầm vào cửa sổ. Nhưng cuối cùng mặt trời màu hoa thủy tiên rực rỡ cũng xuất hiện.

    “Tôi phải đi thôi”, hắn nói.

    “Mọi việc sẽ tốt thôi”, nàng bảo. “Anh sẽ bán hết số hoa thủy tiên. Anh có gương mặt thật phúc hậu, những người như anh luôn gặp may mắn”.

    “Sao cô biết?”

    “Tôi sẽ đem may mắn đến cho anh”, nàng trả lời. “Tôi sẽ luôn làm điều đó”.

    Và nàng đã đúng, suốt ngày hôm đó và một thời gian dài sau nữa Bill vô cùng may mắn. Tối đó, trời đẹp và trong. Người đi chợ nhìn thấy những hoa thủy tiên vàng như nắng và họ đã mua tất cả. “Cô ấy đã đúng”, Bill nghĩ. “Cô ấy đã đem đến may mắn cho ta”.

    Chẳng bao lâu, Bill bán xe ngựa và mua một chiếc xe hơi. Lúc đầu hắn đã không nghĩ là mình có đủ tiền.

    “Nghe em đây”, nàng bảo. “Frankie Corbette có một chiếc xe cũ và anh ấy muốn bán nó đi. Em sẽ nói chuyện với Frankie, nó rẻ thôi. Rồi anh sẽ thấy”.

    Và nàng lại đúng, Bill mua chiếc xe với cái giá mà chính hắn cũng không ngờ tới.

    Mùa hè đó Bill bắt đầu ghé thăm căn nhà ở đường Wellington. Mẹ của Cora đã qua đời và cha của cô làm việc suốt đêm ở ga. Vì vậy họ có thể dễ dàng ở bên nhau suốt đêm. Đó là những giây phút vô cùng hạnh phúc. Họ không nói nhiều, nhưng họ cảm thấy mãn nguyện. Cora rất hiểu Bill.

    “Anh biết gì không, Bill?” - Nàng thường bảo. “Em biết khi nào anh rẽ qua cái góc ở cầu tàu. Em cảm thấy anh đang đến bên em. Mỗi lần như thế em đều biết anh đang đến”.

    Bill thuê đất của một lão tên là Osborne. Obsborne có rất ít đất đai. Lão ấy nuôi gà, một ít bò và cừu. Hầu hết đất đai được che phủ bởi những cây ăn quả già cỗi. Mùa xuân hoa thủy tiên mọc lên phủ kín gốc cây.

    “Ta đã già rồi”. Một ngày kia Osborne bảo, “Ta muốn đến sống với em gái ta, ta sẽ bán cho anh trang trại của ta, rẻ thôi. Hãy trả trước cho ta một khoản tiền và trả tiếp phần còn lại sau cũng được”.

    Đột nhiên Bill mường tượng thấy cuộc đời trước mặt êm đềm tựa như một tấm thảm đẹp rực rỡ. Một trang trại!

    Tối hôm đó, hắn lái xe đưa Cora đi dạo. Họ dừng lại tại một cánh đồng đầy những bông hoa mùa hạ. Những cọng cỏ dài từ trên đường khẽ chạm vào người họ. Hắn nằm giữa thảm hoa thơm ngát. Hắn nhìn lên bầu trời trong xanh và kể cho Cora về kế hoạch của mình. Nhưng Cora không tin tưởng.

    “Làm sao anh biết lão Osborne này có thành thật không?”

    “Anh biết Osborne. Ông ấy thật thà cũng như ngày thì dài vậy”.

    “Vâng, và có những ngày lại dài hơn những ngày khác”. Nàng cãi lại. “Anh đừng quên điều đó!”

    Nàng nhìn hắn với đôi mắt nâu to dịu dàng nhưng sâu thẳm trong đáy mắt chất chứa một nỗi ưu tư, lo lắng.

    “Anh có bao nhiêu tiền rồi?” nàng hỏi.

    “Anh đã để dành được 150 bảng”.

    “Và anh sẽ đặt cọc cho lão Osborne 150 bảng đó, rồi anh sẽ được những gì?”

    “Đất đai. Ngôi nhà trong trang trại. Gia súc, cây ăn quả. Mọi thứ”.

    “Em cũng chẳng biết”, nàng nói. Nàng nằm đó rất lâu, ngước nhìn bầu trời tháng tám. Rồi nàng nhắm lại quay mặt về phía Bill. Nhẹ nhàng và thắm thiết, họ hôn nhau.

    Một lúc lâu sau, nàng mở mắt. “Em đã nghĩ kỹ rồi”, nàng nói. “Em có thể hợp tác với anh chứ? Em có 50 bảng. Anh cần bao nhiêu để mua trang trại?”

    “Một ngàn”.

    “Và chúng ta đã có hai trăm. Anh có thể mượn thêm ở đâu đó được không?”

    “Anh biết kiếm ở đâu ra?”

    “Nhưng em thì có thể đấy”, Cora nói. “Em sẽ hỏi Frankie. Anh ấy có rất nhiều tiền. Em sẽ hỏi Frankie và bảo anh ấy giúp chúng ta”.

    Đột nhiên, hắn nâng gương mặt của nàng lên trong đôi tay. “Chúng ta sẽ kết hôn”, hắn nói. “Em biết em vừa nói gì không, em đã mang lại may mắn cho anh”.

    Và họ lại hôn nhau.

    “Ta sẽ không bao giờ quên ngày hôm nay”, Bill thầm nghĩ. “Ta là người đàn ông may mắn nhất thế gian này. Ta có xe, có nhà,một trang trại... và người đàn bà mà ta yêu”.

    “Và mọi thứ chỉ mới bắt đầu”, hắn thét lớn, “với những bông hoa thủy tiên”.

    “Mọi điều quan trọng đều bắt đầu như thế”, Cora thì thầm, “với những thứ nhỏ bé như hoa thủy tiên. Hôn em đi, Bill!”

    Sáu tuần sau đó, trong một buổi tối tháng mười mưa tầm tã, hắn đã giết chết Frankie Corbette.


    *


    Giờ đây, khi lê từng bước chậm chạp, nặng nề qua những dãy nhà nhỏ, bám đầy khói đen trên con đường Wellington, hắn nghĩ về Frankie Corbette. Bầu trời trên những ống khói nhà máy vẫn đen kịt và đầy bão tố.

    Một người đàn ông đi trên đường dắt theo hai con chó gầy, dài thượt bên cạnh. Tối hôm đó, Frankie Corbette xuất hiện như thế. Hắn hồi tưởng lại. “Nhưng hắn chỉ có một con chó, và chính nhờ nó mà mình nhận ra hắn”.

    “Anh có ý chờ người đàn ông này phải không?”, về sau họ hỏi hắn như vậy, nhưng hắn bảo hắn chỉ muốn nói chuyện thôi, và thực sự chỉ có thế. Hắn biết Frankie Corbette có thói quen dẫn chó đi dạo mỗi tối. Hắn cũng biết đó là một con chó nhỏ màu trắng rất ồn ào. Cora đã nói với hắn về điều này. Bill đã không nhận ra hắn tham lam như thế nào. Đó không phải là loại tham lam tức thời, nông nổi. Lòng tham của hắn trầm lặng, cháy âm ỉ nhưng rất mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc. Nó bắt đầu rất nhỏ bé và trỗi dậy khi Cora nói về “Frankie”, “Frankie sẽ đưa tiền”, “Không em không thể gặp anh tối nay, vì em đã hẹn với Frankie”.

    Hắn cảm thấy nghi ngờ nàng. “Em biết Frankie bao lâu rồi?”, hắn hỏi.

    “Ồ, em biết anh ấy suốt cuộc đời em”.

    Và hắn lo lắng, “Em đã...”, hắn im bặt.

    Nàng hiểu hắn muốn nói gì. Nàng luôn biết hắn muốn nói gì.

    “Ồ, thỉnh thoảng tụi em đi chơi với nhau”.

    “Nhưng... anh ta có... hơn một người bạn không?”

    “Ồ, chúng em đi chơi với nhau một vài lần, nhưng em và anh ấy cãi nhau suốt. Chúng em không hợp nhau. Anh ấy chẳng có ý nghĩa gì với em. Nhưng Frankie sẽ làm mọi điều vì em”.

    Bill không thích điều đó. “Đổi lại, cô ấy phải làm gì cho gã đó?”, hắn tự dằn vặt mình.

    Cora giận dữ. “Xem này”, nàng bảo. “Chúng ta đang cần tiền phải không nào? Nhưng em không thể làm điều đó chỉ để đổi lấy mấy trăm bảng. Bây giờ thì em có thể chứ? Anh phải kiên nhẫn!”

    Phải mất một tháng mới lấy được số tiền. Suốt cả tháng, trái tim hắn tràn ngập sự ghen tuông.Hắn có thể cảm thấy nó lớn dần và từ từ đốt cháy trái tim nóng bỏng của hắn. Hắn không còn mơ tưởng đến nhà cửa, trang trại, vườn cây hay hoa thủy tiên. Thay vào đó hắn mơ thấy Cora trong vòng tay của một gã đàn ông khác.

    Sau đó là tin về đứa con của Cora. Hắn khiếp sợ khi nghĩ rằng đó là con của Frankie Corbette. Và đó là lý do tại sao hắn chờ Frankie tối hôm đó.

    Người ta đi ngang qua và nhìn thấy hắn đứng chờ ở đó. Sau đó một con chó trắng nhỏ đi đến và sủa Bill. Hắn biết đó là con chó của Frankie. Rồi Frankie xuất hiện, hắn già hơn Bill nhiều. Hắn ta chống một cây gậy.

    Bill chặn ngang Frankie, vẫy tay một cách thô bạo. “Tôi phải nói chuyện với ông”, Bill nói dứt khoát - những tia lửa đen và đỏ nhảy múa trước mắt.

    Trời bắt đầu mưa. “Tôi sẽ ướt mất”, Frankie nói. “Tôi không thể đứng trong mưa như thế này để nói chuyện với anh”.

    “Tôi muốn một câu trả lời thành thật, thế thôi”, Bill đáp.Ngay lúc đó con chó lại sủa, và Frankie giơ gậy lên một cách giận đữ.

    Đột nhiên Bill nghĩ rằng Frankie Corbette có ý đánh hắn. Một giây sau Bill rút dao ra. Đó là con dao dài, mỏng mà Bill thường dùng để cắt rau cải. Frankie ngã và đập đầu xuống đất.

    Cora đã đúng. Chính những điều nhỏ bé lại là những thứ quan trọng: con dao, tiếng chó sủa, những người nhìn thấy hắn đứng chờ dưới mưa. Và sau đó, dĩ nhiên là lòng tham của hắn. Tại phiên tòa người ta đã nói nhiều về lòng tham lam.

    “Cô nghĩ gì về lòng tham của người đàn ông này?”, họ hỏi Cora.

    “Lòng tham đen tối”, ngay lập tức Cora trả lời. Bill biết ra rằng đó là sự thật. Cô ấy luôn hiểu hắn cảm nhận mọi việc như thế nào. Nàng yêu hắn chân thành. Nhưng chính lời nói của nàng đã tống Bill vào tù suốt mười tám năm trời.


    *


    Số 84, đường Wellington. Bill đang ở bên ngoài căn nhà. Trên đầu bắn bầu trời giông bão ngày càng mịt mù hơn. Hắn nghe thấy một tràng sấm ở nơi xa xôi nào đó. Tim hắn đập loạn xạ, những lằn đen và đỏ nhảy múa trước mắt hắn. “Ta đã cảm thấy như thế này khi đứng đợi Frankie Corbette”, hắn nghĩ. “Nàng có trong đó không? Và nếu nàng ở đó, ta sẽ nói gì đây sau những gì đã xảy ra?”.

    Hắn gõ cửa. Đèn trong nhà bật sáng. Cửa mở, tim hắn đập mạnh hơn bao giờ hét. Hắn chờ đợi. Một cô gái đứng trên thềm cửa.

    “Nàng không thay đổi”, hắn tự nói với mình. Hắn nhớ cái ngày họ gặp nhau, cái ngày của hoa thủy tiên vàng óng. “Ta đã yêu nàng”. Hắn nghĩ, “và bây giờ ta vẫn còn yêu”.

    “Có gì không ạ?”, cô gái hỏi.

    Nhưng giọng nói thì khác hẳn, nhỏ hơn và nhẹ hơn. Và hắn nhìn khuôn mặt của cô gái, và bất chợt hắn nhận ra...

    “Cháu là con gái của Cora à?” hắn hỏi.

    “Dạ, vâng”.

    “Tôi là bạn cũ của bà ấy. Khi nào bà ấy trở về?”

    “Tận khuya, mẹ cháu làm việc ở xưởng giày”.

    “Ta biết”, hắn trả lời một cách nặng nề.

    Đột nhiên, trời gầm lên và mưa bắt đầu trút xuống.

    “Ông vào nhà đi”, cô gái nói, “vào nhà và chờ mưa tạnh đã”.

    “Không, ta phải đón xe buýt đến ga”.

    Nhưng mưa vẫn trút xuống như thác.

    “Ông không thể đi trong thời tiết như thế này. Đứng đây, ở thềm cửa đây
    này”.

    Tim hắn đập loạn xạ. Máu dường như lùng bùng trong lỗ tai. Đôi mắt cô gái màu nâu dịu dàng và thật nhân hậu, hệt như mắt của Cora.

    Cô gái hỏi: “Ông có phải đón tàu không? Nếu không, có lẽ cháu có thể cho ông mượn một chiếc dù. Ông có thể trả lại vào ngày mai”.

    Hắn nhìn lên bầu trời phía trên các ống khói nhà máy. “Đằng kia trời đã sáng hơn rồi”. Hắn nói.

    “Hãy chờ một phút nữa”, cô gái nói, “nếu như mưa không lạnh, cháu sẽ đi lấy dù cho ông”.

    Hắn chờ, và ngắm nhìn khuôn mặt ấy. “Cháu còn đi học không?”

    “Ồ không! Cháu cũng làm việc ở xưởng giày, nhưng cháu làm việc vào ban ngày”.

    Đột nhiên hắn sợ phải nói tiếp một điều gì nữa. “Con bé sẽ hỏi tên ta”, hắn nghĩ. Hắn sợ phải nói về điều đó.

    “Tôi phải đi thôi”, hắn nói. “Tôi không muốn giữ cháu đứng đây”

    “Cháu đi lấy dù đây”, cô gái trả lời.

    Bất chợt, hắn nhớ lại lời của mẹ cô bé “Anh tốt như trời mưa mà có dù vậy”.

    Cô gái nói:

    “Cháu tiễn ông đến chân cầu, bây giờ trời mưa không lớn, ông có thể đón xe buýt ở đó và cháu sẽ mang dù về”.

    “Ta không muốn làm phiền cháu”.

    “Ồ, không có gì đâu mà”, cô bé cười, tiếng cười hệt như tiếng cười của mẹ.

    Cô chạy ra bật dù lên che cho cả hai. Vô tình hắn chạm vào cánh tay cô và cảm thấy một niềm nao nức khó tả.

    “Sao ông lại vội vã như vậy?”. Bất thình lình cô gái hỏi. “Ông định đi đến một nơi đặc biệt à?”

    Cô bé nói đúng, hắn đang vội, niềm vui có cô bé bên cạnh làm hắn phấn chấn. Trong mưa, hắn mỉm cười.

    “Cũng chẳng có gì đặc biệt”, hắn trả lời.

    “Cháu đã biết trước mà”.

    Lại giống mẹ. Hắn nhớ lời của Cora “Em biết khi nào anh sẽ đến... em cảm thấy anh ở bên em”.

    Mưa đã tạnh trước khi họ đến chân cầu. Bầu trời trong treo như mới được tắm gội sau cơn bão. Họ đứng bên nhau dưới bầu trời màu hoa thủy tiên.

    “Cháu thích ở cạnh ông”, cô gái ấy lên tiếng, “ông có bao giờ cảm thấy như thế về một người nào đó chưa? ông sẽ biết ngay khi ông gặp người đó”.

    “Đúng vậy”, hắn nói.

    Đột nhiên, hắn muốn nói với cô hắn là ai. Hắn muốn kể về mình. Hắn muốn kể cho cô bé về mẹ, về giấc mơ đã mất. Nhưng hắn sợ.

    “Ta không thể ở đây”, hắn nghĩ. “Ta phải rời khỏi đây thôi. Ta phải tìm một trang trại nhỏ giống trang trại của Osborne, làm việc ở đó và dành dụm tiền. Ta phải bắt đầu lại từ đầu. Có rất nhiều việc vào thời điểm này”.

    Sau đó, bất chợt hắn nhận ra nỗi cô đơn đáng sợ đang bủa vây. Hắn cảm thấy bệnh hoạn, đáng thương và sợ hãi khủng khiếp. Hắn nhìn lên bầu trời màu vàng. “Cháu sẽ...” Hắn bắt đầu.

    Một đoàn tàu lướt qua gầm cầu rầm rập như tiếng sấm, và lời của hắn mất hút trong đêm. Khi tàu đã khuất, cô hỏi “Ông nói gì?”

    “Không có gì. Ta chỉ thắc mắc... có lẽ cháu muốn đi uống nước với ta chăng?”

    Cô bé mỉm cười “À, và sau đó chúng ta sẽ được cái gì?”

    “Chẳng có gì cả”, Bill trả lời.

    Họ đi bên nhau về phía quán rượu. Cô ấy sụp dù xuống và xếp lại. Cô nhìn lên bầu trời yên bình không vương một chút bụi mờ.

    “Cơn giông tố đã qua”, cô nói. “Ngày mai sẽ là một ngày tươi đẹp”, cô lại mỉm cười, và hắn biết cô nói đúng.★
     
    meetdak, vnn1269, tducchau and 3 others like this.
  14. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Bạn có thể đối chiếu với Pdf scan ở đây.
     
    hungbc1010 and machine like this.
  15. machine

    machine Sinh viên năm I

    Khi copy từ file Word paste vào khung soạn thảo của diễn đàn cứ bị tự động chèn thêm các dòng trắng. Ví dụ như vầy:
    asd.jpg

    mong bạn IT của diễn đàn (nếu có) sửa giùm. Thanks.
     
    sucsongmoi thích bài này.
  16. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    CÁI CHẾT TRONG THANG MÁY
    PETER CHEYNEY
    Minh họa TẤN LỄ
    upload_2024-5-18_9-53-10.png
    THƯA các bạn, đôi khi giữa cái sống và cái chết chỉ cách nhau chừng một sợi tóc. Chẳng ai có thể biết nó rõ hơn tôi. Nhưng, nếu có ông bạn nào lại hối tội trong trường hợp phải giết người thì sao? Điều ấy tôi thấy cần phải trả lời nước đôi như thế này: cái đó còn tùy theo từng trạng huống.

    Tôi cũng chẳng cần phải giấu giếm làm gì: tôi đã giết một người, và trong cái hoàn cảnh đặc biệt ấy, tôi tự nhận thấy tôi đã hành động đúng với tất cả sự logic.
    Có điều khi nghĩ rằng mình có quyền giết hắn ta thì tôi đã hoàn toàn không tính gì đến những chuyện bất ngờ.
    Dạo đó tôi là tùy viên tại sứ quán của nước tôi ở Luân Đôn. Tất nhiên, mười năm về trước tôi rất bô trai và lại to con. Tôi thường có thói quen đi coi hát vào mỗi tối thứ sáu và, khi vãn tuồng, quay trở lại Queens Gate - tôi cư ngụ tại khu vực đó - rồi đi lòng vòng một tua.
    Đêm Luân Đôn, không còn gì thoải mái hơn bằng cách thả bộ trên những đường phố rộng lớn và sạch sẽ. Trước khi trở về nhà, tôi không bao giờ quên ghé vào tửu quán Con ngựa điên, ở đó tôi có thể gặp đủ mọi hạng người vô công rồi nghề của cái thủ đô bốn mùa sương mù này. Tôi gọi một tách trà không phải cốt để uống mà chỉ để quan sát một cách thích thú những nhân vật điển hình Anh Cát Lợi đang ngồi trầm mặc trên quầy.
    Một đêm kia, trong lúc đang ngồi uống trà, bất chợt tôi thấy hiện ra từ trong bóng tối một trong những người đàn bà lộng lẫy nhất mà trong đời tôi chưa từng bao giờ được gặp.
    Với tư cách tùy viên sứ quán, tôi thường tiếp xúc với rất nhiều người đẹp: những vị phu nhân, những bà quận chúa, những ái nữ của các ông đại sứ thuộc đủ các quốc tịch, và đôi khi cả những nữ minh tinh nổi tiếng trên thế giới; nhưng người đàn bà này lại có một nhan sắc cực kỳ, khiến cho trong giây phút tôi như ngây dại hẳn đi, và chỉ một chút xíu nữa, tôi đánh rơi tách trà xuống sàn.
    Tuy trong lúc say mê điên dại, tôi cũng còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, hình như nàng đang có một tâm trạng thảng thốt.
    Thỉnh thoảng nàng lại nhìn ngang ngó dọc, như thể sợ hãi một kẻ nào đang rình rập đâu đây. Khuôn mặt trái xoan của nàng nhợt nhạt. Đôi mắt màu tử thạch anh của nàng như có một vùng bóng tối che phủ. Những ngón tay trắng nõn nà của nàng run rẩy nâng cái ly lên.
    Ví thử rằng tôi là dân Anh, có lẽ tôi cũng sẽ tỉnh bơ đi. Nhưng ác một nỗi tôi lại không phải là người Anh nên tôi không có hân hạnh để có được cái tính phát Ăng-lê như dân bản địa. Tôi không thể đành tâm nhìn một người đàn bà đẹp như thế gặp khó khăn. Thế là tôi lại gần nàng và lịch sự hỏi nàng xem tôi có thể giúp được gì.
    Thoạt đầu, nàng tỏ vẻ sợ hãi, nhưng sau khi đã tự chủ, nàng cám ơn tôi về sự giúp đỡ ấy. Tôi khuyên nàng hãy cứ bình tĩnh uống trà, rồi sau đó hãy nói cho tôi biết điều gì đã khiến nàng lo ngại.
    Trả tiền xong, chúng tôi đi ra phố. Với giọng nói run run, nàng kể cho tôi nghe câu chuyện của nàng. Nàng không thể nín lặng mãi được. Nàng hầu như đã kiệt sức và cần phải tìm một chỗ bấu víu.
    Đã có thời gian nàng sống ở Mỹ. Sẽ lãng phí giấy mực và thậm chí vô ích để kể lể dài dòng về cuộc tình của nàng với một thằng cha căng chú kiết nào đó ở trên cái mảnh đất mà cứ mươi mười lăm phút lại xảy ra một vụ án mạng ấy. Nó, phải, chính nó, sau khi vớ được nàng, đã bám chặt lấy nàng; dù hết sức vùng vẫy, nàng cũng không thể sao thoát ra khỏi những cánh tay bạch tuộc của nó.
    Nhưng rồi một dịp may đã đến, và người đàn bà trẻ đẹp kia đã tố cáo những hành vi tàn bạo của nó với nhà chức trách. Nó bị 7 năm tù và người đàn bà trốn sang nước Anh.
    Chỉ có điều rằng nó đã thề sẽ giết nàng sau khi mãn hạn tù. Và nàng biết rằng đó không phải là những lời đe dọa suông; nó nói và nó sẽ làm. Luật Vendetta (trả thù), nàng đã từng được chứng kiến.
    Đúng vào cái bữa tôi gặp nàng ở trong tửu quán Con ngựa điên thì nàng được tin nó tới Luân Đôn cùng với hai đồng bọn.
    Tôi giải thích cho nàng hay rằng, nước Anh không phải là nước Mỹ; ở đây người ta không bao giờ cho phép những tên cùng hung cực ác ấy có thể làm mưa làm gió, muốn giết ai thì giết.
    Nhưng nàng vẫn không tin.
    - Dẫu cho có trốn vào trong nhà tù Sing Sing, chúng nó cũng sẽ cố tình phạm một tội ác nào đấy, để vào tù rồi giết mình, nàng nói.
    - Nàng hoảng hốt thật sự và không dám trở về nhà. Nàng nói: Suốt ngày hôm nay, có hai tên lạ mặt canh chừng ở gần nhà em.
    Thưa các bạn, tôi vừa xúc động vừa phẫn nộ. Như tôi đã nói ở trên, cách đây 10 năm, tôi hãy còn trẻ, hùng tâm tráng khí tràn đầy, hễ thấy sự bất bằng là xắn tay áo lên, nhào vô can thiệp liền, huống hồ nạn nhân lại là một người đẹp.
    Đầu óc tôi chợt nảy ra một ý nghĩ. Tôi bảo sẽ đưa nàng về văn phòng sứ quán của tôi; nàng có thể tạm nghỉ ở đấy một đêm, trong phòng họp của chúng tối và, sáng hôm sau, tôi sẽ trù liệu những biện pháp để bảo đảm an toàn cho nàng. Sau một hồi tính toán, nàng đồng ý. Tôi gọi tắc xi đưa chúng tôi về sứ quán. Tôi mở cửa dẫn nàng vào. Tôi bật đèn ở phòng họp, kéo cái canapé ra phía trước lò sưởi điện. Và chính vào lúc tôi sắp sửa từ giã nàng thì sự việc xảy ra.
    Lúc đó chúng tôi đang đứng ở giữa phòng. Chợt có một tiếng nổ chát chúa cửa kính ở cuối phòng vỡ tan ra từng mảnh và viên đạn nằm gọn ở trong tường Cũng may nàng không hề hấn gì.
    Không chậm trễ một giây, tôi tắt đèn và nắm tay nàng lôi thẳng một mạch ra khỏi sứ quán và, nhảy đại lên một cái tắc xi, đưa nàng tới nhà một người bà con của tôi.
    Trong lúc ngồi trên xe, nàng nói:
    Anh thấy đó, vô ích thôi! Nó sẽ giết em! Bọn chúng nó sẽ không buông tha em đâu! Bữa nay nó bắn hụt, nhưng mai nó sẽ bắn trúng.
    Cô đừng có nghĩ quẩn, tôi đáp. Phải can đảm lên chứ! Bây giờ là an toàn một trăm phần trăm. Cô có biết cái tên khốn kiếp ấy ở đâu không? Nếu biết bảo tôi để tôi trị cho nó một trận.
    Mới đầu nàng từ chối không cho tôi biết, nhưng khi đến nhà cô em tôi thì nàng cảm thấy hơi an tâm bèn nói:
    Nó ở khách sạn Phượng Hoàng, khu Piccadilly, lầu 2, phòng số 15. Nhưng em van anh, đừng có tới đó làm gì! Nó nguy hiểm lắm, lại có thêm hai đứa nữa, mặt mũi như giống đười ươi.
    Thà rằng nàng đừng tiết lộ địa chỉ của nó, tất nhiên tôi sẽ vô kế khả thi. Nhưng một khi đã biết rồi, không nhẽ tôi lại làm ngơ. Thế là cái máu yêng hùng của tôi sôi lên sùng sục. Tôi quên hẳn cái tư cách nhân viên ngoại giao của tôi: phải tránh né tất cả mọi xì căng đan vì có khi, chỉ cần một sự rắc rối nhỏ nhặt do tôi gây ra là sẽ trở thành một biến cố ngoại giao giữa hai nước.
    Sau khi giao phó nàng cho cô em họ, tôi lao tới cái khách sạn đó, mặc dù nàng hết sức khuyên can.
    Đó là một khách sạn, loại trung bình, nằm lọt thỏm giữa những tòa building đồ sộ. Tôi đẩy cái cửa quay, bước vào và đảo mắt nhìn người gác đêm; nhưng căn phòng trống vắng, chẳng có một ai.
    Khi nhìn thấy thang máy nơi hậu phòng, tôi lặng lẽ tiến vào.
    Đến lầu 2, trong lúc tôi bước ra thì ở hành lang, một cánh cửa đối diện với thang máy, hé mở. Đó chính là phòng số 15. Một người đàn ông ăn vận chỉnh tề xuất hiện. Bộ quần áo đâu có tạo ra được ông thầy tu! Đúng thế. Chỉ cần nhìn cái bản mặt cô hồn, tôi cũng biết chính là hắn, kẻ tôi đang tìm kiếm.
    Tiên hạ thủ vi cường, tôi đấm ngay một phát vào giữa mặt hắn, và khi hắn loạng choạng dựa vào tường để cho khỏi ngã, tội sử dụng một thế nhu đạo khóa tay hắn lại. Rồi tội áp dụng một thứ ngôn ngữ bẩn thỉu nhất mà tôi vừa chợt nhớ ra để bảo với hắn rằng, nếu hắn còn tiếp tục hành hạ người đàn bà ấy, một phụ nữ chân yếu tay mềm mà tôi đã hứa bảo vệ, thì tôi sẽ giết hắn như một con chó ghẻ.
    Sau đó, tôi phủi áo và buông tha cho hắn.
    Được trả lại tự do, nó lẹ làng như một con rắn, luồn vào trong thang máy. Hắn thấy kéo cái cửa ngoài lại, và khi cảm thấy mình đã được an toàn sau khung sắt, nó bèn cười gằn rồi cất tiếng sủa:
    - Hừ! Đồ chó đẻ! Đồ tiện dân! Đồ trôi sông lạc chợ! Bộ mày tưởng mày hay hớm lắm đấy hả? Được rồi, mày cứ việc quay trở lại với con điểm thối thây kia đi, và mày cũng nên bảo cho nó biết trước rằng, nhất định tao sẽ thanh toán được nó. Đó là luật Vendetta. Mày đã nghe rõ chưa? Khi tao muốn, tao sẽ có cách. Có thể ngày mai, và cũng có thể tháng sau. Nó có thể chuồn đi bất cứ đâu, tùy thích, nhưng tao sẽ bám sát nó. Nó sẽ không bao giờ biết là khi nào thì xảy ra sự việc đâu. Có điều, nó phải xảy ra, vậy thôi. Chào, đồ chó đẻ!
    Cái thằng khốn kiếp ấy cười vào mũi tôi rồi đóng cái cửa sắt bên trong. Tôi sôi tiết lên và làm một cử chỉ bất ngờ: cầm ngược cái ba-toong, tôi thọc qua khung của sắt. Thực tâm, tôi chỉ muốn đập vào mặt hắn. Nhưng tôi đánh hụt, và cái cán cong của cái ba-toong ngoặc luôn vào cổ hắn, và khi hắn bấm nút để cho thang máy hạ xuống thì lại đúng vào lúc tôi kéo được cái đầu của hắn ra phía trước ...
    Cổ hắn bị kẹt giữa sàn thang máy và sàn hành lang. Thang máy, trong lúc vút xuống đã kẹp nát bét đầu nó như một trái dưa hấu, đồng thời cái cản ba-toong của tôi cũng gãy vụn.
    Sống lưng tội lạnh toát. Tôi vội phóng nhanh xuống cầu thang. Hậu phòng vẫn vắng lặng và, kế bên, cái thang máy, bên trong có một cái xác cụt đầu, đã trở về vị trí cũ.
    Tôi bước vội đến cửa quay và ra khỏi khách sạn. Chẳng có một ai trông thấy tôi.
    Rồi tôi lặng lẽ trở về nhà.
    Sáng hôm sau, tôi đọc thấy trong các báo mẫu tin về “tai nạn” xảy ra đêm qua tại khách sạn Phượng Hoàng; phía dưới bản tin có vài dòng cáo bạch khẩn thiết khuyên mọi người hãy đóng chặt hai cánh của thang máy lại trước khi bấm nút. Bây giờ, như các bạn thấy đó, định mệnh quả thật là kỳ lạ! Vì cũng chính trong ngày hôm ấy, một vị đạo cao đức trọng ngụ ở một căn nhà áp phía sau sứ quán đã tới xin lỗi chúng tôi: trong lúc lau khẩu súng bắn chim, ông ta đã vô ý để cho đạn nổ làm vỡ mất một khung cửa kính của sứ quán.
    Nếu súng của ông ta không bị cướp cò thì đâu có nên chuyện. Một sự ngẫu nhiên, có phải không, thưa các bạn?

    PHAN NGHỊ dịch
    KTNN #29/1990
     
    vuivui2013, machine and meetdak like this.
  17. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    ĐÈN ĐỎ
    * Truyện ngắn của ALFRED HITCHCOCK

    upload_2024-5-18_10-5-21.png
    CÒN ba mươi mét nữa đến ngã tư, đèn báo hiệu bật vàng. Martin cho xe chạy chậm lại. Khi đèn bật đỏ, anh ngừng đúng đường giao lộ sơn trắng. Anh không có quyền liều lĩnh lúc này. Hơn bao giờ hết phải thận trọng. Anh không sợ xác của Béatrice trong thùng xe sẽ bị khám phá. Cho dù xe anh có bị móp một bên, hoặc cây cảnh có bị vặn vẹo, thì không vì thế mà người ta sẽ khám thùng xe.
    Nếu có lập biên bản vi cảnh, thì bất quá cảnh sát cũng chỉ muốn xác định nguyên nhân tai nạn và quy trách nhiệm mà thôi. Xa hơn nữa, cảnh sát cũng chỉ tìm xem tài xế nào say rượu. Và Martin đã không có uống một giọt rượu nào, ít ra là trong ngày hôm nay.
    Anh kiên nhẫn chờ đèn xanh và từ từ lăn bánh. Không, đối với anh, một việc cọ quẹt bình thường trong giao thông sẽ không mấy gây phiền phức, nhưng anh chỉ ngại bị ghi số xe. Ở thời điểm này thì nhất định không nên.
    Anh tuân thủ kỹ lưỡng tốc độ hạn định, rẽ trái sang quốc lộ 32, rất ít xe cộ vào lúc 19 giờ 30 tối thứ hai, tức là ngày hôm nay. Mỗi lần có xe đến từ tuyến bên kia, Martin cẩn thận hạ đèn pha. Mười lăm phút nữa anh sẽ tới bìa rừng. Ở đó, mọi thứ đã sẵn sàng. Cái hố anh đào tối hôm qua đang chờ thây của Béatrice, chỉ cần giở các cành lá ngụy trang ra, bịch! Và người ta sẽ không bao giờ nhắc đến Béatrice Martin nữa.
    Đương nhiên, công an sẽ điều tra về vụ mất tích này, nhưng đó là nghề của họ, họ phải nghi ngờ và phá án. Sau rốt rồi họ cũng sẽ phải kết luận rằng Béatrice đã bỏ nhà đi theo duyên mới.
    Martin tưởng tượng lúc đối chất với công an hình sự. Lúc ấy sẽ là 10 giờ sáng mai, khoảng một tiếng đồng hồ sau khi cảnh sát thả anh ra. Anh sẽ rất nhức đầu và sẽ uống một ly cà phê đậm đặc.
    - Khi tôi về đến nhà thì phát giác ra rằng giường ngủ của Béatrice còn nguyên chăn gối gọn ghẽ.
    Nhân viên điều tra sẽ gợi ý:
    - Có thể bà đã dậy, sắp xếp lại chỗ ngủ rồi đi chợ.... hoặc đi đâu đó?
    Martin sẽ ra vẻ ngập ngừng.
    - Vâng, nhưng cô ấy có thói quen dậy rất muộn, quá ngọ, đôi khi 1 giờ trưa mới dậy.
    Như thế, công an sẽ bắt đầu có Ấn tượng về Béatrice, nhưng anh ta sẽ ngạc nhiên tại sao Martin lại báo với nhà chức trách nhanh như thế: “Anh điện ngay cho chúng tôi đấy à?”
    - Khoảng năm phút sau khi tôi biết là cô ấy không có ở nhà. Tôi cho rằng cô sang ngủ đêm ở nhà bà chị, như đôi lần cô đã làm, tôi điện sang bà chị nhưng bên đó cho biết là hai ngày nay không gặp cô ta.
    - Anh có điện cho ai khác không?
    - Không. Béatrice ít có bạn. Nói thật thì tôi cũng không biết cô ấy có bạn hay không. Tôi định gọi đến bệnh viện nhưng trong niên giám điện thoại có quá nhiều địa chỉ, tôi không biết gọi bệnh viện nào. Tốt hơn là tôi nên báo công an, trong trường hợp tai nạn, công an sẽ là người nắm đầu mối, phải không?
    Nhân viên điều tra sẽ nhìn vào sổ tay và hỏi tiếp: - Sáng nay anh về nhà lúc 9 giờ rưỡi. Anh làm đêm à?
    - Không, tôi làm việc từ 16 giờ đến nửa đêm. Sau đó anh sẽ ngập ngừng và ngượng ngùng khai báo: “Tôi bị tạm giữ từ nửa đêm đến 8 giờ sáng nay”.
    Khi công an nhướng mày ngạc nhiên, anh sẽ giải thích: - Vừa ra khỏi cơ quan, tôi có ghé vào quán rượu...
    - Rồi sao nữa?
    - Hình như tôi có quá chén, và khi lui xe, tôi lỡ trớn ủi vào một chiếc khác đang đậu gần đó . Anh sẽ ra về gần như là bất bình:
    - Nói thật, từ hồi mới lái xe tới nay, chưa bao giờ tôi gây ra tai nạn, chưa một lần bị phạt vi cảnh. Thế mà khi cảnh sát giao thông đến, họ nỡ xúc tôi vào bốt. Sáng nay đóng tiền bảo chứng xong mới được ra!
    Rất có thể là công an sẽ đáp cộc lốc: “Ờ, ở đây hễ uống rượu mà lái xe thì bị nhốt, đỡ nguy hiểm cho người khác”.
    Martin biết rõ điều đó, và ghép nó vào kịch bản. Công an sẽ khám nhà, sẽ chú ý cặp giường đôi, sẽ nhìn vào tủ và thấy trống đi hết một nửa. Martin sẽ điềm nhiên cho biết “một phần lớn quần áo của cô ấy không còn ở đây” và cả hai sẽ phát giác hai chiếc vali đã biến mất: hai chiếc tốt nhất.
    Nhân viên điều tra sẽ hỏi nữa: “Lần cuối cùng khi gặp bà, ông thấy bà ăn mặc như thế nào?
    - Tôi nghĩ điều này không mấy giúp ích cho chúng ta, vì chiều hôm qua lúc tôi đi làm, khoảng 3 giờ 15, cô ấy hãy còn mặc áo ngủ.
    - Giữa ông bà có chuyện… trục trặc?
    Martin sẽ ra vẻ mãn nguyện, vì nói được sự thật về vấn đề này, nó sẽ biện minh cho lý do ra đi của Beatrice. Nhưng anh phải giả vờ miễn cưỡng lắm mới nói:
    - Vài chuyện lặt vặt thôi, gia đình nào chẳng có, cho đến khi... Anh và ngừng lại như còn nghi ngại điều gì.
    - Cho đến khi?
    - Thôi, nói phức rồi! Chẳng là cách đây khoảng 6 tháng, ban giám đốc nhà máy đã lập một chức vụ mới, là Chánh kiểm tra. Vì tôi có thâm niên, có thành tích tốt... tôi đã tưởng và cả Béatrice cũng đã tưởng... Nói chung là chúng tôi đã tưởng tượng quá sớm. Tưởng mức sống khá hơn nhờ thu nhập cao.. ...
    - Rồi bà thất vọng?
    - Tất nhiên!
    - Thế bà trách ông hay trách nhà máy?
    Martin sẽ không trả lời, để công an tự kết luận.
    Anh nhớ rất rõ khi một người khác được chỉ định vào chức vụ nói trên. Anh thất vọng biết bao. Trưởng phòng tổ chức đã ý tứ mời anh lên để giải bày, chức vụ này cần một người có nghị lực, biết ra lệnh, biết quyết định. Martin thì hơi thiếu tính cách, ít bạo dạn, lại mờ nhạt... Bạn hiểu ý tôi không?
    Anh nhả bớt ga, cho xe vào con lộ nhỏ. Chạy thêm 800m, anh đậu xe dưới rặng thông. Hơi chật vật để lôi xác Béatrice ra khỏi thùng xe và mang đến hố, cách đó 30m, trong bụi rậm. Trở lại cầm hai chiếc vali và cái xẻng.
    Béatrice chết trong những điều kiện rất tốt. Martin đã lên lấy thuốc ngủ trong tủ của vợ, mỗi ngày một viên cho đến khi có đủ lượng cần thiết. Quả thật điều này kéo dài thời gian, nhưng anh muốn đâu đó phải chu đáo.
    Sáng nay anh đã hòa tan tất cả liều thuốc ngủ vào chai rượu Brandy. Buổi chiều, vào lúc 3 giờ 15, như thường lệ Beatrice đã uống cử rượu đầu tiên trong ngày, pha thêm chút nước khoáng. Ngày nào cũng vậy, đến giờ này là cô bắt đầu uống. Trong nhà bếp, Martin đang chuẩn bị mấy cái bánh sandwich, lúc ấy anh cảm thấy hãnh diện và mãn nguyện.
    Khi anh sửa soạn đến cơ quan thì cô làm thêm một ly nữa.
    Dưới ánh trăng, Martin lấp đất cần thận, đặt các cành lá ngụy trang, xem xét lại tỉ mỉ công việc của mình. Không có gì sai sót. Beatrice và hai chiếc vali biến mất vĩnh viễn.
    Lau chùi kỹ lưỡng. Xe lăn bánh.
    Cuộc sống này đã kéo dài 10 năm, 10 năm dằn vặt, 10 năm độc tài. Nhưng trước đây anh có một quan niệm thiêng liêng về hôn nhân, và hơn nữa, vẫn hy vọng rằng rồi đây cục diện sẽ ngày một khá hơn. Do đó mãi cho đến kỳ tiến thân hụt, anh mới bàn về vấn đề ly dị. Từ đó, Beatrice còn khó ưa hơn, những cơn thịnh nộ bộc lộ sự đeo bám ngoan cố. Có lẽ cô ta e rằng sẽ không tìm được một người chồng khác có thể chịu đựng mình, nghĩa là tính tình mình và tật nhậu của mình.
    Xe đến ngã tư, anh đạp thắng, cẩn thận rẽ trở lại quốc lộ 32.
    Chắc chắn là nhân viên điều tra sẽ rất sáng suốt, sẽ hỏi đến những câu tế nhị.
    - Vợ anh có bảo hiểm sinh mạng không?
    Martin sẽ trả lời không, ngược lại riêng anh thì có đến hai hợp đồng cho bản thân. Công an sẽ thích ghi lại điều này.
    - Và anh bảo là làm việc từ 16 giờ đến nửa đêm?
    - Vâng, tôi ra khỏi nhà lúc 3 giờ 15, đến sở làm phải mất nửa tiếng, tôi sợ đi trễ hơn, bãi đậu xe sẽ đóng cửa.
    - Bãi đậu xe sẽ đóng cửa?
    - Vâng, bãi đậu của công ty. Đây là bãi tư nhân, có rào dây thép hẳn hoi, vì dạo này có nạn mất xe. 15 phút sau khi đổi ca thì cổng khóa, ai đi trễ phải để xe bên ngoài.
    Có thể công an sẽ hỏi là có mấy cổng.
    - Hai, một phía bắc, một phía nam. Mỗi bên có một tuyến ra và một tuyến vào.
    Và khoảng trước lúc 0 giờ, xe anh vẫn đậu ở đấy chứ?
    - Đương nhiên, tôi đang làm việc.
    - Người gác cổng có thể làm chứng rằng lúc ấy xe anh còn nằm trong bãi?
    Martin làm bộ suy nghĩ: -Để xem, tôi luôn vào cổng phía nam. Người gác cổng là Joe Byrnes. Vâng, tôi nghĩ rằng anh ấy sẽ nhớ ra tôi .
    Chắc chắn là Joe Byrnes sẽ nhớ. Xe vào cổng mà còn dừng lại để trả Joe 5 đôla vay hôm trước, Joe đâu có quên được.
    - Và nếu anh ngã bệnh hoặc cần ra về trước giờ, thì làm sao?
    - Đến cổng gặp thường trực để cho biết tên và số xe, thế thôi.
    jj85
    - Lúc nào cũng có người trực ở cổng?
    - Vâng...! Thật ra không phải thế. Lẽ ra Joe Byrnes phải gác, nhưng Martin biết rằng mỗi khi đã khóa xong cổng. Joe băng qua tít bên kia để tán dóc với Ed Parker, người gác cổng bắc. Joe nghĩ rằng ai muốn ra ngoài thì phải ra qua cổng bắc, vì tiện lợi hơn, gần phân xưởng hơn. Nhưng Joe sẽ không bao giờ nói điều này ra, và Ed Parker cũng thế. Một trong hai thằng, nhất là Joe, sẽ bị thôi việc.
    Hồi trưa khi đến cơ quan, Martin đã đậu xe gần cổng nam. Mười bảy giờ, lẻn ra khỏi phân xưởng, thấy Joe và Ed Parker ở cổng bắc, anh đến nhẹ nhàng mở cổng nam, đem xe ra, đóng cổng lại.
    Công an có thể gặng thêm: “Ngoài các người gác cổng, còn ai có chìa khóa nữa?”
    - Tôi hoàn toàn không biết.
    - Ổ khóa nào mà không có chìa thứ hai?
    Martin sẽ nhún vai.
    - Có thể. Có thể niêm phong đâu đó.
    Joe sẽ không mấy quan tâm đến xâu chìa khóa thứ hai này đâu, Martin đã có dịp kiểm chứng điều đó. Anh xây dựng phương án thủ tiêu vợ khi biết rằng rất dễ dàng lấy cắp xâu chìa khóa này, anh đã đánh cắp chúng cách đây 3 tháng mà Joe cũng không để ý đến. Tuy nhiên xong việc rồi phải nhớ để lại chỗ cũ, biết đâu sau này có ai đó đi tìm...
    Đến công trường điện Capitole,
    Martin chờ đèn bật xanh, đi tiếp một quãng, rẽ phải. Sau xe anh, một chiếc khác màu đen cũng đi cùng đường.
    Chắc chắn là công an sẽ hỏi thêm:
    - Anh đã không mang xe ra khỏi bãi vì bất kỳ lý do nào?
    - Không, tôi đã bảo là tôi làm việc.
    - Khâu nào?
    - Khâu tiếp liệu.
    Công an không hiểu rõ công việc của anh.
    - Tôi phải bảo đảm cho dây chuyền sản xuất không thiếu một món gì. Chẳng hạn, nếu ở chặng nào bắt đầu thiếu một loại ốc vít nào đó, tôi phải đến kho để yêu cầu tiếp liệu.
    - Như thế trong khi làm việc anh phải đi lại liên tục? Nghĩa là rất nhiều người có thể làm chứng rằng hôm qua anh có mặt tại cơ quan từ 16 giờ đến 0 giờ?
    - Đương nhiên, hàng chục người!
    Đây là điểm yếu của kế hoạch Martin, nhưng anh không thể làm khác hơn được, không thể nào cùng lúc ta hiện diện ở hai nơi. Martin đã làm hết mình sao cho từ 16 giờ đến 19 giờ một số đông công nhân thấy anh hiện diện. Sau đó, khi trở vào cơ quan khoảng 21 giờ, anh cũng lăng xăng như thế, hy vọng sự tấp nập và công việc bề bộn của phân xưởng sẽ là lá chắn cho anh. Chắc chắn là một số đông công nhân sẽ “nhớ ra rằng” anh có mặt vào thời điểm ấy. Tệ lắm thì họ cũng sẽ trả lời là không nhớ có gặp anh hay không.
    - Chỉ một mình anh phụ trách khâu tiếp liệu?
    - Không, khoảng chục người, do Hanson quản lý.
    - Trong tiến trình công việc, nếu anh vắng mặt trong vòng hai tiếng hẳn người ta sẽ nhận thấy?
    - Martin sẽ cười: “Tôi cũng mong được như thế!”
    Nhưng thật ra không hẳn thế, và anh biết rõ điều đó. Với một chục nhân viên tiếp liệu, Hanson sẽ không để ý đến sự vắng mặt của anh. Vả chăng trên thực tế, chỉ phải tính một tiếng rưỡi thôi vì đã khấu hao nửa tiếng để ăn tối.
    Trước khi rẽ sang lộ 20, Martin liếc nhìn kính chiếu hậu. Chiếc xe đen vẫn bám theo, anh khẽ nhíu mày.
    Công an sẽ hỏi nữa: “Sau khi ra khỏi cơ quan, anh ở trong quán rượu bao lâu?”
    - Gần một tiếng.
    - Tên quán?
    - “Pierrot”, gần cơ quan tôi.
    Chủ quán sẽ chứng thực lời khai này. Từ khi lên kế hoạch, tối nào Martin cũng đến quán, ai cũng biết anh.
    - Theo anh, ai là người sau cùng gặp vợ anh?
    - Người giao hàng tiệm giặt ủi, khoảng 15 giờ.
    Đều đều mỗi tuần vào ngày thứ hai hắn đến giao quần áo, và hồi trưa Martin đã hơi sốt ruột khi đợi hắn.
    Như thế nhân viên điều tra đã có thể lập lại quá trình vụ việc. Người giao quần áo giặt ủi gặp Béatrice lúc 13 giờ, sau đó 15 phút Martin đến cơ quan cho kịp giờ đóng cổng. Xe nằm trong bãi đến nửa đêm. Hết ca, hắn vào quán rượu “Pierrot” khoảng một tiếng, ra xe ủi vào xe khác, cảnh sát nhốt vào bót cho đến 9 giờ sáng. Đi thẳng về nhà, điện ngay cho công an. Không. Ngay cả nếu hắn có ám sát vợ thì cũng không đủ thì giờ để thủ tiêu cái xác. Trừ khi xác còn tại nhà. Nhưng ai ngon thì cứ tìm!
    Martin rẽ sang phải. Chiếc xe đen vẫn theo bén gót. Lo ngại. Cái gì đây? Xe này không giống xe công an. Hay là một trinh sát? Tại sao lại theo mình? Tốc độ xe mình không vượt hạn định. Hay là đã vô tình vượt đèn đỏ? Nếu thế thì đã bị chận lại rồi! Đèn ở ngã tư bật đỏ, Martin ngừng xe và liếc nhanh phía sau. Không gã kia không phải là công an mặc thường phục. Gã rất nhỏ con, trong khi ngành công an đòi hỏi một chiều cao tối thiểu nào đó, mặc dù chỉ là nhân viên theo dõi thôi. Đèn xanh, Martin cho xe chạy chầm chậm và rẽ phải. Xe đen vẫn theo.
    Đột nhiên Martin toát mồ hôi lạnh. Hay là một tên cướp nào đây, chờ lúc thuận tiện để thịt mình? Anh vòng qua chung cư để trở về trung tâm thành phố và thở phào nhẹ nhõm: chiếc xe đen đã biến mất. Như thế chỉ là một sự trùng hợp mà thôi, chứ gã đâu có theo dõi mình!
    Martin đến cơ quan an toàn, mở cổng nam, cho xe vào. Khi sắp vào phân xưởng, anh thoáng thấy Joe và Ed Parker đang mải mê đánh bài. Trong xưởng cũng không ai để ý đến anh. Một lát sau, trưởng nhóm đến giao anh từ lệnh tiếp liệu và anh bắt tay vào việc.
    Một gã nhỏ con bước xuống chiếc xe đen vừa ngừng bánh trước tòa nhà sáu tầng. Gã vào nhà, lên thang máy, băng qua một phòng làm việc vô cùng náo nhiệt và bước đến một máy đánh chữ còn trống. Gã gõ những con số trích từ sổ tay để báo cáo lên thượng cấp. Khi mở cửa văn phòng, thượng cấp hỏi: “Sao, xong chưa?”
    - Rồi, nhưng cực quá. Phải theo dõi bao nhiêu xe cả đêm khuya khoắt như thế này thì căng thật.
    - Thượng cấp - tổng biên tập của một tờ báo nhìn danh sách các con số và hỏi: - Vậy trong đây ai là người thắng cuộc? Ai được thưởng giải đặc biệt?
    Gã nhỏ con chỉ trên tờ giấy: -Xe này. Tôi bám sát suốt 4km, chủ xe hoàn toàn không vi phạm một tý ty nào về luật lệ giao thông.
    - Vì chúng ta đang trong mùa chọn “người lái xe lý tưởng”, chúng ta sẽ cho đăng tất cả những số xe này để biểu dương. Anh nhớ, số xe thắng giải đặc biệt phải được in chữ to, đậm vào, đóng khung hẳn hoi. Và ráng tìm cho tôi chủ nhân chiếc xe này, số C.25388. Phỏng vấn bỏ túi, ảnh sống động vào. Bài và ảnh phải lên trang một để làm gương. Làm cho ngon lành vào, nhớ nhé?

    MINH HUY lược dịch
    KTNN #29/1990
     
    vuivui2013, machine and meetdak like this.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này