Thể loại khác Truyện ngắn_ Tạp chí Kiến thức Ngày nay

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi hoi_ls, 24/11/23.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    NỢ VĂN CHƯƠNG

    Truyện ngắn của Nguyễn Minh Khôi


    Trần Sinh quê ở Đại huyện, vốn con nhà thế phiệt, nổi tiếng là người văn hay chữ tốt. Cùng huyện có Lê Vũ, con quan vệ úy, là người cùng trang lứa, thường hay qua lại kết giao, Thuở nhỏ, cả hai cùng học chung một thầy. Lớn lên, cả hai cũng đều đỗ đạt. Nhưng trong lúc Lê Vũ quyết dấn thân tìm kiếm công danh thì Sinh lại quay về với túi thơ bầu rượu, làm bạn với cỏ nội mây ngàn, lãng du khắp các danh sơn kỳ động. Sinh thường lý luận rằng: quan trường là nơi hung hiểm, nếu đua tranh lắm thì cũng làm đến chức tể tướng là cùng. Nhưng quan tể tướng rồi cũng phải có lúc quay về với cát bụi, lúc ấy chẳng những ngài không thể mang theo một chút vinh hoa phú quý nào mà ngay cả tuổi tên của ngài sau này rồi cũng chẳng ai còn nhớ. Những lúc trà dư tửu hậu, Sinh vẫn thường nửa đùa nửa thật bảo rằng trong lúc bất ngờ, một người có thể kể đủ tên của mười bậc văn nhân danh tiếng mọi thời nhưng không ai có thể kể đủ tên của mười vị tể tướng từng làm quan trong lịch sử! Nhiều ngươi đã thử tự kiểm nghiệm, bằng trí nhớ của mình và đều đồng tình với những điều Sinh nói. Tử đó Sinh càng quyết chí xa rời cuộc đua tranh danh lợi, quay về ở ẩn trong trang viên do cha chàng để lại, thường lấy làm tâm đắc với những lời của Lưu Linh trong bài Tửu Đức Tụng: “Có một đại nhân, lấy trời đất làm một buổi, lấy muôn năm làm một chốc, lấy mặt trời, mặt trăng làm cửa, làm ngõ, lấy cả thiên hạ làm sân, làm đường. Đi không có vết xe, ở không cần nhà cửa, trời tức là màn, đất tức là chiếu...!”. Năm ba mươi tuổi, Sinh đã nổi tiếng là một người tài hoa rất mực, lão luyện cả cầm kỳ thi tửu, nhất là tài văn chương đã đạt đến mức siêu việt. Cũng năm ấy, Sinh được mời dự lễ thành thân của Lê Vũ, người bạn đồng môn năm xưa, nay đã thăng đến chức tri phủ Bình Triều. Vợ của Vũ là con gái của tổng đốc Trà Giang, vừa hai mươi tuổi, có tiếng là một tiểu thư nhu mì, hiền thục, lại rất sành văn chương.

    Sau đám cưới của Lê Vũ, Sinh lại quay về với cuộc sống tiêu dao thoát tục, lòng không mảy may gợn chút ham muốn trần thế. Thời gian như nước chảy qua cầu, chốc đà mười mấy năm trôi qua. Sinh lúc này đã ngấp nghé bước vào tuổi tri thiên mệnh nhưng vẫn một mình một bóng lặng lẽ trong Trần gia trang, thỉnh thoảng ra ngoài ngao du lưng nửa tháng rồi lại trở về làm bạn với cỏ cây, kinh sách. Lúc này Lê Vũ cũng đã được thăng đến chức tổng đốc Trà Giang, quyền nghiêng một cõi. Riêng Vũ phu nhân tuổi đã xấp xỉ tứ tuần nhưng vẫn giữ được vẻ yêu kiều của ngày trước, song gương mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn kín đáo. Mối giao hảo giữa hai nhà ngày càng khăng khít. Lê Vũ thường xuyên mời Sinh đến phủ dự tiệc để cùng uống rượu, ngâm thơ cùng các bạn đồng liêu những khi cao hứng. Những lần có Sinh đến dự tiệc, Vũ phu nhân bao giờ cũng chăm sóc Sinh một cách ân cần vì phu nhân biết tính Sinh chỉ vui chuyện thù tạc mà chẳng chú ý đến chuyện ẩm thực nên người xanh xao. Tuy phu nhân đã ý tứ che giấu sự quan tâm của mình, nhưng nhà Lê Vũ thì cứ dăm bảy ngày lại có một cuộc tiệc nên dần dà Sinh cũng nhận ra mối thiện cảm của Vũ phu nhân dành cho mình. Một hôm, sau dịp uống rượu thưởng trăng rằm tháng hai, phu nhân tiễn Sinh ra về. Khi gần đến cổng, phu nhân chỉ vào một cây mai đang ra nụ rồi hỏi Sinh:

    - Thưa tiên sinh, tết đã qua rồi, xuân cũng sắp hết, không hiểu sao cây mai này lại ra hoa lần nữa?

    Sinh nhìn cây mai, khẽ đáp:

    - Thưa phu nhân, cây mai này thuộc giống nhị độ mai, là một loài mai quý. Mỗi năm ra hoa hai lần, lần đầu đúng vào dịp tết, lần thứ hai vào cữ cuối xuân.

    Phu nhân cười buồn:

    - Xuân đã tàn rồi, còn ra hoa làm chi nữa, biết có còn ai chịu ngắm nữa chăng?

    Sinh vô tình trả lời:

    - Hẳn phu nhân còn nhớ bài thơ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư mà tiểu sinh vừa mạo muội luận bàn lúc nãy, trong đó có hai câu: “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận - Tiền đình tạc dạ nhất chi mai”(1) ? Tiểu sinh cho rằng nếu còn ra hoa thì vẫn còn người ngắm, vì tâm hồn con người bao giờ cũng rung cảm trước cái đẹp, nhất là đối với những người thích vịnh cảnh làm thơ.

    Vũ phu nhân lại cười héo hắt:

    - Đời hoa như đời người, hương sắc chỉ tỏa được một lần. Về sau nếu có còn nở lại thì cũng chỉ là gắng gượng, chẳng còn được ai chú ý đến nữa.

    Đêm ấy Sinh về suy nghĩ mông lung. Chàng nhận ra trong những câu nói, điệu cười của Vũ phu nhân phảng phất một tâm sự buồn, dường như còn có một ẩn ý gì đấy. Từ ấy Sinh để tâm quan sát và ngày càng nhận ra tình cảm kín đáo của Vũ phu nhân. Lúc đầu Sinh rất bối rối, khó xử, nhưng rồi về sau chàng lại thấy cảm động trước tình cảm ấy. Sinh đâu thể ngờ rằng những tình cảm ấy chính là rượu đã chín trong vò, tro còn râm trong bếp đã dần dà khuấy động cuộc sống ung dung tự tại bấy lâu, buộc chàng vào một mối bi tình sầu muộn làm chao đảo cả cuộc đời, bởi từ chỗ cảm động, chàng lại đâm ra ngẩn ngơ tơ tưởng, lòng cứ mãi vương vấn hình bóng của Vũ phu nhân, lúc đầu còn lưa thưa, loáng thoáng, sau ngày càng đắm say, cuồng nhiệt đến độ quên ăn, mất ngủ, người càng ngày càng hốc hác, tiều tụy.

    Một hôm, không cầm được nỗi nhớ, Sinh đánh bạo qua Lê phủ, vừa lúc Lê Vũ có việc phải ra kinh đô, ở nhà chỉ có mình Vũ phu nhân tiếp chàng nơi phòng khách. Nhân lúc vắng vẻ, Sinh liền cầm lấy tay Vũ phu nhân mà thổ lộ:

    - Thưa phu nhân, Sinh tôi từ ngày biết chuyện nhị độ mai đến nay đã hơn ba năm, không đêm nào là không tơ tưởng, không ngày nào là không nhớ mong. Nay được gặp đây, dám xin phu nhân đoái hoài đến kẻ si tình này mà quá bước sang tệ xá một lần cho thỏa niềm khao khát...

    Vũ phu nhân vội rụt tay về rồi nhìn Sinh nghiêm nghị:

    - Thưa tiên sinh, thiếp từ ngày được quen biết tiên sinh đến nay, cảm tình không phải là không có, nhưng thiếp đã là kẻ có gia đình, xin tiên sinh nói năng cẩn thận.

    Sinh toát mồ hôi hột, sượng sùng cáo biệt ra về. Hóa ra những điều chàng suy nghĩ lâu nay chỉ là ngộ nhận. Vũ phu nhân không hề có tình ý gì với chàng cả. Đêm ấy, Sinh quyết định đóng cửa Trần gia trang, lên đường ra kinh đô sinh sống.

    Ngày qua tháng lại, thấm thoắt đã gần mười năm nữa trôi qua. Sinh vẫn phòng không gối chiếc, lòng nhớ thương Vũ phu nhân không dứt được. Sinh sống âm thầm như chiếc bóng. Đêm thu, ngày hạ, niềm cô đơn đã làm chàng ngày càng héo hon, mòn mỏi.

    Một đêm, Sinh đang mơ màng thì bỗng thấy Vũ phu nhân từ ngoài đi vào. Nàng vận bộ đồ trắng toát, khuôn mặt xanh xao như vừa qua cơn bệnh nặng. Vũ phu nhân nhìn chàng hồi lâu rồi mới nghẹn ngào lên tiếng:

    - Trần Sinh ơi, chàng đi mà sao không hề trở lại, để thiếp đợi chàng vò võ cả tháng năm?

    Sinh bối rối:

    - Thưa phu nhân, Sinh tôi từ sau lần ấy, cảm thấy hổ thẹn vô cùng nên không dám quay về tạ tội.

    Vũ phu nhân sụt sùi nói trong tiếng nấc:

    - Chàng biết không, lần ấy sở dĩ thiếp khước từ chàng là vì lúc ấy ở phòng bên đang có người, chàng không biết điều ấy nên vội vã ra về, vội vã bỏ đi khiến thiếp khổ đau, ân hận suốt từ ấy cho đến nay.

    Sinh bàng hoàng nhìn Vũ phu nhân, tự trách mình sao quá hồ đồ làm uổng phí cả một đời, nhưng rồi chàng cũng gượng gạo phân giải:

    - Thưa phu nhân, dù sao thì như vậy vẫn hơn, chúng ta sẽ không ai lỗi đạo.

    Vũ phu nhân bỗng òa khóc nức nở:

    - Chàng ơi, chàng đâu biết rằng ngày xưa Lê Vũ cưới thiếp làm vợ chẳng qua chì vì cha thiếp là tổng đốc mà thôi. Gần hai mươi năm chung sống, thiếp chỉ là cái bục để Lê Vũ bước lên đài danh vọng. Nay Lê Vũ đã là tổng đốc đại thần, có đến năm thê bảy thiếp, đâu còn ngó ngàng gì đến thiếp nữa...

    Sinh nhìn Vũ phu nhan dậm chân than thở:

    - Ôi, ta thật là kẻ vô tình, ta thật là người có lỗi. Xin nàng hãy ở lại đây để ta được chuộc lại lỗi lầm...

    Nói xong liền lao đến ôm chầm lấy Vũ phu nhân, nhưng chỉ nghe một hơi sương lạnh buốt phả vào mặt rồi không thấy bóng dáng Vũ phu nhân đâu cả.

    Tỉnh dậy, Sinh thấy lòng nóng như lửa đốt, liền tức tốc trở về quê nhà. Đến nơi mới hay rằng Vũ phu nhân do lâm trọng bệnh đã qua đời hơn một tháng trước. Người hầu gái trao lại cho Sinh một bọc giấy hoa tiên, mở ra thấy toàn là thơ văn của Sinh sáng tác trong mười mấy năm qua do Vũ phu nhân nắn nót chép lại, trong đó có cả những bài chàng mới viết trong thời gian ở kinh đô, không hiểu sao nàng cũng sưu tập được.

    Lòng xiết bao cảm động, Sinh bồi hồi tìm đến bên mộ nàng hắt hiu lau cỏ. Nhớ chuyện cũ, chàng trồng dưới chân mộ một cây nhị độ mai, ngày ngày tới lui chăm sóc. Lê Vũ biết chuyện, sai người mang đến tặng chàng một chiếc áo, một chiếc gối và một bức họa chân dung Vũ phu nhân lúc sinh thời. Sinh đem những vật ấy để trong thư phòng, đêm ngày chiêm bái cho khuây khỏa niềm thương tiếc.

    Từ đó Sinh ở hẳn lại Trần gia trang chuyên tâm vào việc trước tác. Tương truyền vào mùa xuân năm Thiên Bảo thứ mười tám, khi Sinh viết đến dòng cuối cùng của kiệt tác “U Linh mệnh ký” thì cũng là lúc chàng thả bút lìa đời. Năm ấy, cây nhị độ mai ra hoa suốt ba tháng trời, sắc hoa rực rỡ bay đầy không gian, nhuộm vàng cả một vùng non xanh nước biếc.

    Đà Nẵng, Nguyên tiêu năm Tân Hợi 2001


    (1) “Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết - Đêm qua sân trước một nhành mai”

     
  2. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    ĐỐT LÊN MỘT NGỌN LỬA

    Nguyên tác: “To Build a Fire” của Jack LondonVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Người dịch: Lê Vy


    Đọc “To Build a Fire” của Jack London, tôi thấy hay quá; nó suy tưởng đến bản thể, giúp cho người trí (“homosapiens”) biết được mình, từ đó may ra mình có thể tự trả lời cho mình các thắc mắc: mình được sinh ra để làm gì, sống để làm gì; từ đó, may ra, dẹp bớt được phần nào lòng ham danh, hám lợi... Tuy nhiên, tôi cũng chỉ mới hiểu lờ mờ. Học bài học “no man must travel alone...”Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link trong truyện, tôi mạo muội xin dịch ra đây với mong ước được các bậc thức giả chỉ bảo thêm (ND).


    Khi người đàn ông rời con đường độc đạo Yukon để leo lên triền dốc, nơi con đường mòn khuất nẻo ngoặt về hướng Đông xuyên qua khu rừng vân sam dày đặc, trời cũng vừa rạng, lạnh ngăn ngắt và xám xìn xịt. Triền dốc khá cao. Leo lên đến đỉnh, anh dừng lại để thở và bất giác đưa mắt liếc nhìn chiếc đổng hồ đeo nơi cổ tay. Đã chín giờ. Không có bóng dáng mặt trời dù trên bầu trời không một vẩn mây. Hôm đó là một ngày trời quang nhưng vạn vật dường như chìm dưới một làn hơi mỏng, một làn hơi mờ mờ ảo ảo làm cho ngày đã ảm đạm vì thiếu ánh mặt trời trông lại càng ảm đạm hơn. Điều đó không làm cho người đàn ông lo ngại; anh đã từng sống thiếu ánh mặt trời; đã khá lâu anh chưa nhìn thấy mặt trời, và anh biết phải khá lâu nữa thì cái quả cầu rừng rực ấy mới nhô lên trong chốc lát ở tít tận chân trời ở hướng chính NamVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    Người đàn ông ngoái nhìn lại con đường mình vừa đi qua. Băng nguyên Yukon trải rộng, chìm lấp dưới hàng thước băng. Trên mặt lớp băng là lớp tuyết dày đến cả thước. Từ Bắc chí Nam, cả một nền trắng trải rộng đến mút tầm mắt, chỉ trừ một vệt mảnh sẫm màu uốn lượn theo bìa khu rừng vân sam. Vệt mảnh sẫm màu đó chính là con đường mòn, con đường độc đạo chạy dài hơn năm trăm dặm từ phía Nam tới đèo Chilcoot ở thị trấn Dyea, ngoặt ra mé biển, rồi chạy tiếp hơn bảy mươi dặm về phía Bắc tới Dawson, rồi tiếp tục kéo dài cả ngàn dặm nữa tới Nulato, rồi thêm một ngàn năm trăm dặm nữa mới tới cảng nước sâu St Michael trên biển Bering.

    Nhưng tất cả những cái đó - con đường mòn dài tít tắp, bầu trời thiếu ánh mặt trời, cái lạnh khủng khiếp, và cả vẻ lạ lùng kỳ bí của thiên nhiên, tất cả những cái đó không gợi được cho người đàn ông một ý tưởng gì. Không phải vì anh đã quen với cảnh tượng đó; anh là một chechaquoVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link - lính mới - đối với vùng đất này, và đây là mùa đông đầu tiên anh nếm trải ở đây. Cái gay là ở chỗ anh thiếu óc suy tưởng. Trong cuộc sống, anh rất năng nổ, thông minh, những đó chỉ là thứ khôn lỏi, khôn vặt chứ không phải là cái khả năng tư duy thông tuệ. Đối với anh, năm mươi độ âm chỉ có nghĩa một cái lạnh hơn tám mươi độVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, một cái lạnh hết sức khó chịu, vậy thôi; điều đó chẳng làm anh phải suy nghĩ đến khả năng chịu lạnh của anh, và nói chung, nó chẳng làm anh phải suy nghĩ đến khả năng chịu đựng của con người, cái khả năng sinh tồn trong những giới hạn nào đó của cái nóng và cái lạnh, và cũng do vậy mà nó chẳng làm anh nghĩ ngợi gì tới cõi trường tồn, tới vị trí của con người trong trời đất. Năm mươi độ âm, đối với anh, điều đó chỉ có nghĩa là lạnh khủng khiếp, nó chỉ khiến anh nghĩ tới quần áo mũ mãng, những thứ có thể giúp anh chịu đựng được cái lạnh đó. Năm mươi độ âm, đối với anh, điều đó chỉ có nghĩa là năm mươi độ dưới không, ngoài ra nó chẳng gợi cho anh một ý niệm gì khác.

    Lúc xoay người tính đi tiếp, người đàn ông thử phun nước bọt; tiếng lách cách khô khốc làm anh giật mình. Anh thử phun một lần nữa, rồi một lần nữa; trong không khí, bãi nước bọt đông cứng lại và vỡ ra trước khi rơi xuống tuyết. Anh biết, với nhiệt độ năm mươi độ âm, nước bọt sẽ đông cứng lại và vỡ ra trong tuyết, nhưng lúc này nó lại vỡ ra trong không khí; anh biết chắc chắn là nhiệt độ lạnh hơn năm mươi độ âm, còn lạnh tới bao nhiêu độ thì anh không biết, vả lại điều đó cũng chẳng khiến anh phải bận tâm. Anh đang hướng đến khu mỏ cũ trên bờ trái nhánh sông Henderson, nơi đám thanh niên trai tráng chắc đã đến rồi. Trong khi họ đi tắt qua lưu vực sông Indian thì anh lại đánh một vòng qua các ốc đảo vùng băng nguyên Yukon để tiện thể xem xét khả năng khai thác gỗ khi trời sang xuân. Lẽ ra thì anh có thể sẽ đến trại vào lúc sáu giờ; đúng vậy, vào lúc đó hẳn trời đã chập choạng tối, và mọi người đều đã đến đó; hẳn có một đống lửa đã được đốt lên, và trên đó là một nồi cháo đang ngui ngút tỏa hơi... Nhớ đến bữa ăn, anh áp tay vào túi hành trang gồ lên dưới lớp áo khoác; chiếc túi được bọc trong một chiếc khăn vuông quấn sát người, trong lớp áo sơ mi. Đó là cách duy nhất để giữ cho số bánh anh mang theo khỏi bị đóng băng. Nghĩ đến những chiếc bánh đó, anh cảm thấy vững dạ: các chiếc bánh đều đã được phết bơ và trong mỗi chiếc còn có kẹp thêm một miếng thịt khá dày.

    Anh bước vội vào giữa đám cây vân sam cổ thụ. Con đường mòn chỉ còn thấy lờ mờ, kể từ khi chiếc xe trượt tuyết cuối cùng đi qua đây, tuyết đã rơi dày thêm hàng mấy tấc. Anh cảm thấy mừng vì đã không dùng xe trượt tuyết, không dùng đèn pin. Thật vậy, ngoài thức ăn được gói trong chiếc khăn vuông, anh không mang theo thứ gì khác. Tuy vậy, anh vẫn cảm thấy lạ lùng trước cái lạnh khủng khiếp anh đang trải qua. Lạnh kinh khủng, vừa nghĩ anh vừa đưa tay chà xát lên mũi, lên đôi gò má tê cóng; món tóc mai của anh khá dày nhưng vẫn không đủ giữ ấm cho khuôn mặt, nhất lả ở những chỗ nhô lên hứng trọn làn không khí giá buốt.

    Chạy lúc thúc sát một bên chân người đàn ông là một con chó săn to lớn giống bản địa: đó là một con chó có bộ lông xám sáng, lai chó sói, trông không khác mấy so với chó sói rặt giòng. Con chó rũ xuống vì lạnh; hẳn nó cũng biết thời tiết này không thuận tiện cho việc đi lại; trong những tình huống như thế này, bản năng cùa nó thật sự đáng tin cậy hơn sự phán đoán của con người. Thật vậy, trời quá lạnh, phải đến sáu mươi, bảy mươi độ âm chứ không phải là năm mươi độ âm như người ta vẫn nghĩ. Không chừng phải đến bảy mươi lăm độ âm cũng nên. Với nhiệt độ làm nước đóng băng là ba mươi hai độ dương thì cái lạnh bảy mươi lăm độ âm cũng có nghĩa là lạnh tới một trăm lẻ bảy độ. Con chó chẳng biết tí gì về nhiệt độ; có lẽ cách nghĩ của giống nòi nó về cái lạnh không giống với cách nghĩ của con người, nhưng con vật có bản năng; nó cảm nhận được mối hiểm nguy đang đe dọa nó, do vậy bất giác nó chạy đến sóng bước với lữ khách, dường như nó mong ước được lữ khách dẫn nó vào một cái trại nào đó, hoặc tìm một nơi trú ẩn nào đó và đốt lên một ngọn lửa. Con chó đã từng biết hơi ấm của lửa; nó mong ước có được một ngọn lửa; không có lửa, nó chỉ còn có cách là bới tuyết thành một cái hang rồi cuộn tròn lại, vùi mình vào trong đó để chống chọi với cái không khí giá lạnh bên ngoài.

    Trên bộ lông dày của con chó phủ một lớp sương giá; chung quanh mõm, trên mi mắt, hơi thở nó đóng băng, trắng toát. Trên hàm râu rậm màu hung đỏ của người đàn ông, băng cũng đã đóng càng lúc càng dày hơn cùng với hơi thở của anh phả vào không khí. Cũng bởi anh nhai thuốc lá nên lớp băng trên râu đóng dày đến nỗi mỗi khi phun bã thuốc ra ngoài, anh không thể nào chùi sạch miệng được, làm cho lớp băng đóng trên râu nhuốm màu hổ phách càng lúc càng dài thêm; mỗi khi anh vấp ngã, lớp băng đó lại mẻ ra những mảnh vụn sáng lấp lánh. Tuy vậy, anh chẳng mảy may để ý đến lớp băng vướng víu đó; đó là hình phạt mà những người nhai thuốc lá ở vùng này phải gánh chịu, và anh chỉ có thể rũ bỏ được sự trừng phạt đó giữa hai đợt lạnh; anh biết, trong khoảng thời gian đó, trời không đến nỗi lạnh thế này tuy rằng ở xóm Cột dặm Sáu mươi, hàn thử biểu có thể đã chỉ đến mức năm mươi, năm mươi lăm độ dưới không.

    Anh tiếp tục đi xuyên qua vạt rừng trải rộng hàng mấy dặm, băng ngang một trảng cỏ rộng rồi đi men theo bờ một dòng suối đã đóng băng; đây là lưu vực sông Henderson, còn cách ngã ba đầu tiên khoảng mười dặm; anh nhìn đồng hồ: đã mười giờ; một giờ đi được bốn dặm đường, vậy là khoảng mười hai giờ rưỡi anh sẽ đến đó; anh quyết định đến lúc đó mới dừng lại để ăn trưa.

    Khi người đàn ông rẽ xuống đi dọc theo bờ suối, con chó vẫn chạy lúc thúc bên chân anh, đuôi rũ xuống trông thật thảm hại. Con đường mòn kéo xe vẫn còn trông thấy nhưng cả những vệt xe mới nhất cũng đã chìm sâu dưới một lớp tuyết dày. Trong cái lưu vực vắng vẻ này, cả tháng trời không có lấy một bóng người qua lại. Người đàn ông vẫn cắm cúi bước; ngoài việc sẽ dừng lại để ăn trưa ở chỗ ngã ba và rồi sẽ đến trại vào lúc sáu giờ, anh chẳng còn suy nghĩ đến bất kỳ chuyện gì khác. Chẳng có ai để nói chuyện; vả lại, dù có muốn nói chuyện đi nữa thì cũng khó, vì quanh miệng anh đã đóng cả một lớp băng; bởi vậy anh cứ vẫn nhai thuốc lá, làm cho hàm râu màu hổ phách càng lúc lại càng dài ra.

    Đôi lúc, ý nghĩ về cái lạnh chợt trở lại, anh nghĩ: trời lạnh quá, từ trước đến nay mình chưa từng trải một cái lạnh như thế này bao giờ, và anh vừa đi vừa bất giác đưa lưng bàn tay đeo găng chà xát lên mũi, lên đôi gò má, chốc chốc lại đổi từ tay này sang tay kia, nhưng dù có chà xát đến mấy đi chăng nữa, vừa lơi tay là đôi gò má, chót mũi lại tê cóng. Chắc chắn là đôi gò má đã đóng băng, anh biết vậy và cảm thấy hối tiếc là đã không nghĩ đến loại mũ chống lạnh có quai đeo che kín cả mũi mà có lần anh đã nhìn thấy; có được một chiếc quai đeo như thế hẳn sẽ giữ được cho đôi gò má khỏi bị đóng băng, mà nào nó có nặng nề, rắc rối gì lắm cho cam! Nhưng xét cho cùng, đó cũng chưa phải là chuyện gì to tát lắm. Đôi gò má tê cóng đi ấy à? Đau thì quả có đau thật đấy, nhưng cũng chưa đến nỗi nghiêm trọng lắm.

    Khi không còn gì để suy nghĩ, người đàn ông lại chăm chú nhìn quanh; anh để ý quan sát những thay đổi của dòng suối, những quãng cong, những ngả rẽ, những vạt rừng ăn sát ra đến tận bờ, và anh luôn luôn để ý nhìn kỹ những điểm sắp đặt chân bước tới. Một lần, sau khi đi vòng qua một khúc quanh, anh sững người khi thấy mình đã đi tách khá xa lối đi đã vạch, và đã phải bước lùi trở lại khá nhiều bước. Anh biết, dòng suối đã đóng băng suốt từ trên xuống đến những chỗ sâu nhất; vào mùa đông, nước ở tất cả các nhánh sông, dòng suối ở vùng địa cực này đều đóng thành băng; tuy vậy, tuyết đóng trên các sườn đồi vẫn có thể có lúc tan ra, tạo nên những dòng chảy trên mặt băng nhưng ẩn sâu dưới lớp tuyết dày; anh cũng biết, ngay trong những đợt rét đậm, vẫn có những dòng chảy như vậy, và anh cũng biết rõ sự hiểm nguy của những dòng chảy đó: chúng tạo thành những hố nước có khi sâu đến hàng ba feetVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ẩn dưới lớp tuyết dày, có khi trên mặt những hố nước như vậy là một lớp băng mỏng non nửa inchVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link rồi mới đến lớp tuyết che phủ bên trên; cũng có khi dưới lớp tuyết là các lớp nước và băng nằm xen kẽ... Đó là những cái bẫy mà người nào bị sụp xuống có thể bị ướt đến tận thắt lưng.

    Chính bởi vậy mà anh phải dè chừng mối hiểm nguy đó. Anh dò dẫm ướm thử độ lún dưới mỗi bước chân, lắng nghe tiếng lớp băng ẩn dưới tuyết vỡ lắc rắc. Thời tiết thế này mà để cho chân bị ướt là điều hết sức nguy hiểm và phiền phức. Chí ít là phải trì hoãn, phải dừng lại, đốt lửa lên sưởi cho đôi chân thật ấm để rồi cởi giày, cởi vớ ra hong cho khô. Anh đứng lại, chăm chú nhìn nhánh sông, nhìn cả hai bên bờ và tin chắc rằng dòng nước hẳn phải chảy từ bên phải. Anh đứng ngẫm nghĩ - trong khi đó thì hai bàn tay cứ tự động luân phiên chà xát lên má, lên mũi, mãi một lúc sau anh mới men theo bờ trái, vừa bước tới vừa dò dẫm ướm thử từng chỗ đặt chân xuống. Cứ như thế, anh lần dò suốt từng chặng bốn dặm dài, và cứ mỗi khi vượt qua được một chỗ nguy hiểm, anh lại nhón một nhúm thuốc lá bỏ vào miệng nhai.

    Trong suốt hai giờ liền, anh bắt gặp hàng loạt các hố nước nằm ẩn sâu dưới tuyết. Thường thì lớp tuyết đóng trên mặt các hố nước đó hơi hõm xuống đủ cho người ta có thể nhìn thấy mối hiểm nguy; tuy vậy, có lần anh đã suýt bị nguy, và có lần, bụng cảm thấy nghi ngờ, anh đã xua bắt con chó chạy lên phía trước; con chó không muốn đi, nó lùi lại cho đến khi người đàn ông đẩy nó tới trước nó mới vọt nhanh qua mặt tuyết phẳng lì, bất chợt một mảng tuyết sụt xuống làm nó hẫng chân nhưng đã phóng tới được bằng đôi chân sau. Đôi chân trước nó bị ướt, và nước đóng trên chân nó tức thì đóng thành băng. Theo bản năng, con chó vội gặm lấy gặm để đôi chân trước cố làm cho lớp băng bong ra, rồi nằm lăn trên tuyết cố liếm cho tan hết những mảnh băng đọng trong kẽ các ngón chân. Để băng đóng trong kẽ các ngón chân sẽ làm chân chết cóng; con chó không hiểu được điều đó, nó chỉ hành động theo một thói quen đã hình thành không biết tự đời thuở nào trong giống loài của nó. Nhưng người đàn ông thì biết rõ mối nguy đó, anh vội cởi găng tay, gỡ giúp cho con chó những mảnh băng còn mắc kẹt lại. Cởi găng ra chưa đến một phút mà các ngón tay đã buốt cóng, anh vội xỏ tay vào găng rồi ủ vào ngực áo.

    Đến mười hai giờ trưa trời cũng sáng hẳn ra dù mặt trời vẫn còn ngao du đâu đó ở tít tận phương Nam. Giữa trưa, trên vùng đất vồng lên giữa đường chân trời và lưu vực sông Henderson nơi người đàn ông đang đi, bầu trời trong veo nhưng đến cả cái bóng của mình, anh cũng chẳng thấy nó đổ xuống đất. Anh đến chỗ ngả ba con sông băng đúng mười hai giờ ba mười, không sai chạy lấy một phút. Anh cảm thấy hài lòng về tốc độ mà anh đã đạt được; nếu cứ giữ được tốc độ đó, chắc chắn anh sẽ đến chỗ các bạn vào đúng sáu giờ. Anh cởi nút áo khoác, cởi tiếp nút áo sơ mi rồi lấy nhanh bọc đồ ăn ra. Hành động đó kéo dài không đến một phần tư phút, vậy mà các ngón tay anh đã tê cóng ngay; tuy vậy, thay vì xỏ vào găng trở lại, anh đập mạnh tay vào đùi hàng chục cái cho đến khi đùi đau rát lên. Sau đó, anh ngồi xuống một tảng đá nhô lên dưới lớp tuyết, bắt đầu ăn. Hốt nhiên, anh giật mình vì cái cảm giác đau rát trên đùi đã tan biến một cách nhanh chóng. Chưa kịp ăn, anh đã phải dùng một tay vừa đập mạnh vào đùi vừa không ngừng co duỗi các ngón tay, cố để rảnh tay kia để cầm bánh đưa lên miệng. Anh cố ngoạm miếng bánh nhưng lại bị vướng lớp băng đóng trên hàm râu. Anh đã quên không đốt lên một ngọn lửa để hơ cho lớp băng đó tan ra. Anh cười thầm cho cái sự hơ hỏng của mình và khi tự cười mình, anh mới chợt nghĩ đến mấy ngón tay đang tê cóng; rồi, nghĩ đến mấy ngón tay, anh mới chợt nhớ ra là mấy ngón chân đã đờ di từ lúc mới ngồi xuống, không biết mấy ngón chân còn ấm hay đã tê dại đi rồi; anh thử ngọ ngoạy bàn chân trong đôi ủng da; mãi tới lúc đó, anh mới biết chắc là các ngón chân hầu như đã bị chết cóng.

    Anh hoảng sợ, vội xỏ tay vào găng và đứng dậy, nhảy cà tưng cho đến khi chân cảm thấy nhói buốt trở lại, bụng thầm nghĩ: đúng là lạnh thật; ở lưu vực nhánh sông Sulphur, khi nói là ở vùng này đôi khi trời lạnh đến cùng cực là người ta đã nói thật; và lúc này, anh chỉ còn biết tự cười mình. Phải chăng điều đó cho thấy là người ta không bao giờ được quá chủ quan trước mọi việc? Lạnh, đâu phải lỗi tại trời lạnh? Anh sải bước đi tới đi lui, vung mạnh tay, dẫm mạnh chân cho đến khi có thể tin được là cơ thể đã ấm trở lại; sau đó, anh móc túi lấy bao diêm quẹt ra tìm cách đốt lên một đống lửa. Chui xuống lùm cây bụi, nơi thường có cành cây trôi tấp vào những lúc suối còn chảy, anh tìm được ít củi. Thận trọng nhen lên từ một đốm nhỏ, chẳng mấy chốc anh đã đốt được một đống lửa hừng hực cháy; anh hơ cho băng trên mặt tan ra và nhờ có sức nóng của ngọn lửa anh mới ăn xong được mấy miếng bánh. Chỉ trong chốc lát, cái lạnh của đất trời được xua tan. Thấy lửa, con chó mừng lắm; nó chạy đến nằm duỗi chân, vừa đủ gần cho ấm nhưng cũng vừa đủ xa để khỏi bị cháy xém lông.

    Ăn xong, người đàn ông nhồi tẩu thuốc vừa hút vừa tận hưởng khoảng thời gian dễ chịu đó. Được một lúc, anh lại xỏ tay vào găng, cẩn thận kéo dải mũ che kín tai rồi tiếp tục đi theo vệt đường mòn sát mé bờ trái con sông nhánh. Con chó tiếc nuối nhìn đống lửa; cái con người này không biết lạnh hay sao ấy; không biết các thế hệ cha ông của y đã từng biết thế nào là lạnh, một cái lạnh thật sự lạnh, một cái lạnh một trăm lẻ bảy độ dưới độ lạnh làm nước đóng băng? Nó thì biết, cả tiên tổ giống loài nó đã từng biết và nó thừa hưởng cái biết đó; nó cũng biết là đi ngoài trời trong cái lạnh dễ sợ như thế này thật chẳng hay tí nào. Những lúc lạnh như thế này thì phải bới tuyết tạo thành một cái hang rồi nằm co trong đó, đợi cho đến khi có mây bay ngang trời. Mặt khác, về thể chất, giữa chó và người thì có khác biệt gì nhau? Chó phục dịch cho người, bù lại nó sẽ được vuốt ve dù có khi đó là những cái vuốt ve bằng roi da hay ít ra thì cũng là những lời đe dọa mang hình ảnh chiếc roi da! Bởi vậy chó không buồn chia sẻ cái hiểu biết của nó cho người; cái đó có làm cho con người trở nên giàu có đâu! Khi quay lại nhìn đống lửa, hẳn con chó đã nghĩ như vậy. Nhưng người đàn ông đã huýt sáo, gọi nó bằng giọng đe dọa, vậy là nó lại lúc thúc chạy theo, sát vào người anh ta.

    Người đàn ông nhúm một nhúm thuốc lá cho vào miệng. Cũng vừa lúc đó, hơi thở của anh đã đóng lại trắng xóa trên râu, trên cả lông mày, lông mi. Hình như bên phía trái con sông nhánh Henderson chẳng có nhiều suối ngầm, cả nửa giờ đường anh vẫn chưa nhìn thấy dấu vết con suối nào, vậy mà ngay lúc đó đã có chuyện xảy ra. Tại một khoảnh tuyết xốp, liền lạc, phẳng phiu, hình như bên dưới hoàn toàn chắc chắn, không có một dấu hiệu gì khác lạ, anh bị sụp hố. Hố không sâu lắm nhưng trước khi phóng lên được, anh đã bị ướt tới bắp chân.

    Anh tức giận, lớn tiếng văng tục. Anh hy vọng là sẽ tới trại gặp những người kia vào đúng sáu giờ, vậy mà chuyện này chắc chắn sẽ làm anh phải chậm ít ra cũng cả tiếng đồng hồ vì phải đốt lên một đống lửa để hong cho khô giày, vớ, ủng... Anh quá biết là với thời tiết quá lạnh như thế này thì điều đó là bắt buộc, không thể miễn cưỡng được. Anh vội tấp vào, leo lên bờ, trên đó có những cành vân sam lớn chết khô quấn vào bụi rậm cùng với những búi cỏ khô bị cuốn theo giòng chảy và vướng lại từ năm trước. Anh ném những cành to nhất lên mặt tuyết để làm lớp nền ngăn không cho mồi lửa rơi xuống tuyết và đồng thời cũng để cho lớp băng bên dưới không bị tan chảy; xong, anh lấy bao diêm quẹt và mảnh vỏ cây xuyên mộc từ trong túi ra, đốt lên một mồi lửa, rồi cẩn thận đặt mồi lửa lên trên lớp nền xốp bằng cành to, và sau cùng là quơ cỏ khô cùng các cành con sắp lơi trên ngọn lửa.

    Ý thức rõ mối hiểm nguy đối với mình, anh nhóm lửa một cách chậm rãi, thận trọng. Khi mồi lửa đã cháy mạnh hơn, anh từ từ sắp vào những cành to vừa. Anh ngồi xổm trên tuyết, gỡ các cành cây vướng trong bụi sắp cao bên trên ngọn lửa; anh biết phải làm như vậy mới chắc ăn. Khi trời lạnh dưới bảy mươi lăm độ âm, ngay từ cố gắng đầu tiên để nhóm lửa, con người không được phép thất bại, đặc biệt là khi chân anh ta bị ướt. Trong trường hợp chân còn khô, nếu thất bại, anh ta còn có thể chạy dọc theo lối mòn hàng nửa dặm cho đến khi máu lưu thông bình thường trở lại; còn khi chân bị ướt và đóng băng mà trời lại lạnh tới bảy mươi lăm độ âm, anh không thể nào chạy cho máu lưu thông lại được. Dù anh có chạy nhanh đến mấy đi nữa thì đôi chân ướt vẫn sẽ bị đóng băng càng nhanh và càng cứng hơn.

    Người đàn ông biết tất cả những điều đó. Mùa thu năm ngoái, dân cố cựu ở lưu vực nhánh sông Sulphur đã nói với anh về chuyện này, và bây giờ thì anh đã thấy thấm thía với những lời chỉ bảo của họ. Đôi chân anh đã hoàn toàn mất cảm giác. Để nhóm lửa, anh buộc phải tháo đôi găng tay ra nhưng vừa tháo găng ra, mấy ngón tay anh đã tê cóng ngay. Khi đi với tốc độ bốn dặm một giờ, tim anh tiếp tục bơm máu ra khắp người cho đến tận đầu các ngón tay, ngón chân, nhưng khi anh vừa dừng lại, nhịp bơm cũng chậm hẳn xuống. Cái lạnh của không gian đã đè bẹp cái chóp đỉnh trần trụi của trái đất, và anh, đứng trên cái chóp đỉnh đó, anh đã phải hứng trọn sức mạnh của cái lạnh đó. Trước cái sức mạnh đó, máu trong người anh như bị dội lại. Giống như con chó, máu là một chất sống, và cũng giống như con chó, máu muốn trốn cái lạnh dễ sợ đó bằng cách co mình lại. Chừng nào anh vẫn còn đi được bốn dặm một giờ thì dù muốn dù không, máu vẫn được bơm ra khắp người, nhưng lúc này nó đã lùi lại, ẩn vào các ngăn chứa sâu bên trong cơ thể anh. Đầu các ngón tay ngón chân là những nơi đầu tiên cảm nhận được sự thiếu vắng của nó. Đôi chân ướt của anh đóng băng lại còn nhanh hơn, và các ngón tay để trần ra cũng tê cóng đi nhanh hơn dù chưa đến nỗi đóng băng. Mũi và đôi gò má đã đóng băng từ trước, trước cả lúc da bắt đầu thấy tê vì thiếu máu.

    Nhưng anh vẫn chưa sao. Giá lạnh chỉ mới chạm được vào má, vào mũi, vào các ngón chân, và đến lúc này thì lửa đã bắt đầu cháy mạnh. Anh tiếp tục sắp lên đó những cành cây to cỡ ngón tay; chỉ một phút nữa thôi là anh đã có thể sắp lên đó những cành to cỡ cổ tay; đến lúc đó anh sẽ có thể cởi đôi ủng ướt ra để hong cho khô, và trong lúc đợi cho ủng khô, anh sẽ có thể hơ đôi chân trần bên ngọn lửa, tất nhiên, trước đó còn phải làm tan băng bằng cách hốt tuyết xát vào chân. Đốt lên được ngọn lửa đã là một bước thành công; anh sẽ không sao. Anh cười thầm, nhớ lại lời khuyên của những người cố cựu ở lưu vực sông Sulphur. Nhũng người đó thật đã quá nghiêm khắc khi đặt ra luật là không một người nào bị buộc phải đi một mình ở Klondike khi trời lạnh dưới năm mươi độ âm. Vâng, vậy mà anh đang ở đây, và anh đã gặp nạn; anh chỉ có một mình, và anh đã xoay xở để tự cứu mình. Trong số những người cố cựu đó, anh nghĩ, cũng có mấy người kỹ tính lo xa còn hơn cả đàn bà. Đối với đàn ông, điều quan trọng nhất là phải giữ cho được cái đầu; và anh đã giữ được. Là đàn ông, bất cứ ai cũng có khi buộc phải đi xa một mình. Kể cũng lạ, mũi và đôi gò má lại đóng băng nhanh đến như vậy. Và anh cũng quên không nghĩ đến chuyện là các ngón tay anh cũng có thể tê dại đi cũng chỉ trong ngần ấy thời gian. Mà cho dù chúng có chết dại đi, vì vừa phải dùng đến chúng để vơ củi, anh vẫn cảm nhận được là dường như chúng đã rời khỏi thân thể anh, không còn là của anh nữa. Khi chạm đến một que củi, anh phải nhìn, nhìn thật kỹ để biết có chắc là anh đã cầm được nó hay chưa; giữa anh và các đầu ngón tay của anh, hình như các sợi gân vẫn còn hoạt động.

    Tất cả những cái đó cứ cho là chuyện vặt. Ngọn lửa đã bùng lên, tí tách; cái lưỡi lửa đã nhảy múa reo vui hứa hẹn sự sống. Anh bắt đầu tháo ủng. Cả đôi ủng bọc kín một lớp băng. Dây buộc ủng cứng còng; chúng vặn xoắn, thắt nút lại như các que thép vừa được vớt ra từ trong lửa đỏ. Đôi vớ dài lên tới bắp chân như được dệt bằng sắt. Bằng các ngón tay tê cóng, anh cố giật mạnh sợi dây buộc ủng nhưng rồi lập tức anh nhận ra ngay là làm như vậy thật là điên rồ; anh vội rút con dao bọc trong chiếc bao da.

    Tuy nhiên, trước khi anh kịp cắt dây buộc ủng, đã có chuyện xảy ra. Anh đã sơ suất, hay đúng hơn, đã sai lầm. Lẽ ra anh phải đốt lửa ở nơi hoàn toàn trống trải. Lẽ ra anh không nên đốt lửa ngay gần bên cây vân sam dù rằng đốt ở đó sẽ dễ dàng hơn cho việc rút các cành nhỏ vướng trong lùm cây bên cạnh ra rồi sắp thẳng lên ngọn lửa. Anh đã đốt lửa trên khoảnh trống liền kề một cây vân sam, và trên các cành lớn của cây đó, tuyết đã đóng dày. Hàng mấy tuần nay, gió không thổi tới, và tuyết đã đóng trĩu cả các cành. Mỗi khi rút lá một cành con, anh đã làm cây vân sam lay động nhẹ, nhẹ đến mức dù có để ý, anh cũng không sao nhận ra được, nhưng chỉ một lay động nhẹ thôi cũng đủ gây nên tai họa. Tít trên cao, một cành cây oằn xuống dưới sức nặng của tuyết; nó oằn xuống các cành bên dưới lảm các cành này cũng oằn xuống theo, cứ như vậy, toàn bộ các cành cây đều oằn xuống dưới sức nặng của tuyết, trông như cả một khối tuyết từ bên dưới trồi cao lên; bất thần, khối tuyết đó đổ ập xuống người anh và lấp mất ngọn lửa; nơi ngọn lửa vừa cháy lúc này chỉ còn ngổn ngang một bãi tuyết tươi nguyên.

    Người đàn ông ngơ ngác như thể vừa nghe lời tuyên án tử hình. Anh sửng sốt nhìn xoáy vào chỗ ngọn lửa vừa mới được đốt lên. Anh lặng người, có lẽ những người cố cựu ở lưu vực sông Sulphur đã nói đúng. Nếu anh có được dù chỉ một người bạn đường thôi thì giờ này anh đã không gặp nguy. Người bạn đường hẳn sẽ đốt lửa. Giờ thì chính anh phải đốt lại ngọn lửa, và lần thứ hai này anh không được phép thất bại. Cho dù có thành công, điều hầu như chắc chắn là anh phải chịu mất một vài ngón chân. Tuyết đã làm dày thêm lớp băng bao kín chân anh, và anh buộc phải chịu đựng cho đến khi đốt lên được đống lửa khác.

    Bao nhiêu ý nghĩ xuất hiện trong đầu, nhưng anh đã không ngồi không để suy nghĩ. Mặc cho giòng suy tưởng cứ cuồn cuộn, anh hối hả sắp lại một cái nền mới, lần nàay ở nơi hoàn toàn trống trải, nơi hoàn toàn không có một cái cây phản phúc nào có thể đổ ập lên đống lửa anh sẽ đốt lên. Sắp nền xong, anh vơ cỏ khô, cành con trôi giạt từ hồi băng tan, giờ nằm vương vãi khắp nơi. Anh không còn co duỗi được các ngón tay để kéo các cành cây, túm cỏ đó lên, nhưng anh vẫn còn có thể dùng bàn tay và cả cánh tay để gom chúng lại. Bằng cách đó, anh gom được các cành mục và đành chịu, phải vơ luôn cả các túm rêu bám trên đó. Anh làm tuần tự; ngay cả khi lựa một ôm các cành to hơn để sắp lên ngọn lửa khi lửa đã cháy bùng, anh cũng làm một cách thận trọng. Trong suốt thời gian đó, con chó ngồi nhìn anh đau đáu; duy nhất chỉ có anh là có thể đem lại cho nó ánh lửa, vả chỉ còn chút nữa thôi là ánh lửa sẽ bùng lên.

    Khi đâu đó đã sẵn sàng, người đàn ông thọc tay vào túi để lấy ra mảnh vỏ xuyên mộc thứ hai. Anh biết chỗ để mảnh vỏ đó, và dù các ngón tay đã mất cảm giác, anh vẫn còn nghe được tiếng loạt soạt khi mò tìm nó; anh đã cố hết sức nhưng vẫn không sao cầm được. Và, từ nãy đến giờ, bằng ý thức, anh cũng biết là chân anh cứ mỗi lúc lại càng đông cứng thêm. Ý nghĩ đó làm anh lo sợ, nhưng anh cố giữ bình tĩnh. Anh dùng răng kéo găng ra, lắc mạnh đôi tay, rồi dùng hết sức đập mạnh vào hai bên sườn. Vừa đập, anh vừa ngồi xuống, đứng lên; trong khi đó thì con chó ngồi co trên tuyết, cái đuôi xù của nó quấn vòng ra giữ ấm cho đôi chân trước, đôi tai nhọn giỏng lên nghe ngóng trong khi ánh mắt nó vẫn đăm đắm nhìn người đàn ông. Và anh, trong lúc vừa đập vừa vung tay, trong anh bỗng trào lên một niềm khát khao mãnh liệt khi nhìn con vật vẫn giữ được ấm và an toàn nhờ vào bộ lông mà thiên nhiên đã ban tặng cho nó.

    Được một lúc, anh mơ hồ nhận ra là các ngón tay anh đã có cảm giác trở lại. Cảm giác râm ran càng lúc càng rõ hơn, trở thành ngưa ngứa rồi đau nhoi nhói làm anh thấy mừng mừng trong bụng, cởi vội chiếc găng bên phai, anh thò tay vào túi lấy mảnh vỏ cây rồi mặc cho các ngón tay trần tê cóng ngay trở lại, anh lấy luôn bao diêm quẹt ra, nhưng cái lạnh cùng cực đã làm các ngón tay anh chết cóng. Khi cố tách ra một que diêm, anh đã đánh rơi cả bao diêm xuống tuyết; anh cố tìm cách nhặt lên, nhưng không sao nhặt được; chẳng những không nắm được, cả sờ tới, các ngón tay chết cóng cũng không sao sờ được. Anh cố tập trung. Anh lái ý nghĩ sang đôi chân băng giá, sang đôi gò má tê cóng mà anh vừa lãng quên, rồi dồn toàn bộ tâm trí vào bao diêm quẹt. Thay vì sờ vào, anh huy động toàn bộ khả năng của thị giác để nhìn, và khi nhìn, anh cố điều khiển cho mấy ngón tay lại gần sát bao diêm; thật ra, chỉ có ý thức của anh là lại gần sát bao diêm, vì các sợi gân đã liệt, các ngón tay anh không còn tuân theo anh nữa. Anh xỏ tay vào găng trở lại rồi đập liên hồi kỳ trận vào đầu gối; rồi, chẳng còn cách nào khác, anh chập hai cánh tay lại và bằng cả hai bàn tay mang găng, anh xúc cả bao diêm lẫn mớ tuyết phía dưới, ủ luôn vào vạt áo.

    Anh xoay xở cố kẹp cho được bao diêm vào giữa hai cổ tay rồi đưa lên miệng, rồi dồn hết sức lực, anh ráng há miệng ra, làm cho lớp băng đóng quanh miệng vỡ lắc rắc. Hạ hàm dưới xuống, vảnh môi trên ra, anh dùng hàm trên cố lừa tách ra một que diêm. Tách được một que, anh lại đánh rơi xuống vạt áo. Tuy không nhặt que diêm lên được nhưng anh đã nghĩ ra cách: dùng răng cắn chặt que diêm rồi quẹt mạnh vào chân; quẹt tới quẹt lui đến hai chục lần cho đến khi que diêm bật cháy, ánh tiếp tục cắn chặt que diêm dí vào mảnh vỏ cây, nhưng đầu diêm đang cháy rời ra, rơi vào lỗ mũi tuột luôn xuống khí quản làm anh ho sặc sụa, que diêm đang ngậm trên miệng rơi xuống tuyết, tắt ngấm.

    Cố nén nỗi tuyệt vọng sắp trào lên, anh nghĩ: những người kỳ cựu ở lưu vực sông Sulphur quả thật chí lý: ở nhiệt độ năm mươi độ dưới không, muốn đi xa, bắt buộc phải có bạn đồng hành. Anh thử đập tay nhưng không sao lấy lại được cảm giác gì. Hốt nhiên anh dùng răng gỡ đôi găng ra, rồi kẹp cả bao diêm vào giữa hai cổ tay. Các cơ cánh tay chưa đến nỗi đông cứng; anh vẫn còn đủ sức ép chặt hai cổ tay vào các que diêm, xát mạnh vào chân. Diêm bật cháy, cả bảy mươi que cùng một lúc!

    Trời im gió nên các que diêm vẫn hực cháy. Vừa nghiêng đầu tránh làn khói hăng xè, vừa tìm cách dí búi diêm đang cháy vào miếng vỏ cây, và vì vẫn còn kẹp chặt búi diêm đang cháy trên tay, anh chợt nhận ra cảm giác nơi cánh tay: thịt nơi cổ tay anh đang bắt cháy. Anh ngửi thấy mùi thịt cháy. Sâu thẳm trong người, anh cảm nhận được là tay anh đang bị cháy, rồi cảm giác đó chuyển thành cái đau nhức buốt, và, chừng nào còn cảm thấy đau, anh vẫn còn cố sức kẹp búi lửa tìm cách đưa đến gần miếng vỏ cây dù rằng miếng vỏ mãi vẫn chưa bắt lửa được vì lửa cứ bị hút vào chỗ tay đang cháy.

    Cuối cùng, đến lúc không còn chịu nổi nữa, anh giật nẩy cả hai tay; búi diêm cháy rơi xuống tuyết, kêu xèo xèo, nhưng mảnh vỏ cây xuyên mộc cũng đã bắt được lửa. Anh tìm cách đắp cỏ khô và các cành con vào mồi lửa; anh không thể nhặt, cũng không thể chọn lựa vì phải nhấc những thứ đó giữa hai cổ tay. Bám vào các cành con là những mẩu gỗ mục và cả rong rêu, anh phải dùng răng để gỡ chúng ra, được chừng nào hay chừng ấy. Anh nâng niu ngọn lửa một cách vụng về nhưng thận trọng. Có lửa tức là có sự sống, không thể để cho nó tàn lụi được. Anh bắt đầu run lẩy bẩy vì máu dưới da đã rút sâu vào bên trong, do vậy anh càng vụng về hơn. Một mảng lớn rêu xanh rơi thẳng vào ngọn lửa vừa mới bắt cháy. Bằng mấy ngón tay đã chết cóng, anh cố cời mảng rêu lên, nhưng cái lạnh run trong người đã làm anh cời quá mạnh làm tắt cả mồi lửa, các búi cỏ và cành con vừa bắt lửa rời toe ra. Anh cố gom chúng lại, nhưng cái lạnh trong người đã làm vô hiệu mọi nỗ lực, anh tuyệt vọng nhìn các cành con càng toe ra xa hơn, từ mỗi cành, một làn khói nhẹ tỏa lên và đốm lửa ở đầu cành tắt ngấm. Mọi nỗ lực đốt lửa đã hoàn toàn thất bại. Anh thẫn thờ, bất chợt nhìn thấy con chó đang ngồi bần thần trên tuyết, giữa anh và đám tàn lửa, mắt đăm đắm nhìn anh trong khi hai chân trước, theo bản năng, hết chân này đến chân kia nhấc lên hạ xuống liên tục làm cho cả thân mình nó cứ lắc qua lắc lại không ngừng.

    Thấy con chó, trong đầu anh, một ý nghĩ man dã chợt loé lên. Anh nhớ lại chuyện có người, khi gặp bão tuyết, đã giết một conbò mộng, mổ bụng nó ra rồi chui vào và nhờ đó mà thoát nạn. Anh phải giết con chó rồi vùi tay vào cơ thể nóng hôi hổi của nó cho đến khi cái tê cóng tan đi hết, để rồi sau đó có thể đốt lên một đống lửa khác. Anh dịu dàng gọi con chó, nhưng giọng anh có âm hưởng là lạ làm con vật sợ sệt; từ hồi nào đến giờ, nó chưa từng nghe con người nói với nó bằng giọng nói đó. Do bản năng dè dặt, nó cảm thấy có cái gì đó không lành. Nó không biết cái gì là không lành, nhưng ở đâu đó, bằng cách nào đó, trong óc nó đã nảy sinh sự hiểu biết về con người. Nghe giọng của người đàn ông, nó cụp tai xuống trong khi vẫn không ngừng làm cho cả thân mình nhúc nhích bằng cách liên tục nhấc lên hạ xuống hai chân trước, hết chân này đến chân kia; tuy vậy nó vẫn không dám nhích lại gần nguời đàn ông. Anh chống hai tay xuống, lết hai đầu gối, bò lần tới chỗ con vật. Tư thế khác lạ đó càng làm cho con vật nghi ngại hơn; nó lùi dần.

    Người đàn ông chống tay ngồi lại trên tuyết, cố trấn tĩnh, rồi dùng răng kéo găng tay ra lót xuống chân. Anh cố dựng người đứng dậy. Vì chân đã mất cảm giác, anh phải đưa mắt liếc nhìn xuống xem xem có chắc là có thật mình đang đứng hay không. Dáng đứng thẳng của anh phần nào đã xóa được áng nghi ngờ trong óc con chó, và khi anh gọi bằng giọng đe dọa, gay gắt làm cho nó nhớ lại bản chất trung thành vốn dĩ của nó, nó tiến lại. Lúc nó tiến lại đã khá gần, người đàn ông không còn giữ bình tĩnh nổi; anh vươn tay chộp con vật, và ngơ ngác nhận ra là bàn tay mình không sao chộp dính được, không sao co duỗi hay rờ mó gì được. Anh vừa quên là bàn tay anh đã bị đóng băng và băng giá càng lúc càng rắn hơn; tuy vậy, trước khi con chó kịp chạy thoát, anh đã kịp nhoài mình tới ôm nó vào giữa hai cánh tay. Anh ngồi xuống tuyết, cúi cả thân mình đè chặt con chó trong khi nó vùng vẫy, gầm gừ, rên ư ử...

    Tuy nhiên, anh cũng chỉ làm được có bấy nhiêu: ôm chặt con chó và ngồi đó. Anh biết chắc chắn là anh không có cách nào giết được con vật. Hoàn toàn không có cách nào. Với đôi bàn tay bất động, đến rút con dao từ trong bao ra, anh còn không rút được, nói chi đến việc cầm dao thọc vào cổ con vật. Anh buông lỏng tay, con chó cuống cuồng vọt ra, đuôi cụp vào giữa hai chân sau, sủa ăng ẳng. Nó vọt thẳng đến hơn bốn mươi feet mới dừng lại, quay đầu giương ánh mắt tò mò nhìn anh, tai giỏng lên nghe ngóng. Người đàn ông nhìn xuống đôi bàn tay để xem coi chúng có còn hay không, và nhận ra, chúng vẫn còn dính trên cánh tay. Anh lấy làm lạ là con người có lúc lại phải dùng đến mắt để xác định xem bàn tay mình nằm ở chỗ nào. Anh thử lắc cánh tay, đập mạnh bàn tay vào sườn. Anh ráng hết sức đập, có cả đến năm phút, và trong thời gian đó, tim anh bơm máu ra đủ cho anh khỏi bị cóng. Nhưng, hai bàn tay đã mất hết cảm giác, anh có cảm giác như đó là hai quả tạ gắn dính vào hai cánh tay.

    Cái cảm giác đó làm anh lo sợ, một nỗi sợ mơ hồ nhưng nặng nề và u ám. Anh càng sợ hơn khi hiểu ra rằng đó không còn đơn giản chỉ là chuyện mấy ngón tay, ngón chân bị đóng băng, không còn đơn giản chỉ là chuyện mất hai bàn tay, hai bàn chân, mà là chuyện sống chết, và mọi cơ may đều đã tuột khỏi tay anh. Ý nghĩ về cái chết làm anh hoảng sợ và cái sợ đẩy anh bật nẩy lên, vùng chạy về phía vệt đường mòn lờ mờ dọc theo nhánh sông. Con chó nối gót, rồi chạy lên ngang hàng với anh. Anh chạy, hoảng loạn, trong nỗi sợ mà anh chưa từng biết đến trong đời. Anh ngã sóng soãi trên tuyết và nhìn thấy, đằng kia, đôi bờ nhánh sông băng, lùm cây với mấy cây vân sam cổ thụ, mấy cây thông trụi lá, và cao phía trên là bầu trời; anh lại vùng dậy, lại chạy và lúc chạy, anh cảm thấy đỡ hơn. Không còn lạnh. Có lẽ, nếu tiếp tục chạy, đôi chân anh hẳn sẽ tan băng. Và nữa, nếu tiếp tục chạy thêm, biết đâu anh sẽ có thể đến trại và sẽ gặp được đám thanh niên. Chắc chắn là đến lúc đó anh sẽ phải chịu mất mấy ngón tay, mấy ngón chân và một vài bộ phận trên mặt, nhưng cũng chắc chắn là đến đó, đám thanh niên sẽ lo liệu cho anh, sẽ cứu được các bộ phận còn lại. Cùng lúc đó, trong đầu anh nẩy sinh một ý nghĩ khác, báo cho anh biết là không bao giờ anh còn có thể đến trại được nữa, không bao giờ anh còn có thể gặp lại đám thanh niên được nữa, chỗ đó còn xa lắm; cái lạnh đã thấm sâu vào người anh, cả người anh sẽ đóng thành băng và anh sắp chết. Cái ý nghĩ sau cùng đó, anh cố tránh không nghĩ đến nhưng nó cứ trào lên, và anh phải cố nén nó xuống, cố lái ý nghĩ sang những chuyện khác.

    Anh lấy làm lạ, không hiểu sao chân anh vẫn còn chạy được dù chúng đã đóng thành băng đến mức anh không còn cảm nhận được chúng, không còn cảm nhận được là chúng nâng cơ thể anh lên ra sao, chạm vào trái đất như thế nào; dường như anh đang chạy lơi khơi bên trên mặt đất, không còn dính dáng gì với trái đất... Có lúc hình như anh đã thoáng nhìn thấy đâu đó bóng dáng Thần MercuryVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link mang dưới chân đôi giày có cánh, và kinh ngạc với cái ý nghĩ là Thần hẳn cũng có cảm giác giống như cảm giác của anh khi bay là là trong khoảng không bên trên trái đất.

    Cái ỷ tưởng cho rằng anh cứ chạy, chạy mãi thì có thể đến được chỗ đóng trại và gặp được bọn trẻ, đúng ra, chỉ là một ảo tưởng: anh không đủ sức chịu đựng. Biết bao lần anh vấp ngã, loạng choạng, ngã ập xuống, ngã sõng soài, và cuối cùng, khi không còn vùng dậy được nữa, anh buộc phải gượng dậy, ngồi nghỉ, vừa nghỉ vừa nghĩ bụng, kể từ lúc này trở đi, minh phải đi, chỉ có thể đi và phải ráng đi cho thật vững. Khi ngồi và lấy lại nhịp thở, anh để ý, cảm thấy ấm áp, dễ chịu. Không còn lạnh; dường như còn có cả một làn hơi ấm áp mơn man trên mặt, lan khắp người. Và nữa, khi sờ lên mũi, lên má, anh chẳng cảm thấy có gì khác lạ. Chạy không làm tan được băng đóng cứng mũi, má, chân, tay. Tiếp đó, lại đến với anh cái ý nghĩ là các bộ phận trong cơ thể càng lúc càng bị đóng băng nhiều hơn, nhanh hơn. Anh cố nén, cố quên cái ý nghĩ đó, cố không nghĩ đến điều mà điều đó sẽ dẫn đến, và thấy sợ là mình đã hoảng sợ; tuy vậy, cái ỷ nghĩ đó vẫn dai dẳng bám riết vào tâm trí anh cho đến khi cả cái nhìn của thân xác anh cũng đóng băng. Một nỗi khiếp hãi đến củng cực lại đẩy anh bật vùng dậy, cuống cuồng chạy dọc theo con đường mòn. Có lúc anh đã chạy chậm lại, tính đi từng bước một, nhưng rồi cả ý nghĩ của anh cũng đã đóng băng, và thế là anh tiếp tục chạy luôn.

    Suốt trong quãng thời gian đó, con chó cùng chạy với anh, ngang hàng với anh, và khi anh lại ngã gục xuống, nó cũng dừng lại, ngồi xuống trước mặt anh, đuôi vòng tới quấn vào hai chân trước, mặt đối mặt với anh, đau đáu nhìn anh dò hỏi. Cái ấm áp, cái sức đề kháng hoang sơ của con vật làm anh tức giận; cổ họng anh phập phồng phát ra tiếng rồ rồ như nguyền rủa làm cho con vật thõng tai xuống, ve vẩy. Cùng lúc ấy thân xác anh đã lạnh đi một cách mau chóng; anh đã mất hẳn sức chống chọi với cái lạnh và lúc này nó đang ngấm sâu vào khắp cơ thể anh. Ý nghĩ đó đã đẩy anh vùng lên chạy tiếp, nhưng chưa đến một trăm feet, anh đã loạng choạng, ngã chúi đầu tới trước. Hết cơn hoảng sợ. Anh gượng nhổm dậy, cố lấy lại hơi thở và liền đó, anh hiểu ngay ra là mình đã đến gặp cái chết một cách xứng đáng. Tuy vậy, cái hiểu đó không phải đến với anh theo cách thức như vậy. Nó đến theo cái cách là khi vùng lên chạy quẩn như một con gà vừa bị cắt mất đầu, anh đã tự đem thân ra để làm cái bia miệng cho thế gian đàm tiếu. Nhưng thôi, dù sao thì anh cũng sẽ được băng mai táng; được như vậy há chẳng phải là tươm tất lắm hay sao. Cũng tốt thôi, một giấc miên viễn... Như vừa được gây mê, anh lịm dẩn rồi đi luôn vào cõi vô thức. Cái lạnh chẳng đến nỗi dở như người ta vẫn nghĩ; có nhiều cách chết còn dở hơn nhiều.

    Mai mốt biết đâu đám thanh niên trai trẻ sẽ tìm được xác anh. Hốt nhiên anh đang cùng với họ đi dọc theo con đường mòn để tìm anh; rồi, cũng cùng với họ, anh vòng lại con đường mòn một vòng nữa và thấy anh đang ngồi trên tuyết. Anh không còn là của anh; lúc đó, anh đã ở ngoài thân xác anh, đang đứng cùng với đám thanh niên trai tráng nhìn anh ngồi trong tuyết xốp. Trời lạnh thật; khi nào về nước, anh đã có thể nói cho mọi người biết thế nào là lạnh, một cái lạnh thật sự lạnh. Ý tưởng đó hẳn đã đưa đẩy anh trôi giạt vào vùng suy tưởng của những người cố cựu ở lưu vục sông Sulphur; và hẳn là anh đã có thể thấy anh rõ hơn, miệng đang ngậm tẩu thuốc, sảng khoái, ấm áp, ánh mắt nheo nheo nhìn các bậc tiền bối: “Đúng là các vị có lý, có lý thật!”.

    Và rồi anh chìm hẳn vào giấc ngủ yên lành nhất từ trước đến nay. Con chó ngồi nhìn anh, chờ đợi. Ngày tàn dần; không có dấu hiệu gì cho thấy sắp có lửa được đốt lên; vả lại, con chó cũng chưa từng biết là con người lại có thể ngồi trong tuyết lâu như vậy mà không đốt lửa. Ngày tàn; lòng khát khao ngọn lửa đến cháy bỏng thôi thúc, nó rên ư ử, cố nhấc đôi chân trước; sợ người mắng mỏ, nó buông thõng đôi tai, nhưng con người vẫn lặng câm. Nó kêu ăng ẳng, đợi một lúc rồi rón rén lần lại gần sát người đàn ông và ngửi thấy mùi chết chóc. Lông trên mình dựng cả lên, nó vội lùi lại. Sau một thoáng chần chừ, nó ngước mõm nhìn các vì sao lấp lánh, cất tiêng tru dài; sau đó, nó xoay mình, lủi thủi chạy dọc theo con đường mòn chạy về hướng có cái trại mà nó từng biết, nơi đó sẽ có người cho nó lửa, cho nó thức ăn.


    (Theo “Jack London - The Call of the Wild... and Other Stories”, edition World’s Classics, Oxford University Press)


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Jack London: nhà văn Mỹ, sinh ngày 12 tháng giêng năm 1876 tại San Francisco, tên khai sinh: John Griffith Chaney; khi mẹ ông kết hôn với John London, ông được khai sinh lại theo họ của cha kế. Nhà nghèo, ngay từ nhỏ ông đã phải làm lụng rất vất vả để kiếm sống. Đời văn tuy không dài (17 năm), nhưng ông đã để lại một di sản đồ sộ với hơn 50 truyện dài và hàng trăm truyện ngắn, hầu hết đều thấm đẫm tính hiện thực và lòng nhân ái. Ông mất ngày 26 tháng 7 năm 1916.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link “Không ai bị buộc phải đi một mình...”

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Ở vùng chóp địa cực Bắc, mọi phương hướng quanh ta đều là hướng Nam, và tiện đây, xin lưu ý: ở đó, các khái niệm về ngày - đêm, sáng - tối, nóng - lạnh, giờ giấc,.. đều không giống với khái niệm thông thường.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link “Chechaquo”: Không rõ thuộc ngôn ngữ nào; có lẽ là một từ thuộc phương ngữ vùng Bắc cực, theo âm tiếng suýt soa vì ngạc nhiên, vì lạnh...

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Tác giả dùng đơn vị 0F.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Feet: số nhiều của foot; 1 foot = 30,48cm.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link 1 inch = 2,54cm.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Theo truyền thuyết, thần Mercury (tức Mercurius trong thần thoại La Mã, hay Hermes trong thần thoại Hy Lạp) là vị thần khôn lanh, mưu trí, phụ trách việc đưa tin cho các vị thần linh; do chức trách này, thần Mercurycòn có nhiệm vụ tiếp nhận và đưa linh hồn người chết về âm phủ. Thần Mercury là linh thần của các giới doanh thương, du hành, thuyết gia và cả của các giới lừa đảo, trộm cắp v.v.., thường được hình dung như một chàng trai khôi ngô tuấn tú, chân mang giầy có các đôi cánh nhỏ, đầu đội chiếc mũ rộng vành cũng có gắn một cặp cánh.

     
  3. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    MƯA TRÊN NÚI

    Truyện ngắn của Lưu Cẩm Vân


    Chiếc xe khách bỏ tôi xuống bên vệ đường rồi ì ạch đi tiếp, chắc là nó còn phải đi xa lắm bởi vì tôi nhìn theo chỉ thấy con đường xa hun hút, vắng tanh.

    Tôi bỏ chiếc xách tay xuống đất, quay nhìn lại nơi mình vừa đến. Hai dãy phòng học của ngôi trường nằm vuông góc ở cuối khoảng sân rộng thấp hơn mặt đường, đang giờ học thầy trò còn say sưa với bài giảng nên không hay có khách vừa xuống xe trước cổng trường. Tôi ngại làm ảnh hưởng đến mọi người nên nép sau các trụ cổng cao, định chờ đến giờ ra chơi. Một người thanh niên vừa dừng xe đạp, anh nhìn tôi một lúc mới hỏi: “Cô giáo mới về trường phải không?”.

    Sau này khi đã thân nhau Nam hay nói về lần đầu gặp nhau - “Lúc đó nhìn Phương dễ thương dễ sợ”. Tiếng Việt thật là phong phú, anh nói như thế mà tôi vẫn cảm thấy hài lòng vì được ngưỡng mộ. Ngôi trường nằm sát quốc lộ, phía sau nghe nói là biển. Tôi nghe nói vì chưa bao giờ tôi đi qua khỏi khoảng đất rộng phía sân sau của trường, chỉ nhìn thấy thấp thoáng những thân đước thấp cao không có bóng người là thấy sợ rồi. Khi khoảng sân sau được dùng làm vườn thí nghiệm của trường thì tôi mới theo học trò đi lần về phía đìa. Trong khi tụi học trò xới đất trồng cây thì tôi phát hiện ra mấy cây ớt kiểng mọc dại đầy trái chín, hẳn là lũ chim chưa kịp ăn. Tôi hái ớt đem về và tụi bạn cùng ở nội trú xem như là để cải thiện bữa ăn tập thể thường xuyên chỉ có mắm và rau.

    Tôi thường ra đến trường vào sáng thứ hai và trở về thành phố vào chiều thứ bảy. Những chuyến xe khách nội tỉnh cũ kỹ đã quen nhẵn mặt bọn con gái ở đây. Trường có mười mấy giáo viên mà chỉ có bốn là nam thành ra nữ không phải là phái yếu. Một lô con gái chưa chồng sống với nhau thường quậy như quỷ sống. Tôi về trường chẳng bao lâu là hòa nhịp được với mọi người, ngoài giờ lên lớp, thời gian còn lại mênh mông, mấy trang giáo án ngoáy một cái là xong, chẳng có gì giải trí thế là chụm nhau lại nói chuyện tình yêu.

    Chuyện yêu đương nghe xa lơ, xa lắc, chẳng ai cạy được miệng tôi nói về nhân vật nam trong đời sống mình. Tôi đâm ra thích được ở một mình. Buổi chiều không có tiết dạy, tìm một cái phòng trống, đến góc bàn cuối cùng, ở đó không có ai quấy rầy tha hồ muốn làm gì thì làm. Làm việc cũng được mà ghi nhật ký cũng được, ai cũng tưởng là mình gương mẫu. Lâu lâu đọc lại nhật ký thấy buồn đến não lòng. Gì mà chỉ có đêm khuya thanh vắng với tiếng còi tàu mênh mông, chỉ có mưa rơi lạnh buốt cả tim. Đúng là buồn thật, chiều chiều ngồi ở trụ cờ giữa sân trường nhìn những chuyến xe qua lại, đã từng mong có chiếc xe nào đó ngừng lại, có người nào đó bước vào tìm mình. Có lúc nhớ da diết thành phố, hình dung những con đường đèn đỏ xanh nhấp nháy, thơm nức mùi nước hoa hòa lẫn với son phấn của bọn con gái cùng tuổi mình đang áo quần đủ kiểu lượn lờ với người yêu. Có lúc muốn bỏ hết học trò, bỏ lại ngôi trường nghèo để về phố đông nhưng đến những sáng thứ hai lại ra bến, leo lên xe khách mà mắt còn cay cứng, lòng cứ lo đến trường không kịp giờ vào học.

    Anh Nam hỏi tôi: “Phố có gì vui mả tuần nào Phương cũng về?”. Tôi hỏi lại: “Thế ở đây có gì vui mà tuần nào anh cũng ở lại?”. Anh Nam rủ tôi cứ thử ở lại một tuần theo học trò lên rẫy, leo núi hay ra biển bắt sò. Tôi hứa nhưng chưa ở lại lần nào. Chẳng biết cái gì thúc giục mà thứ bảy nào cũng lật đật dạy cho xong tiết cuối cùng rồi tất tả chạy theo xe đò. Đêm nằm ở nhà lại nghĩ về tiếng còi tàu đêm đêm đi ngang trường. Tiếng tàu chạy sầm sập như lao trong đêm, rung cả ngôi trường nhỏ, rung cả tâm hồn mong manh của cô giáo trẻ.

    Nam hỏi: “Sao trông Phương cứ buồn buồn, nụ cười của Phương méo xệch, nhìn Phương cười héo cả lòng”. Anh khéo tưởng tượng, tụi con gái khen tôi kể chuyện tiếu lâm hay cực kỳ. Chiều chiều cơm nước xong cứ chụm đầu nhau lại, kể đủ thứ chuyện cười chảy nước mắt. Anh Nam đàng hoàng thế kia lại nhìn thấy tôi buồn. Sao anh không thấy nhỏ Thi yêu anh. Nó nhìn anh đăm đắm, lo cho anh đủ thứ, sao anh không biết. Tôi hỏi anh biết không. Anh gật đầu “Anh biết rồi”. “Sao anh không nói lại để Thi đợi?”. Anh Nam nhìn đi chỗ khác: “Người anh yêu không phải là Thi!”. Tôi nhướng mày: “Người đó có ở đây không?”. Anh Nam chỉ nhìn tôi không trả lời.

    Mùa mưa đến đột ngột. Ngôi trường nằm giữa đồng trống nên gió thổi tứ phía. Mưa mù mịt che khuất cả ngọn núi trước mặt. Cánh cửa sổ phòng tôi mở ra phía sau nhìn thấy một ngọn đèo, tôi hay đứng đó nhìn nhũng chiếc xe nhỏ như hộp diêm bò lên đỉnh đèo. Trời mưa trắng xóa, đất trời mù mịt nhưng vẫn thấy ngọn đèo trên cao. Có đêm tôi đứng nhìn những chuyến xe chỉ là hai quầng sáng trong bóng đêm, cứ tưởng như mình đang ở trong khu rừng với con thú dữ mắt sáng quắc. Chiều nay thứ bảy tôi không về phố, trời mưa quá nên cả bọn ở lại, cơm nước xong ai nấy leo lên giường. Lĩnh, ở chung phòng với Nam, gõ cửa gọi, cả bọn cười khúc khích: “ngủ hết rồi”. Lĩnh lầm bầm “ngủ như gà” rồi bỏ đi. Nằm chơi mà ngủ thật. Tôi tỉnh dậy vào nửa đêm cùng lúc với tiếng còi tàu vừa vang lên. Tôi nằm yên lắng nghe, mưa đã tạnh từ lâu, chỉ còn nghe tiếng giọt mưa nhỏ xuống thềm tí tách. Tôi nằm thêm một lúc rồi trở dậy, ôm sách vở, cầm cây đèn dầu len lén mở cửa xuống dưới lớp học.

    Kim đồng hổ chỉ số mười. Giờ này ở thành phố cuộc vui chưa kết thúc. Bọn con gái tuổi tôi có lẽ đang ngồi với người yêu ở quán cà phê, xập xình tiếng nhạc. Tôi giở xấp bài tập của học trò, sáng thứ hai phải trả bài mà chấm hoài không xong. Học kỳ này tôi phải dạy treo một tiết sử lớp sáu. Tụi nhỏ cũng chăm, bài làm cứ thuộc làu nhưng lỗi chính tả đầy dẫy, tôi sửa đỏ cả giấy. Nhỏ Thi nói tôi dư công, cứ chấm nội dung là được rồi, tôi cũng thử nhưng không chịu được, thế là cứ cắm cúi sửa lỗi chính tả nên chấm lâu ơi là lâu. Ngày mai nếu trời không mưa, tôi sẽ đi núi chơi với tụi học trò như đã hẹn với anh Nam. Nghe nói trên đó có mấy con suối rất đẹp. Anh Nam bảo tôi sống khép kín quá không đúng với tuổi trẻ của mình. Tôi cười “Nhưng biết làm sao, đó là bản tính mà. Anh không nghe người ta nói giang sơn dễ đổi bản tính khó dời à!”, “Không phải, Phương không phải như thế, có cái gì làm Phương trở thành trầm mặc đó thôi”

    Vừa nghĩ đến Nam, đã thấy anh nhẹ nhàng ngồi xuống trước mặt. Nam gỡ cây viết trong tay tôi, dịu dàng: “Em không ngủ được à, Phương?”. Tôi bất ngờ với từ “em” anh vừa thốt ra. “A... không. Em mới ngủ dậy”. Nam cười: “Hai đứa mình giống nhau, anh cũng mới ngủ dậy. Nghe tiếng mở cửa rồi đợi hoài không nghe tiếng đóng cửa, anh theo ra đến đây”. Tôi nghe nổi da gà bởi giọng nói âu yếm bất thường của Nam. Anh lại hỏi: “Em đói bụng không?”. Tôi lắc đầu. Im lặng một lúc, tôi đọc bài làm của học trò mà không hiểu gì. Tối nay trông Nam lạ hơn thường ngày. Tự nhiên tôi sờ sợ, tôi ngồi thẳng người nhìn chung quanh. Ngọn đèn dầu nhỏ không soi sáng được gì bóng tối ở chung quanh tôi. Bóng Nam cao lớn che khuất cả quầng sáng vàng nhỏ nhoi.

    Nam đứng dậy, bước sang ngồi cạnh tôi. Tôi giật mình. Anh Nam cầm bàn tay tôi đang run rẩy. Tôi không dám nhìn anh, cố rút bàn tay mình về nhưng anh cố tình giữ chặt nó rồi nắm lấy bằng cả hai bàn tay to lớn của anh. Tôi mở to đôi mắt, ngạc nhiên hết sức. “Anh Nam có chuyện gì thế?”. Tôi nghe giọng mình run run. Nam nhìn tôi thật lâu: “Em không hiểu gì sao Phương?”. Tôi lắc đẩu. Nhưng tôi hiểu ngay lúc ấy, có điều đây không phải là điều tôi chờ đợi. Nam không phải là người tôi chờ đợi. Nhân vật nam trong đời tôi mà mọi người hay gặng hỏi đã bỏ đi cùng một người con gái khác. Con bé ở đây ai cũng khen là ngoan hiền đã một lần khóc vì bị phụ tình. Tôi đến nơi này giống như để trốn chạy. Ngày lễ tốt nghiệp bạn bè áo mũ xênh xang, tiệc mở tưng bùng, ai đó phung phí xịt những sợi bóng màu hồng đầy tóc, đầy vai. Khi tiệc tàn, Bình kéo tôi ra một góc: “Phương thông cảm. Anh xin lỗi”... và anh đưa cho tôi một chiếc phong bì màu hồng sang trọng, có in hai mẫu tự màu đỏ quấn quít nhau ở một góc.

    Tôi nhìn bàn tay mình trong tay Nam. Bình cũng đã từng nắm tay tôi như thế, tình yêu học trò trong sáng như lời hứa hẹn chân thành của anh: “Bao giờ ra trường chúng mình sẽ cưới nhau”. Đám cưới của Bình diễn ra đúng một tuần sau ngày tốt nghiệp, cô dâu là con một nhà doanh nghiệp giàu có ở thành phố. Tôi mang theo mối tình đầu buồn bã, ngập ngừng những bước mới toanh vào đời. không ai biết tôi mang trong lòng nỗi buồn thiếu phụ.

    Nam đan những ngón tay mạnh mẽ của anh vào tay tôi, bàn tay hâm hấp mồ hôi. Tôi cố gắng rút tay mình về nhưng Nam vẫn bướng bỉnh giữ chặt lấy. “Phương ơi!...” và Nam nói về tình yêu của anh. Có cần thiết phải như thếkhông khi anh chưa biết tôi nghĩ gì? Tôi nhớ lại những ngày mình mới về đây, Nam là người giúp đỡ tôi đủ mọi thứ. Đêm nào tôi phải đi dạy bổ túc trong xã, anh cũng đi theo dù không có giờ dạy. Trời mưa, anh đi kiếm củi cho tôi nấu cơm nếu hôm nào đến phiên tôi trực bếp. Tối tối, cả bọn con gái rủ nhau ra sau giếng tắm, bao giờ anh cũng nhắc: “Cẩn thận kẻo trời tối lại té nghe Phương”...

    Tôi nhớ lại mọi thứ. “Anh Nam, đừng nói nữa anh”. Nam nhìn tôi: “Em hiểu rồi phải không Phương?”. Tôi hiểu nhưng tôi lại nghĩ về người khác. Hồi nào đó, Bình cũng đã từng như thế. Đưa tôi đi học, đón tôi về. Bất cứ lúc nào tôi gặp khó khăn Bình cũng sẵn sàng lo lắng cho tôi. Tại sao lại nghĩ về một người đã bỏ đi khi ngồi cạnh một người khác? Nam sẽ như thế nào khi biết điều đó? Nam chợt quàng tay lên vai tôi, tôi nghe bên vai mình ấm lại. Anh xoay tôi lại rồi từ tốn cúi xuống hôn tôi.

    Đã bao lần tôi đi với Bình, tôi chờ đợi nụ hôn của anh. Bốn năm yêu nhau chỉ dám nắm tay nhau nhẹ nhàng. Tôi chờ đợi để hiến dâng đôi môi thanh tân, nhưng anh giữ gìn nâng niu. Cứ tưởng tình yêu đẹp như giấc mơ đêm nào. Tôi đã từng mơ đi cạnh anh với áo dài, hoa trắng cài đầu và anh cúi hôn tôi, nụ hôn trong mơ ngọt ngào, say đắm. Bây giờ tôi đang tỉnh táo trong vòng tay của Nam, chẳng có cảm giác gì. Tôi không phản đối, có cái gì đó làm tôi không nỡ để Nam thất vọng, tôi mở to mắt nhìn anh lim dim đắm đuối hôn tôi. Và tôi bật khóc. Nụ hôn đầu mặn đắng nước mắt, không phải vì xúc động, tôi rất muốn quên nhưng tôi vẫn ý thức được rõ ràng tôi không yêu Nam.

    Nam lau nước mắt cho tôi, dịu dàng: “Em nói gì đi Phương!”. Tôi lắc đẩu, cổ nghẹn cứng. Anh kiên nhẫn ngồi đợi tôi bình tâm, tay anh nhẹ nhàng nắm từng ngón tay của tôi, tôi bình tĩnh rất nhanh, ngồi xa ra. Tôi rút tay về và nói không nhìn anh: “Anh đi đi”. “Phương!”. Tôi lắc đầu: “Anh lên phòng đi, em năn nỉ đó!”. Nam ngồi yên một lúc, anh xoay người tôi lại, nâng cằm nhìn vào đôi mắt đỏ của tôi: “Em sao vậy?”. Tôi lại lắc đầu. Nam đứng lên: “Mình sẽ nói chuyện lại khi em hết bối rối. Anh đi đây. Em cũng đi ngủ đi, khuya lắm rồi!”. Lâu lắm tôi mới rời khỏi phòng, anh Nam vẫn còn ngồi trước hiên, tôi thấy đóm lửa nhỏ của điếu thuốc trên môi anh. Tôi không dám gọi anh, khi nằm trên giường lâu lắm tôi mới nghe tiếng đóng cửa ở phòng bên.

    Sau lần đó, tôi không bao giờ dám gặp Nam khi chỉ có một mình. Mỗi sáng thứ năm khi ngồi họp Hội đồng giáo viên, thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp đôi măt của Nam nhìn tôi dữ dội. Tôi chưa đi lên núi với học trò lần nào như đã hẹn với anh. Chiều thứ bảy nào ra khỏi lớp tôi cũng vội vã đón xe về phố bất kể trời nắng hay trời mưa. Nam có vẻ bực lắm và tôi cũng cảm thấy lòng khó nghĩ nhưng tôi biết một điều là tôi không yêu anh. Tuần lễ này anh Nam đi công tác trên huyện. Không gặp anh tôi cảm thấy lòng nhẹ nhõm nhưng đến thứ năm ngồi họp Hội đồng, nhìn chỗ của anh, Lĩnh đang ngồi, lòng tôi lại nao nao.

    Tuần này tôi phải ở lại trực trường vì mấy người ở khu nội trú đều đi vắng. Thi đi chơi với học trò, tôi còn một mình trong ngôi trường rộng mênh mông. Đứng ở cổng trường nhìn xe chạy qua lại, nhìn miết về phía đường về phố, cứ muốn về nhà. Thôi thì đi nấu cơm, trời có vẻ muốn mưa. Trời mưa thật khi tôi đang ngồi đun từng que củi nhỏ vào cái bếp bắc bằng ba hòn đá vuông. Nhà bếp trống rỗng bốn bề nên mưa tạt tứ phía vì gió cứ chuyển hướng liên tục. Nồi cơm đang sôi nên tôi không thể nào bỏ chạy. Nam hiện ra đột ngột, khi tôi đang dùng mấy tấm phên che cái bếp với ngọn lửa cháy yếu ớt. Anh có vẻ mừng rỡ hơn là ngạc nhiên: “Em ở đây mà bây giờ anh mới nghĩ ra”. “Anh họp đến tuần sau sao giờ đã về rồi? Anh ướt hết kìa”. “Em cũng vậy, chạy lên đi". “Đợi cơm chín đã”. Anh Nam chẳng nói gì, kéo tôi chạy. Trời vẫn mưa mịt mù khi tôi ngồi đối diện với anh. Phía bên kia bàn anh Nam ngồi hút thuốc trầm ngâm mặc cho tôi nhăn nhó phản đối. Tôi đứng dậy đi về phía cửa sổ, nhìn ra phía xa, không gian màu trắng đục chẳng còn thấy ngọn đèo ở đâu.

    Tiếng Nam nghe thật gần sau lưng: “Sao Phương cứ lánh mặt anh hoài vậy?”. Tôi không dám quay lại, tôi sợ đến nỗi hai tay bám chặt lấy thành cửa sổ. “Anh Nam, lại ghế ngồi đi anh Nam. Thi về bây giờ đó”. “Trời mưa, Thi chưa về đâu. Làm gì em sợ dữ vậy?”. Nói thế, nhưng anh cũng đi về phía bàn. Tôi quay lại, anh Nam đứng tựa lưng vào cửa, hai tay khoanh lên ngực: “Em nói với anh cái gì đi”. “Nói gì anh Nam?”. Anh nói chậm rãi: “Anh yêu em”.

    Tôi nhắm mắt lại quay đi. Đó là câu nói tôi đợi ở Bình suốt bốn năm liền mà anh không nói. Tôi nói với Nam mà không nhìn anh: “Em có người yêu rồi, anh Nam”.

    Sau này có người nói với tôi rằng đàn ông chỉ nhớ đến người con gái nào đã có quan hệ sâu sắc với họ. Tôi với Bình có bốn năm nửa là bạn, nửa là người yêu. Với tôi, anh Nam là người hôn tôi nụ hôn đầu tiên. Cuộc sống như những con sóng lớp sau đuổi lớp trước nên tôi không hề gặp lại Bình lần nào. Nghe nói anh đã không còn dạy học và đang là một cán bộ cấp cao ở Sở giáo dục. Không biết có khi nào anh nhớ đến tôi không nhỉ? Còn Nam, sau năm học đó, anh đổi sang làm hiệu trưởng ở một trường khác. Thỉnh thoảng tôi gặp anh ở một hội nghị nào đó, chào hỏi nhau bình thường. Ai, trong hai người đàn ông đó, còn nhớ tôi?

    Rồi tôi lập gia đình. Tình yêu lần này đến bất ngờ nhưng không làm tôi điêu đứng như ngày xưa. Tôi sống bình yên, hạnh phúc cũng êm đềm như ngày cứ nối tiếp ngày. Chồng của tôi là người đàn ông khoáng dạt, bản lĩnh. Anh như bóng cây cao che chở cho tôi vốn chỉ ồn ào bên ngoài còn tâm hồn thì mong manh dễ vỡ. Có lẽ vì vậy nên cũng có lúc tôi nghĩ về Bình, về Nam nhưng không phải để buồn mà chỉ nhớ đến kỷ niệm một thời.

    Khi con gái tôi có bạn trai, nó hồn nhiên kể cho mẹ nghe về lời tỏ tình đầu tiên. Tôi chợt nghĩ đến những kỷ niệm cũ khi chia tay với người yêu, tôi đã lẳng lặng trốn chạy mà không dám kể với ai về nỗi khổ của mình. Con gái tôi cũng tò mò, nó nói: “Mẹ kể về mối tình đầu của mẹ đi”. Tôi nhẹ nhàng nói về chuyện ngày xưa. Lòng không còn cảm thấy khổ đau nhưng lạ kỳ là tôi vẫn xôn xao khi nhớ về khung cửa sổ mở ra phía núi với những buổi chiều mưa rơi trắng bạc cả lòng...

    Tháng 9/2000
     
    tducchau, amylee, vuivui2013 and 2 others like this.
  4. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    DÌ CẦM

    Truyện ngắn của Nguyễn Minh Hùng


    Tôi rời làng Liễu năm mười bảy mang theo nỗi niềm nặng trĩu trên vai suốt bao năm tháng... Dì Cầm năm ấy chắc đã bước qua tuổi ba mươi lâu rồi...

    Tôi gọi dì, bởi dì là em kết nghĩa với mẹ tôi, ba mẹ tôi bảo thế. Dì từ đâu tới, tôi không biết. Khi tôi sinh ra đã có dì bên cạnh. Tôi nói tiếng đầu tiên là tiếng “dì”, rồi sau đó mới bập bẹ tiếng ba, tiếng mẹ. Tiếng “ba” tôi hiếm khi gọi. Ba tôi đi biền biệt, ông vắng bóng thường xuyên. Cho đến năm lên sáu, trong ký ức mơ hồ, tôi chỉ gặp ông đôi ba lần.

    Ngày bé, đọc truyện thấy miêu tả cô gái quê nào đẹp tôi thường đem so sánh với dì. Rồi nhủ thầm, chẳng bằng dì Cầm... Hình như dì Cầm là tất cả các nhân vật ấy cộng lại và cộng thêm cái gì đó mà tôi không biết. Hình như là mái tóc. Tôi chưa thấy tóc ai đen thế, nhiều thế, dày thế và dài thế. Lại óng mượt. Chỗ đường ngôi những lọn tóc hơi xoăn, như có một chút sóng gợn lên. Mẹ bảo, tóc ấy vừa khôn ngoan vừa nặng tình, nên khổ! Những đêm trăng sáng, tôi thường theo dì ra vườn, ngồi xem dì gội đầu. Trăng chải trên tóc dì lấp loáng, mùi hương tóc phả vào tôi nồng nàn. Tôi tưởng tượng ra thế giới thần tiên từ những đêm trăng sáng trong vườn. Tôi biết thế nào là mộng mơ, cũng từ những thời khắc đó. Những năm tháng ẵm bồng tôi, mái tóc dì như chăn êm, âm ấm mùi bồ kết. Mà hình như vật tôi cầm đầu tiên trên đời cũng là những sợi tóc dì tôi...

    Dì yêu chiều tôi hết mục, hình như hơn cả mẹ tôi. Mẹ bảo: “Mày chìu, nó hư!”. Dì chỉ cười. Tôi nhớ mãi những buổi chiều đầy nắng vàng, ngủ dậy, nhà trống vắng. Mẹ ra đồng gặt. Dì đi chợ Vĩnh chưa về. Tôi ngồi ngoài bậc cửa ngóng mãi phía bờ tre. Tôi biết thế nào là buồn, buổi chiều ấy... Năm lên sáu, tôi phải đi học. Ba tôi từ đâu về, tỏ ý định gửi tôi xuống thị trấn ở nhà cô Hân trọ học. Tôi giẫy nẩy lên, bỏ ăn tối, nằm khóc. Dì Cầm dỗ mấy, tôi vẫn không nghe. Nào là thứ bày mỗi tuần dì sẽ xuống đón con về, nào là mỗi lần đi chợ dì sẽ ghé thăm... Tôi chẳng cần học, đã có dì Cầm chỉ bảo những gì tôi không hiểu kia mà! Ba ngồi trầm ngâm... Mẹ tìm cái roi vung vung đe dọa và chì chiết, đại loại ngày nhỏ vì bà ngoại cưng mà mẹ phải bỏ học giữa chừng... Mặc, làm gì tôi thì làm, không có chuyện đi học! Nhưng đến khuya, lúc tôi đói lả, khi mái tóc dì Cầm xõa xuống bên gối tôi, bỗng dưng tôi thấy mình có lỗi. Dì ẵm tôi dậy, lấy cơm tôi ăm rồi ru tôi ngủ, chỉ nói khẽ bên tai: “Cháu dì có hư bao giờ?!”... Tôi thức gần như suốt đêm ấy. Lần đầu tiên, tôi biết thức đêm là gì. Dì Cầm cũng đâu có ngủ, cứ loay hoay, lúc thì sờ trán tôi, lúc thì xoa vào lưng, vỗ nhè nhẹ bên vai tôi. Tôi cố nhắm mắt cho dì yên lòng nhưng không sao ngủ được. Ngày mai đi học là xa dì rồi. Vẫn biết dăm ba hôm tôi lại được về nhà. Mà có xa xôi gì, làng tôi với trường huyện cũng chỉ năm cây số đường. Sáng hôm sau, tôi ngoan ngoãn đến lặng lẽ, ôm xách ngồi lên chiếc xe đạp theo ba. Đến chỗ lũy tre, tôi ngoái lại, dì vẫn đứng đấy nhìn ra. Mẹ tôi có đứng đấy không, tôi không biết, tôi chỉ chăm chắm mỗi bóng hình dì...

    Vào một chiều đông nhiều mưa năm sau dì Cầm đột ngột theo chồng. Mẹ bảo thế. Một cơn bão đến. Rồi lụt. Lụt năm ấy to lắm, một phía mái nhà tôi sập, làm sập chiếc giường dì cháu tôi nằm, may mà dì vừa kịp ôm tôi chạy. Đêm trước ngày dì ra đi, tôi bỏ ra bờ ruộng ngồi khóc dưới hàng keo. Cả nhà đi tìm. Tôi nghe tiếng gọi í ới, mặc, tôi ngồi mãi đây và cứ mong rằng chuyện đang xảy ra ở trong một giấc mơ nào đó mà thôi, nhiều đêm tôi vẫn thường cảm giác thế mà! Nhưng đến khi nghe tiếng dì Cầm thổn thức, tôi không cầm lòng, nhảy bừa qua hàng rào đậu tây đầy gai nhọn, ôm chặt lấy dì như sợ ai cướp mất. Đêm ấy dì cháu thức suốt. Mái tóc dì đẫm nước mắt, rối bời. Ấy là đêm duy nhất hai dì cháu chẳng ai nói với ai một lời. Lúc dì đi nước trước sân nhà vẫn lội ngang lưng. Người ta đưa dì tôi ra ngõ như bơi trong nước. Mắt tôi nhoè đi chẳng thấy gì. Tôi chạy vào úp mặt trên gối, rồi thiếp đi lúc nào không hay. Khi tỉnh dậy, bóng chiều đã sụp ngang đầu ngõ. Nước lụt rút cạn lộ mặt đường rồi. Nước kéo dì tôi về phương nào chẳng biết. Tôi thẫn thờ nhìn chiêc gối, mấy sợi tóc dì rụng đêm qua còn đen nhánh. Một sợi, hai sợi, bỗng nhoè hàng trăm ngàn sợi tóc cuốn hút tôi vào một giấc mơ xa vời...

    Suốt mười năm sau đó, tôi vẫn không hề biết tin tức của dì. Hỏi mẹ, mẹ bảo dì Cầm ở xa lắm, chẳng gửi thư về. Ba tôi có mặt ở nhà nhiều hơn. Mẹ chăm sóc tôi chu đáo. Tôi được yêu chiều. Nhưng sao lòng tôi vẫn không nguôi quên hình bóng dì Cầm?! Mẹ vẫn không thay được dì tôi. Nhiều đêm nằm bên mẹ, tôi cố tưởng tượng đấy là dì Cầm. Nhưng không cách nào được. Tôi hay thao thức nửa đêm, nghĩ ngợi mông lung cũng bắt đầu từ ngày tháng không có dì.

    Ngày tôi nhận giấy báo vào đại học cũng là ngày ba tôi trút hơi thở cuối cùng vì một căn bệnh nan y. Tôi rời làng Liễu trong tâm trạng rối bời. Ba không còn nữa. Mẹ thui thủi một mình. Và dì Cầm, dì đang ở đâu rồi? Con đường làng ngoằn ngoèo chon von bóng mẹ tôi đứng tiễn nhạt nhòa vào sương sớm rồi mất hút chỉ kịp để lại một dấu vết cuối cùng trong ký ức nơi chôn nhau cắt rốn... Ba năm sau, mẹ tôi cũng qua đời. Làng Liễu bỗng trở nên xa xăm hơn bao giờ hết... Cô Hân chuyển nhà vào Nam, cô thay ba mẹ nuôi tôi học hành, ơn cô suốt đời tôi không trả nổi. Nhưng cô sống chỉn chu, ngăn nắp, lý trí thái quá. Cô càng làm tôi nhớ đến dì Cầrn. Nhiều lần tôi hỏi về dì, cô bảo dì lấy chồng xa, mãi tận bên Lào, biệt tăm từ đó.

    Cho mãi đến lúc cô tôi gần trút hơi thở cuối cùng, tôi mới biết chuyện xảy ra với dì tôi bao nhiêu năm trước...

    ... Thời trẻ, ba tôi thường dong ruổi trên mạn ngươc mua dược liệu cho ông tôi. Nội tôi thời ấy là một thầy thuốc Nam gia truyền. Một chuyến đi của ba tôi thường kéo dài đôi ba tháng. Ba gặp dì Cầm trong hoàn cảnh trái ngang: người ta đổi hai con bò sữa lấy cô gái mười bảy tuổi ở buôn Sóc. Ba tôi cứu dì Cầm sau một trận đánh quyết liệt. Thế rồi, những tháng ngày trên núi rừng, tình yêu đã đến. Ba tôi đưa dì Cầm về giới thiệu với ông bà nội. Ông bà nội, nhất là cô tôi, kịch liệt phản đối, vì nhiều lẽ. Hơn nữa, trong khi ba tôi vắng nhà, ông bà tôi đã làm lễ hỏi cho ba tôi với con gái một người bạn đồng môn hứa hôn từ ngày trẻ - tức mẹ tôi sau này. Thuyết phục ông bà tôi không đuợc, ba tôi định đưa dì Cầm đi một nơi xa. Nhưng ngặt vì dì bụng mang dạ chửa. Ông bà nội tôi tuy không công nhận mối tình này nhưng lại hết sức quý giọt máu dòng họ. Dòng họ tôi hiếm con, càng hiếm con trai, năm đời liền, đời nào cũng chỉ một mụn con, mà nuôi nấng nhọc nhằn, sinh dễ dưỡng khó. Dì Cầm được bố trí lên nhà cô Hân chờ sinh nở. Mọi việc ông bà và cô tôi sắp xếp gọn khô, im re, làng xóm láng giềng chẳng ai hay biết. Ba tôi buồn, lấy cớ công việc, vắng nhà mãi. Thế rồi ông bà tôi lại làm đám cưới cho ba tôi. Ngày cưới ba tôi không hay biết. Khi về, ba đã thấy vợ trong nhà. Mà kỳ lạ thay, ông bà tôi lại bố trí đưa mẹ con dì Cầm về nhà cũng theo cái cách gọn khô, im re như trước! Chắc ngày đó, cả ba người, ba - mẹ - dì Cầm khổ tâm thế nào. Ba bỏ đi biền biệt. Mà cũng không rõ thế nào, mẹ và dì Cầm lại thương yêu nhau như chị em. Rồi cho đến một ngày, có người từ mạn ngược về, bảo là cha của dì Cầm, tìm đến nhà tôi. Một cặp ngà voi lạy tạ ba tôi ơn cứu con gái năm nào thoát tay bọn buôn người, ông xin được đưa cô về thăm lại quê hương. Hóa ra ngày ấy, người ta bảo với tôi dì cầm “đi lấy chồng” là thế. Kể từ đó, không hiểu sao, dì Cầm biền biệt...

    Đột ngột mấy ngày trước đây, tôi được tin dì Cầm về lại làng Liễu...

    ... Chuyến tàu đêm vẫn lầm lũi trong cơn mưa nặng hạt. Nước loáng loáng đồng bãi. Mấy xóm nhà như ốc đảo giữa biển nước mênh mang. Tôi nhớ cơn lũ hơn ba mươi năm về trước. Ngày ấy tôi nằm gọn trong lòng dì Cầm ấm áp, ăn những lát khoai lang khô ngon nhất trong đời... Lũ lên nhanh... Đoàn tàu giảm tốc rồi dừng hẳn. Cầu Bà Sấm lũ xói một bên, tàu nép vào một đường tránh nằm chờ. Hai tiếng đồng hồ sau, cầu sập. Những thanh sắt đường ray treo lơ lửng như một chiếc võng trên dòng lũ réo ồn ào... Hành khách nôn nóng, lo âu... Gần hai mươi năm tôi mới tìm về cố hương những mong kịp gặp lại một người. Có còn kịp chăng, mẹ ơi?!...

    Còn mười lăm cây số mới đến làng tôi. Nước lên nhanh, lòng tôi cháy khát. Tôi băng đi trong mưa đêm. Bám từng thanh sắt treo trên cầu Bà Sấm, tôi không ngần ngại, những viên đá cứa dưới chân tôi bật máu. Tôi chạy khoẻ hơn bao giờ hết... Miếu làng Liễu hiện ra trong nước trắng chỉ còn nhô mắt đá âm dương. Tôi không hiểu mình đã vượt qua con nước đêm ấy bằng cách nào. Ký ức dẫn tôi về. Mọi dấu vết đổi thay được nước trời vây xóa không đánh lừa được tôi. Tôi tìm về ngôi nhà cũ với một niềm tin mãnh liệt, mẹ tôi đang ở đấy chờ tôi. Tôi ào đến phía ánh đèn le lói... Dì Cầm! Mẹ ơi!... Không, mọi điều vẫn còn nguyên vẹn. Dì Cầm của tôi ngồi đấy. Vẫn ánh mắt năm nào, xa xăm đợi chờ...

    Và mái tóc, không, mái tóc dì đã bạc trắng một màu ngà voi ửng lên bên ngọn nến le lói! Tôi cầm sợi lóc rụng trên gối dì ba mươi năm trước - những sợi tóc đã theo tôi làm kỷ vật vô giá bao năm tháng. Những sợi tóc hãy còn đen nhánh long lanh giữa đêm khuya...

    Nước lũ chừng như đang chựng lại ngoài kia... ★
     
    tducchau, amylee, vuivui2013 and 2 others like this.
  5. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    HUYỀN THOẠI TRONG KHE NÚI LƯỢN

    Truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên


    Năm sáu tuổi, Lãng bắt đầu đi chăn bò thuê cho nhà giàu trong làng để tự kiếm sống. Gia đình - cái nôi đầu tiên của cuộc đời - nơi bấu víu trước hết và cũng là sau cùng của một con người đã hắt hủi nó. Mà cũng tại ông trời đấy. Ông trời sinh ra nó phải lúc âm - dương không được điều hòa cho lắm. Nghĩa là thiên - địa - nhân chưa hợp nhất mà thằng bé cục mịch kia lại nôn nóng chui tọt ra giữa cuộc đời nằm cưởi sằng sặc. “Một thằng cu dị dạng!” - người đàn ông - bố nó - thảng thốt.Ừ, - ngay lúc mới sinh ra mà cái thân hình nhỏ bé như con mèo cái bị vặt lông nằm còng queo, tay chân ngắn cũn cỡn, khuôn mặt méo xẹo ấy đã cất lên tiếngcười sằng sặc như trêu ngươi cuộc đời. Người ta bảo, thế là đoản thọ. Thì hãy cứđợi xem...

    Nhà Lãng “còi” có ba anh em thì hắn bị phân biệt đối xử nhất. Khổ nỗi, phàm ai đã được thì trời lại cho thêm còn ai đã mất thì đến cái ít ỏi nhất trời cũng lấy đi. Hai người anh của nó bảo: “Nhà này ai cũng sáng sủa, chỉ mày là tối tăm...”, “Mày đâu phải là anh em với tụi tao”!. Ông bố thì bực mình vì cái sự còi cọc, vụng về của nó. Mở miệng ra là như tạt nước sôi vào mặt nó. Chỉ có mẹ nó, người mẹ tội nghiệp bị hoài nghi là có dan díu với ai đó mới sinh ra “của ấy”. Bà hay khóc, mỗi lần khóc bà cứ trách khúc ruột kém hoàn hảo của mình: “Con ơi, giá như không có con thì mẹ ba đỡ khổ...”. Trong nhà ruột thịt còn thế, huống hồ người dưng nước lã. Buổi sáng hễ có ai trong làng - nhất là đàn bà đi buôn, ra đường lỡ gặp nó lả họ suỵt một tiếng dài thườn thượt rồi quay về... “Thả bước ra ngõ lại rủi gặp con bò cái còn đỡ xui xẻo hơn cái thằng hãm tài ấy” - đám con buôn bảo nhau thế. Còn nó, nó buồn nỗi buồn tuổi thơ không cổ tích. Nó buồn nỗi buồn mơ hồ không sao giải thích nổi. Và nó buồn, nó chỉ biết thổi sáo... Cây sáo trúc được một ông già trong làng đẽo tặng nó trước khi qua đời. Nghe nói ông cụ đã lấy tre ở khe núi Lượn chăm chút đẽo nên cây sáo nhỏ ấy - nó quí và đẹp như một vật báa gia truyền. May sao lại rớt vào tay thằng Lãng “còi” xấu xí nhất làng này. Còn chuyện dẫn tới cái may ấy thi làng không ai biết được. Chỉ hay rằng sinh thời, ông lão thường nằm ở tảng đá bàn đầu khe núi Lượn để thổi sáo trong những giờ nghỉ trưa. Và thằng Lãng có lần trốn nghe lén bị ông bắt được, mắng cho một trận. Thế thôi…

    Hồi ấy, trong nhóm trẻ chăn bò có con bé Thi, con hoang của bà Tơ “mát” ở cuối làng. Dân làng cứ đồn ầm lện về việc bà Tơ đi làm rẫy trót “tằng tịu” với ai đó để rồi sinh ra nó trên cõi đời này. Con bé có đôi mắt đen láy và buồn hơn cả nỗi buồn ấy lại cógiọng hát trong veo như nước suối Môn mùa khô, líu lơi như tiếng chim oanh và bảng lảng như mây trắng đầu núi sau mưa.

    Bọn trẻ chăn bò kháo nhau:

    - Ê tụi bây ơi, thằng Lãng “còi” với con bé Thi hợp lại với nhau là thành một gánh xẩm có cỡ đấy!

    - Tụi nó “đi” với nhau thế mà hợp tông, hợp vía. Này nhé, đứa thì thổi sáo hay, đứa thì hát hò giỏi... Đi xẩm thì lắm bạc nhỉ! Ha... ha...

    - Ừ mà tao thấy tụi nó đi đâu cũng kè kè bên nhau suốt... Gớm thiệt, còn nhỏ mà gớm đáo để ấy...

    - Tụi nó là vợ chồng mà lại...

    - Ừ, từ từ cũng thành vợ chồng cho coi... Hay quá!... Kìa, tụi nó kìa...

    Lãng “còi” lùa đàn bò qua con suối, đến khe núi rồi đi tìm mỏm đá nằm ngả lưng mặc cho đàn bò thong dong gặm cỏ. Nó nằm vắt chân chữ ngũ, thổi sáo líu lo... Tiếng sáo bay bổng gọi mây đầu núi. Tiếng sáo thổn thức gọi nước quên nguồn. Tiếng sáo da diết làm con chim oanh quên tiếng hót, đứng sững sờ mà rưng rưng nước mắt. Con chim oanh ấy là bé Thi chứ ai! Cô bé có đôi mắt đen láy hạt huyền buồn hơn cả nỗi buồn, có tiếng hát làm xanh lại cả ngọn lá trên cành sắp úa..

    - Anh Lãng thổi sao hay quá...

    Lãng thấy lổng ngực mình râm ran sau câu nói ấy của cô bé xinh đẹp. Bởi xưa nay chưa ai mở miệng khen nó lấy một tiếng. Lãng gác cây sáo lên chạc cây nhỏ cạnh đấy, nhìn chằm chằm vào mặt con bé Thi. Mặt hắn co rúm lại, đôi lông mày díu về phía thái dương, đôi môi mỏng và khô bỗng cất lên những tiếng sằng sặc... sặc sạc... Nó cười đấy. Nó cười mà khổ sở chưa! Cười cứ như người ta khóc. Mỗi lần vui quá hay buồn quá hắn đều không nói được gì, chỉ biết sằng sặc... sằng sặc...

    Hai đứa trẻ ngồi bên nhau trò chuyện và hát hò đến lúc chiều tà. Khi tiếng mõ trên cổ những chú bò màu vàng cháy trên thảo nguyên đã lọc cọc, lọc cọc vọng lên uể oải là chúng rời mỏm đá để lùa bò về. Những chú bò ăn no kễnh bụng thong thả tìm chuồng. Đôi trẻ chỉ đi phía sau và trò chuyện. Cho đến đầu làng, đàn bò từ từ tách ra hai ngả là chúng chào nhau và hẹn ngày mai, lại ở mỏm đá trong khe núi Lượn...

    Ngày qua ngày như thế. Đối với bọn trẻ chăn bò thuê thì ngày sau chẳng khác ngày trước là mấy. Sáng lùa bò đi với một cà-mèn cơm, một gói muối đậu; chiều cho bò về chuồng nghỉ ngơi. Nhưng với Lãng “còi” thì khác. Mỗi ngày nó nghĩ ra một điệu sáo mới để thổi tặng cô bé Thi. Bởi mỗi ngày, trong đôi mắt trẻ thơ của nó, Thi đều có một vẻ gì mới lạ. Càng lớn, cô bé càng xinh. Càng xinh, cô bé hát càng hay. Điều ấy may lắm thay, chỉ có Lãng mới nhận ra. Nó tin vào đôi mắt của mình...

    Những hôm Thi bị bệnh không đi chăn bò được, tiếng sáo của Lãng cất lên hiu hắt chơi vơi, theo từng ngọn gió bay qua những rẫy nương khiến người đang làm cật lực chợt bải hoải chân tay. Lão Hào mới mất vợ được dăm hôm, nghe tiếng sáo ấy, bỗng đứng như trời trồng, mắt giàn giụa nước - lão buồn một nỗi buồn không sao lý giải được. Lão đấm ngực tự trách mình ngày xưa là thằng vũ phu đối với vợ con. Lão nhận ra mình cô đơn...

    Một nỗi cô đơn ghê gớm nhất trong đời. Lão khóc không thành tiếng. Lão khóc hồn nhiên như đứa trẻ thơ... Chỉ tại tiếng sáo ấy buồn quá đỗi... Cách đó chừng bốn mươi chín bước chân trẻ thơ, là hai sào rẫy của vợ chồng anh chị Sơ. Đang chính ngọ, nắng như đổ lửa, nghe tiếng sáo văng vẳng bên khe núi, đôi vợ chồng trẻ bỏ dở bữa cơm. Một nỗi trống vắng thảng thốt dợn lên trong lòng họ, dù khi đó họ ngồi chung một bụi cỏ, ăn chung một mâm cơm. Một nỗi trống vắng mà chính họ cũng không sao hiểu nổi. Họ nhìn nhau và cảm thấy chưa bao giờ người này cần người kia đến vậy. Họ sợ mất nhau. Họ nói không nên lời. Họ nghẹn ngào như thể vừa gặp lại nhau sau một thế kỷ xa cách. Họ đổ vào nhau, quấn chặt nhau như hai con rắn vào mùa ái ân. Cái bụi cây um tùm che bóng mát cho đôi vợ chồng son cứ rung lên, bần bật, bần bật từng hồi rồi mệt nhoài khép lá như xấu hổ. Họ muốn tan vào nhau để chống lại sự rạch ròi giới hạn của Thượng đế. Bởi chừng nào chưa là một, họ còn sợ mất nhau trong cuộc đời này...

    Bọn trẻ chăn bò lại túm tụm trạo vặt:

    - Ê, bà Tơ “mát” gả con bé Thi cho thằng Bám con nhà ông phú Tưởng, tụi mày biết chưa?

    - Rồi, mà tao không tin. Bé Thi nó còn nhỏ. Tụi bây nghĩ xem, nó là đứa chăn bò mướn, còn thằng Bám con nhà giàu nhất làng... Dễ gì.!.

    - Ừ, tao cũng nghĩ thế. Mà nghe nói con bé Thi bị lấy làm lẽ. Bà Tơ “mát”, mẹ nó làm giấy rồi. Này, bà uống rượu mắc nợ nhà phú Tưởng nhiều quá nên phải bán gả con gái cho người ta khất nợ đấy.

    - Gớm thật. Mẹ gì mà ác thế. Con bé Thi cũng mười ba rồi, ít ỏi gì... Mà thôi, thà nó lấy thằng Bám chứ gặp anh Lãng “còi” bọn mình thì... Tằng...tắng... tăng... tằng... tắng... tăng... đi hát xẩm thôi...

    - Ha... ha... ha...

    - Ê, mà tụi bay coi dạo này thằng Lãng hay thổi sáo lắm. Nghe tiếng sáo của nó, ai cũng bảo là tiếng sáo ma, không ai dám qua khe Lượn vào giữa ngọ đâu...

    - Ừ, chắc nó buồn. Mà anh chàng ngày càng còi cọc...

    - Tại nó thổi sáo quá đấy thôi. Bố tao bảo ai thổi sáo nhiều, mất sức, chết sớm...

    - Ừ, ngày nhỏ bà ngoại tao kể chuyện Trương Chi ấy. Tao thấy thằng Lãng “còi” ở mình giống Trương Chi, tụi mày ạ! Chỉ có điều nó thì đi chăn bò còn Trương Chi thì không...

    Đầu mùa mưa. Con suối trong veo bỗng chuyển sang màu nước lừ lừ đục. Nước từ đầu nguồn băng băng chảy về buông tuồng như bầy ngựa bất kham sau những buổi chiều mưa mịt mù vách núi. Con suối Môn đang thốc tháo lao đi vô hồi thì bỗng gặp dãy núi án ngữ liền tức tốc uốn mình ngoặt sang hướng khác tìm về sông, nhờ sông đưa ra biển.

    ... Xa trong hút mắt, thằng Lãng “còi” cố tìm mà không thấy dòng sông. Nó chỉ thấy con suối như dải lụa bị bỏ quên ngoằn ngoèo ánh lên dưới nắng, giữa núi đồi hoang vu. Sông ở đâu?... Không thấy sông thì biết đâu là biển...

    - Anh Lãng ơi, khi nào anh dẫn em lên đỉnh núi nghe...

    - Để làm gì?

    - Mẹ em nói lên đó thì nhìn được xa lắm. Ngày trước, mẹ thường đứng ở đó để đợi ba. Nhưng ba em không về. Mẹ bảo thấy ba ở đường chân trời màu tím phía biển xa. Mẹ còn thấy bao nhiêu thứ ở làng mình... Thấy nhà cửa, rẫy nương... thích ghê...

    - Thế hả ? Anh cũng thích lên đó để thổi sáo cho tất cả mọi người đều nghe. Ai cũng được nghe cả...

    - Nếu được lên đó, em sẽ hát bài hát mới nghĩ ra hồi đêm. Bài hát em chỉ hát cho anh Lãng nghe thôi nhé.

    Tiếng hát em bay cao lên triền núi

    Tiếng hát em trong veo như dòng suối

    Điệu sáo anh buồn hơn nỗi buồn

    Điệu sáo anh buồn cho em thương

    Ơ... nỗi buồn...

    Ơ... niềm thương...

    Em làm sao bắt được nỗi buồn

    Nỗi buồn rong chơi...

    Nỗi buồn một mình...

    Niềm thương góc biển chân trời

    Niềm thương bay qua ngọn núi

    Nỗi buồn xa xôi xa xôi...

    Lãng cười sằng sặc,., sằng sặc... Mặt nó đỏ gay khi nhận ra mình thèm một điều gì đó rất đỗi hồn nhiên, ngọt ngào ở Thi. Lãng muốn uống cho say những lời hát trong treo ấy. Thi thẹn thùng cúi xuống vân vê đôi vạt áo... Và cái vồng ngực kia đã mây mẩy đôi khuôn tròn... Lãng khẽ xích lại gần bạn hơn... Nó chợt thấy mình đã lớn khi chạm vào đôi tay run rẩy của Thi... Có một luồng điện lạ lùng chạy trên đôi bàn tay ngại ngần rồi lan ra... lan ra... khắp người Lãng...

    Cái cảm giác ấy giờ đây lại tìm về với Lãng khi một mình đứng trên ngọn núi u u gió. Lãng nhớ Thi. Nỗi nhớ da diết khiến Lãng đau đớn. Mỗi lần đau buồn, Lãng lại lấy cây sáo trúc để giãi bày nỗi niềm với hư không, với nhật nguyệt... Lãng thổi... thổi miết... Nhưng dù lấy hơi đến nút cả lồng ngực thì cây sáo vẫn lặng im vô hồn, không cất lên nổi một tiếng. Gió mây thì cứ vần vũ, vu vu giữa không gian trống hoang, xám xịt... Lãng thổi... và thổi... nhưng cây sáo đã phụ Lãng. Lãng tức giận lấy hết sức ném nó lên vòm trời có những đám mây đen ngòm đang đuổi nhau vội vã. Bỗng, một tia sét xé trời kéo theo một tiêng nổ rung động cả mặt đất. Lãng cảm thấy người mình nhẹ dần... nhẹ dần... bay lên... bay lên... Lãng nhận ra mình hóa thành một luồng sáng giữa vô số luồng sáng hun hút trong không gian ngập tràn tiếng sáo trong veo và tiếng hát líu lo... Không còn buồn như nỗi buồn..

    Hôm ấy, ở làng Phù có một điềm lạ. Trong đám rước vợ lẽ của Bám, con trai trọc phú Tưởng, đã xảy ra sự cố. Trời đất bỗng xám xịt. Những tảng mây to bằng ba bốn ngôi nhà nặng nề kéo về phong kín cả vầng mặt trời đang chói chang. Gió giật ầm ào. Gió khan. Không mưa. Chỉ có một tia sét rạch trời đánh vào giữa đám đông hơn chục người đang xúm xít khăn áo, mâm quả... Không ai bị xây xát. Chỉ có cô dâu mười ba tuổi thì hoảng sợ, rủ xuống như một chiếc lá úa… Và mãi mãi không còn có thể trở dậy được nữa...

    Đúng canh ba, thi thể cô dâu đen quắt như khối than vô hồn...

    Than ôi, sắc không là sắc
    Sắc không là cái chi chi
    Sắc sắc sắc về không không không...


    Cũng ngày hôm ấy, đủ chín tháng chín ngày (tính từ buổi trưa nghe tiếng sáo buồn), dưới mái nhà tranh lụp xụp của vợ chồng anh Sơ vang lên tiếng trẻ con khóc oe oe... Tiếng khóc liên miên và dồn dập như tiếng gào của gió qua chái hiên. Nghe nói vừa khóc xong, trẻ sơ sinh liền mở đôi mắt tròn xoe, đen láy nhìn mọi người, nhìn cuộc đời với vẻ hồn nhiên mà thâm nghiêm lạ. Toàn thân đứa bé toát mồ hôi ròng ròng, thứ mồ hôi trong như những giọt sương đêm mùa hạ. Nghe chuyện, lão Hào chặc lưỡi: “Chà, phúc đức nhà nó! Thằng bé mới chào đời đã phát tiết tinh anh... Đức lớn cho làng Phù ta rồi...” Nói xong trong đầu óc lão lại thoang thoảng tiếng sáo vi vu như vọng lên từ cõi xa xăm nào đó. Lão bỗng rùng mình... tự dưng thấy ớn lạnh...

    Ở khe núi Lượn, cách làng Phù quê tôi độ bốn dặm đường bộ, đến nay vẫn còn mỏm đá trắng. Nhưng người lớn bảo, qua thời gian, mỏm đá ấy cứ lún dần xuống, chỉ còn lại hai khối gồ trồi trên mặt đất như hai nấm mồ quét vôi bạc. Người ta đặt tên cho ngọn đồi gần đó là đồi Mộ Đá.

    Đà Lạt, 5-2001
     
    tducchau, amylee, vuivui2013 and 3 others like this.
  6. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    Ủ MÌNH TRONG CÁT

    Truyện ngắn của Lương Minh Hinh


    Chử Đồng Tử mình trần chỉ có miếng vải bằng bàn tay che dưới bụng ra cánh bãi. Đang mùa xuân, rau màu xanh tốt chẳng cần vun xới, nhà nông ra đông trông trời, trông đất, trông cây...

    Ngoài bãi sông có vuông cát Chử để trống. Thỉnh thoảng chàng ra vùi mình. Hôm nay, chàng tới đó vừa lúc con rùa vàng to bằng cái sàng ở sông lên. Loài vật có tiếng chậm chạp cho Chử thấy nhỡn tiền nó vùi mình điệu nghệ. Rùa khua chân cát cuồn cuộn thoáng chớp rùa biến mất để lại mặt cát phẳng trang. Một quầng sáng hồng hồng tía tía bốc lên. Chử toan bước tới xem thì rùa chui lên bò xuống nước. Ôi, rùa vàng ủ mình! Lên nữa nhé! Chử ngắm dòng sông đang trôi chảy như một dải lụa đào. Mắt Chử sáng lên khi thấy lão Câu thả thuyền giữa dòng. Lão trở thành bạn vong niên của chàng đã mấy mùa cá mòi rồi. Lần gặp gỡ đầu tiên với lão thật bất ngờ. Chử từ cát chui lên thấy lão ngồi bên bếp than hồng rừng rực; xếp đầy những con cá mòi bọc lá bưởi bung. Mỡ cá nhỏ giọt thơm ngầy ngậy. Lão lên tiếng:

    - Này cậu ngồi lại đây. Cá của sông. Sông chúng ta đều làm chủ.

    Lão làm chủ suốt dòng sông từ thuợng nguồn ra bể. Lão bồng bềnh thuyền câu biết buông cần ở những nơi có nhiều cá nhất. Chỉ lão mới biết hết cá tôm dòng sông Cái này; chỉ lão mới thưởng thức hết sự tuyệt khẩu đặc sản suốt dòng sông mẹ của đất nước. Món môi cá thiểu ở thượng nguồn. Món riêu, món gỏi những đầu trôi lườn mè ở trung du. Thăn trắm đen kho thịt ba chỉ ăn với bánh chưng ngày tết. Miếng cá mòi nươm mỡ, đầu mùa nước xiết con mòi về lượn lờ cửa sông gặp bể. Lão thuộc sông núi đất nước như thuộc lòng bàn tay. Quê Chử - vùng giang khúc tả ngạn hạ lưu này lão rành từ bãi sông ngồn ngộn phù sa đến nội đồng đầm lầy ngút ngàn lau sậy quạnh vắng. Lão biết cha con Chử nghèo đến nước chỉ có chung một cái quần dài... Lão hơn tuổi cha Chử nhung kết bạn với Chử thân thiết. Chử say tài nghệ tôm cá của lão nhưng lão bảo chuyện của Chử mới là chuyện, ra chuyện!

    Mẹ Chử mang bầu tháng thứ bảy vẫn lam làm. Cuối mùa lũ, nước ngoài cánh bãi còn ngang lưng bà đã vội rã lo tính vụ màu. Gặp kỳ cá hội. Cá trong đầm ra, cá dưới sông lên chen vây đua bơi. Nước tung trắng bãi. Sóng rùng rùng chao đảo cánh bãi. Cá xô bà ngã. Cá vờn vật tung hứng như thể bà cùng hội với chúng. Bà đẻ rơi. Bà vội bế con lên khỏi mặt nước. Tiếng trẻ khóc vang làm cá sững lại, lặng lẽ kéo nhau xuống sông. Nghe Chử kể đến đây, lão Câu đánh tay nói:

    - Cá hội giục người chào đời sớm đúng tháng tốt. Quí nhân! Quí nhân!

    Lão Câu kéo thuyền úp trên cát, xem Chử tra hạt giống. Tùy từng loại hạt chàng gieo dầy, thưa, nông, sâu. Chàng đặt từng hạt ngô để ngô ra bắp ở phía rãnh cho dễ bẻ. Chàng xuống giống cho thân lạc bò một hướng, ra củ một chiều khi thu hoạch vừa thuận tay nhổ vừa không đứt mất củ. Lão Câu thấy chàng tra hạt giống chắp tay vái Trời, vái Thổ Thần... Chử học mẹ tra hạt từ ngày nhỏ xíu. Mẹ địu Chử ra đồng màu. Ngày đó Chử chỉ được nhìn, sờ vào hạt mẹ không cho. Mẹ bảo chờ lớn đã. Không cho thì lấy mình làm hạt giống vùi xuống cát. Giờ đã trưởng thành Chử ủ mình trong cát xem hạt giống nằm trong cát thế nào? Mưa thấm, nắng truyền mát mẻ nóng lạnh. Con nước lên cát sa như giãn nở ra. Nước rút cát ép nén lại. Lão Câu nghe Chử nói cúi đầu nhìn cát, ngẩng đầu nhìn trời cao. Lão nói:

    - Chử làm hạt giống. Mùa... Gieo nên mùa phú lộc!

    Mỗi lần qua đây mỗi lần lão ghé thăm Chử. Lần này Chử sẽ cho lão xem chỗ rùa ủ mình. Nhưng lão cho thuyền xuôi. Chử bới cát tính vùi mình. À, lần này vùi mình đứng thẳng xem sao? Chử vừa bới được hố cát nông choèn thì thấy trống dong cờ mở xuôi tới. Cảnh kia là thuyền công thuyền quan rồi! Chử vùi mình chờ thuyền qua. Một lát nghe tiếng thuyền cặp bến, tiếng bước chân, tiếng hối quây màn tắm. Chàng tự trách mình chạy vào ruộng ngô không chạy lại nằm ở đây. Chàng thu mình lại khi nước dội ào ào cát quanh mình giãn ra. Có bàn chân nho nhỏ dẫm lên nguời chàng. Sạn cát li ti xiết vào da thịt. Rồi những ngón tay bới cát trên người chàng ngập ngừng. Chử Đồng Tử đành phải ngồi dậy. Thấy giai nhân lồ lộ, chàng nhắm tịt mắt lại. Nàng gọi:

    - Chàng ơi, mở mắt ra!

    Chàng nói:

    - Tự nhiên đến quây màn chỗ đất người ta trồng trọt.

    Nàng nói:

    - Đất nhà chàng cũng là lãnh thổ cha thiếp cai quản. Chàng ơi! Thiếp là công chúa Tiên Dung. Còn chàng tên là gì?

    Chàng đáp:

    - Hạ thần là Chử Đồng Tử!

    Nàng dội nước lên mái tóc rễ tre đầy cát của chàng:

    - Chàng ơi! Chúng mình thấy nhau rồi!

    Chàng run giọng:

    - Thưa công chúa, thần chỉ là kẻ cày cuốc nơi thôn dã!

    Nàng khẽ nghiêng cần cổ kiêu sa.

    - Người là đàn ông! Trước nay thiếp không chịu xuất giá tòng phu. Phụ vương bắt thiếp cấm cung. May nhờ có viên bộ tướng xin cho, lại thường tháp tùng để tang bồng hồ hải. Lần này thiếp tính du miền sơn cước. Bộ tướng đánh tay bảo xuôi sông Cái. Giang khúc quê chàng đang mùa xuân hữu tình! Lạy Trời! Chúng mình... duyên tiền định!

    Nàng nhìn đăm đắm vào lồng ngực vạm vỡ của chàng. Bỗng tiếng nhạc nổi lên tưng bừng. Đoàn thuyền dưới sông xếp hàng tiến vào vuông cát. Chử Đồng Tử sững người thấy viên quan trước mũi thuyền. Lão Câu!... Lão... lão áo mão triều phục. Gương mặt hiền từ mọi khi giờ kính cẩn oai phong. Chàng vội vơ xiêm y của Tiên Dung. Một cơn gió lớn nổi lên cuốn phăng cái màn bay dọc luống khoai lang. Trong cái hố nông choèn.Tiên Dung và Chử Đồng Tử bối rối nép sát vào nhau.

    Cần Thơ, 18.7.2000
     
  7. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TRỜI CÓ NÓI GÌ ĐÂU

    Truyện ngắn Vũ Lưu Xuân


    Gã thư sinh trầm ngâm :

    - Thưa thầy, có một chuyện quái lạ, con xin trình thầy. Trên đường vào kinh thi Hội, nhân ngày tháng còn dài, con ghé qua cửa biển Thần Phù dạo chơi.

    ***

    Trời vào hạ cao và trong vắt. Một vài vẩn mây, trắng mỏng lang thang theo chiều gió lộng, hình như gió lộng khắp bốn trời.

    Gã trẻ tuổi ngồi trên ghềnh đá, chiếc bóng nhỏ nhoi đơn độc, nhạt nhòa chìm trong khoảng trời, biển gặp nhau. Dáng trầm mặc, gã ngồi bất động giữa làn bụi nước mịt mù, mắt dõi theo cánh diều no gió, điểm trên bầu trời từng chấm xanh đỏ li ti, thỉnh thoảng gã lại lười biếng nhấm nháp từng ngụm rượu nhỏ.

    - Này chàng tuổi trẻ, ngươi ngắm gì mà ngẩn ngơ đến thế?

    Tiếng nói làm gã giật mình. Trước mắt gã xuất hiện một ông lão tóc râu đều bạc.

    Thư sinh cười, giọng hồn nhiên :

    - Tôi ngắm mấy cánh diều.

    - Cánh diều nho nhỏ đủ khiến ngươi say sưa đến xuất thần thế ư?

    - Cụ có biết thả diều không? Thích lắm đó. Tôi chợt nghĩ tới những cuộn dây thật mảnh, vậy mà không có nó con diều không thể cất cánh bốc lên. Tuy nhiên, chính sợi dây mỏng manh lại ràng buộc, khiến nó không thể bay bổng tuyệt vời. Con diều bị giằng co giữa trời và đất.

    - Té ra ngươi bận tâm về mấy sợi dây.

    - Đó đó, cụ xem kìa, con diều cao nhất đứt dây rồi, nó lảo đảo vài vòng rồi chúc đầu lộn xuống.

    - À! Ta hiểu, chắc ngươi nghĩ tới những sợi dây ràng buộc giữa đời thường.

    - Đúng vậy, tuy nó mỏng manh thật đấy, nhưng lại rất chắc và rất êm ái.

    Gã ngưng ngang, chợt cười thầm và thấy lòng ấm áp. Gã uống cạn một chung rượu, rồi nhỏ nhẹ:

    - Vùng này hoang vắng, không ngờ lại có gót hạc vân du.

    - Gót hạc quái gì, nói ra xấu hổ. Mũi ta rất thính, có thể đánh hơi thấy mùi rượu trong vòng một dặm, còn đôi chân hư hỏng, cứ theo hướng rượu mà lân la. Chà! Rượu thơm, rượu thơm thật!

    Gã cười hào sảng :

    - Không có gì buồn bằng độc ẩm, xin kính cụ một chung.

    - Khéo mời. Nhưng ngươi thử đoán xem ta là ai trước đã.

    Gã nghiêng đầu, nheo mắt:

    - Áo thụng xanh, râu dài chấm ngực... vẫn chưa có gì đặc biệt khác người. Tay phải cầm cuốn sổ lớn, tay trái cầm bó chỉ hồng. Gã cười tít. Biết rồi, cụ chính là Nguyệt hạ lão nhân.

    - Quả là mắt sáng. Ngươi xem, sổ này ghi rõ tình duyên trăm họ, còn chỉ này buộc chân các cặp vợ chồng ở thế gian. Ha ha, ta đã buộc, đố ai chạy thoát.

    Gã vỗ nhẹ vào hồ rượu làm bằng quả bầu khô.

    - Giờ tới phiên tôi. Đố cụ biết đây là loại rượu gì?

    - Trên trời có ngọc lộ, quỳnh tương. Dưới đất có trạng nguyên hồng, nữ nhi hồng, trúc diệp thanh... Ta may mắn đã có duyên nếm thử. Còn rượu của ngươi?

    - Rượu của tôi cất bằng thứ nếp đầu mùa. Chất rượu đã gắt, lại nhắm với trái mơ xanh chát chát, chua chua. Cụ có muốn nếm thử không?

    Ông lão mắt sáng lên, cười hề hề không đáp. Gã rót đầy một chung.

    - Kính cụ.

    - Kính với cẩn quái gì. Trong lúc túy lúy càn khôn, tửu đồ chỉ có bằng hữu, không có trên dưới.

    Ông lão uống cạn rồi nhai rau ráu một quả mơ.

    - Chà! Chất cay xông mờ mắt. Uống rồi dư vị vẫn còn nóng cháy cổ họng. Rượu của ngươi quả là vừa cay, vừa nồng.

    Gã chặc lưỡi:

    - Phải uống thứ rượu này mới cảm nhận được hết nỗi đắng cay của cuộc đời sớm nắng, chiều mưa.

    Ông lão cười bẽn lẽn :

    - Ta xin chung nữa.

    - Xá gì một chung. Bình rượu này có thể chia nhau tới giọt cuối cùng.

    - Hào sảng, thật là hào sảng!

    Gã nhặt hai hòn đá cuội gõ nhịp, rồi cất tiếng ngâm hai câu thơ của Lý Trích Tiên.

    “Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,

    Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh”.

    Cả người như tan loãng trong cơn túy tửu, cuồng ngâm.

    Ông lão chợt nghiêm mặt:

    - Ta có một nguyên tắc: nhận của ai vật gì, tất phải đáp tạ gấp đôi.

    - Ha ha, thế ư? Để xem cụ đáp tạ thế nào cho xứng?

    Ông lão ngần ngừ rồi thở dài:

    - Này nhé, ta sẽ vì ngươi tiết lộ thiên cơ, cho ngươi xem sổ để biết trước mối duyên tiền định.

    Gã xua tay lia lịa.

    - Đa tạ, thịnh tình của cụ tôi không dám lãnh nhận.

    - Sao vậy? Bá tánh muôn người cầu ta còn chẳng được.

    - Tôi cũng có một nguyên tắc: chỉ đi con đường mình đã vạch ra. Như thế cần quái gì biết tới những điều đã ghi trong sổ của cụ.

    Ông lão nhăn mặt:

    - Vậy là ngươi làm khó ta rồi.

    - Thôi được, để khỏi áy náy, cụ cứ đọc thử xem.

    Ông lão ngồi xếp bằng, trang trọng giở từng trang giấy.

    - Đây rồi, đây rồi “Vũ Thế Lương, tự là Nhược Hư, người huyện Nghi Xuân, sinh năm thứ ba đời Cảnh Hưng, nổi tiếng là “Lê triều tài tử”. Năm hai mươi ba tuổi đậu đầu ba khoa, kết duyên cùng tiểu thư Lưu Thể Hượng, con gái vị thượng thư bộ Học. Nàng vốn là bậc khuê trung tài nữ, và cũng là đệ nhất giai nhân ở chốn kinh thành”. Chúc mừng ngươi, quả là mối lương duyên hiếm có.

    Gã vỗ tay cười ngất:

    - Sai rồi, sai đứt đi rồi. Này nhé: “Vũ Thế Lương, tự là Nhược Hư, lấy chữ trong sách Đạo đức kinh của Lão Tử “Lương cổ thâm tàng nhược hư” (người lái buôn giỏi giấu kín như chẳng có gì). Năm hai mươi ba tuổi đỗ đầu ba khoa. Khinh thường phú quý, họ Vũ đã khẳng khái dứt bỏ cuộc hôn nhân với Lưu tiểu thư, con gái thượng thư bộ Học, để kết duyên với cô gái quê Trần Băng Ngọc làm nghề dệt lụa, con gái một ông đồ nghèo”.

    Gã xòe bàn tay:

    - Đây này, cụ xem đi, sổ của tôi ghi rõ rành rành, không tẩy, không xóa. Cụ ơi! Sách của cụ đốt quách đi là vừa.

    Ồng lão trừng mắt:

    - Tuổi trẻ ngông nghênh. Tình duyên trăm họ, đều do trời định sẵn, ngươi dám cưỡng lại sao?

    - Cưỡng với chả không cưỡng. Cụ có dám đánh cuộc với tôi không?

    - Được, đúng ba năm sau, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở chính chỗ này. Nếu thua, ta đãi ngươi một vò quỳnh tương, còn ngươi thua, phải đãi ta một hồ rượu nếp.

    Gã cười hì hì, giơ tay kích chưởng lập thệ...

    ***

    - Thưa thầy, là thực hay là mộng? Chỉ biết sau khi tỉnh dậy, trăng lưỡi liềm đã lên tới đỉnh trời, còn con vẫn nằm khoèo trên ghềnh đá, bên cạnh là bầu rượu đã cạn tới giọt cuối cùng. Còn Nguyệt hạ lão nhân? Là mộng hay là thực?

    Ông đồ già thở dài:

    - Ý trời.

    Ông ngập ngừng:

    - Vậy sao con lại về đây?

    - Thưa thầy, ý trời không nặng bằng tình người.

    Lại thêm một chuyện này, cũng lạ lùng không kém. Trong lúc ở nhà trọ chờ bảng, một buổi tối con gái ông chủ quán về thăm nhà. Cô vốn là thị nữ thân tín của tiểu thư họ Lưu. Theo lời cô ta, tiểu thư Thể Hương nửa đêm nằm mộng thấy Nguyệt hạ lão nhân, ông lão báo trước nàng sẽ kết hôn với tân khoa trạng nguyên Vũ Thế Hưng. Mối lương duyên ấy do nhà vua đích thân đứng ra tác hợp. Mới đầu con còn bán tín bán nghi, về sau sự việc cứ tuần tự xảy ra: con đỗ Hội nguyên rồi Đình nguyên. Tới ngày nhận mũ áo, thượng thư bộ Lễ lại lấp lửng tặng cho một tờ hoa tiên, vỏn vẹn bốn chữ: “song hỷ lâm môn” kèm thèo nụ cười tinh quái. Đồng thời cứ theo lời đồn của dân kẻ chợ, nhà vua đã ra khẩu dụ, chờ ngày đãi yến sẽ chính thức tác hôn.

    Ông đồ lại thở dài:

    - Mệnh vua! Vũ nhi, “mệnh vua, ý trời”. Trong khoảng cao xanh lồng lộng, con còn trốn tránh đươc sao?

    - Thưa thầy, bậc quân vương giả “ý trời” để khống chế muôn dân, còn trăm họ lại mượn “ý trời” để bào chữa cho những hành vi bội bạc, hoăc tự an ủi mỗi khi thất cơ lỡ bước. Thực ra “trời có nói gì đâu” (Thiên hà ngôn tai - Khổng tử).

    - Vũ nhi, ta nghe đồn triều đình đã cho niêm yết lệnh truy lùng, sao con về được đây?

    - Thưa thầy, trước ngày vào nhà thái miếu lễ tạ, con thấy chỉ còn một cảnh xa chạy, cao bay. Khi ra tới ngoài thành Tây, gặp xác một nạn nhận bị bọn sơn tặc giết hại, con liền thay đổi mũ áo, bỏ lại mấy vật dụng để làm kế ve sầu thoát xác.

    Ông đồ nhìn thư sinh bằng cập mắt lờ đờ:

    - Con ở với ta đã bao nhiêu năm rồi?

    - Thưa thầy năm nay con hai mươi ba, tức là thầy nhận con từ giữa chợ về nuôi đã trọn hai chục năm rồi.

    - Hai mươi năm kết thành mối tình thanh mai trúc mã, thế mới biết “mệnh vua, ý trời” vẫn không thể sánh bằng “tình người”.

    Giọng gã họ Vũ rất trang nghiêm :

    - Thưa thầy! Con về đây từ biệt thầy và Băng Ngọc lần cuối. Tội khi quân chỉ có một con đường chết, con không thể làm liên lụy người thân. Tiếc thay, mọi người chỉ có một mạng sống, rất bèo bọt, phù du, nên con càng quyết tâm giành quyền tự định đoạt vận mệnh của mình.

    Băng Ngọc đứng cạnh lúc này mới lên tiếng :

    - Thưa cha! Anh Vũ đã vì con dứt bỏ tiền đồ, con há không thể vì anh chấp nhận một cuộc phiêu lưu.

    Ông đồ ngước mắt nhìn lên trần nhà:

    - Vũ nhi, hành động của người quân tử chỉ cần thuận đạo, không thể đem lợi, hại mà so đo. Cả ba chúng ta sẽ về quê ngoại Băng Ngọc làm lại từ đầu.

    Gã họ Vũ thấy đôi mắt cay cay...

    ***

    Ở vùng đất tân canh có gia đình một già hai trẻ vừa dọn đến. Vùng này vốn là một bãi đất bồi, dân chúng quai đê trồng cói. Tuy cật lực mưu sinh mà vẫn bữa đói, bữa no. Người vợ trẻ đem đến cho dân làng nghề dệt lụa, cuộc sống cũng nhẹ thở đôi phần. Còn người chồng viết trướng miễn phí ở đầu thôn, giúp bọn trẻ ăn mày được đôi ba chữ thánh hiền. Chưa đầy một năm, trong mái lá vang lên tiếng khóc trẻ thơ, đó là một đứa bé trai, đứa bé lớn lên trong sự yêu thương, đùm bọc của xóm làng. Ngày đứa bé vừa đầy tuổi, đôi vợ chồng trẻ bày vòng bách nghệ thử con. Dưới trời trăng sao vằng vặc, chiếc mâm đồng lớn được đặt ở giữa sân, trên bày la liệt đủ trăm món, vừa vật dụng, vừa đồ chơi, chính giữa là một cây nến đỏ. Trong khi người mẹ trẻ đốt hương lầm rầm khấn vái, đứa bé chập chững toét miệng cười. Cặp mắt đen hau háu nhìn hết vật nọ, vật kia. Nó mon men vòng vòng quanh mâm, rồi đôi tay mũm mĩm quơ vội hai món: một quả cầu mây, một con ngựa đất. Người mẹ trẻ mắt chợt tối sầm, trái lại người cha hớn hở, vỗ tay cả cười:

    - Con ngoan, con ngoan, đúng là con khôn hơn bố.

    - Như vậy mà anh còn mừng được sao?

    - Cớ sao lại chẳng mừng? Cưỡi ngựa, đá cầu. Rong ruổi giữa cuộc đời, như trong một cuộc chơi. Như vậy há chẳng hơn lúc nào cũng cẩn cẩn thủ lễ, ra dáng một môn sinh thiên tử.

    Năm đứa bé gần hai tuổi, nhân tết đến, người chồng vác chõng lên chợ huyện viết câu đối, vẽ tranh. Khách khứa lưa thưa, chỉ có dăm ba phụ lão ghé mắt xem qua.

    - Quả thật giữa đời ô trọc rất hiếm kẻ mắt xanh. Đó là tiếng nói của một văn sĩ trung niên.

    - Vũ huynh không nhớ đệ sao?

    Gã họ Vũ ngước lên, chợt bàng hoàng.

    - Xin thứ cho tôi mắt kém.

    - Mắt kém hay không thèm nhận lại người xưa?

    Gã họ Vũ cau mặt:

    - Tôn ông chắc nhận lầm người.

    - Người thì có thể lầm, còn bút pháp lan đình tuyệt thế, đệ tuy chữ nghĩa chẳng bằng ai, nhưng lầm lẫn sao được. Huynh chắc chưa quên người bạn ba năm trước, đã cùng chung nhà trọ trong khoa thi Hội.

    Họ Vũ cười gượng:

    - Huynh ông thứ lỗi đệ có nỗi khổ tâm.

    - Nỗi khổ tâm ư? Việc huynh dứt áo bỏ đi, sớm đã trở thành một giai thoại ở chốn kinh thành.

    Văn sĩ trung niên nhanh nhảu tiếp :

    - Cùng khoác áo sĩ tử múa bút trường văn, không ngờ lại có duyên gặp nhau ở chốn cùng trời cuối đất. Huynh ông, tửu điếm kề bên, chúng ta đừng để lỡ cơ may hội ngộ.

    Cả hai dắt nhau bước vào quán rượu.

    - Huynh ông đừng ngại, từ lúc hay tin huynh ông bị thảm sát ở ngoài thành Tây, triều đình đã bãi bỏ việc truy lùng. À! Té ra là kế ve sầu thoát xác cao minh.

    - Trong cuộc sống phức tạp, mỗi người đều có một cảnh ngộ riêng, không thể lấy những qui tắc chung mà phán xét. Huynh ông đừng trách đệ quanh quẩn biện minh.

    Văn sĩ trung niên lảng sang chuyện khác.

    - Huynh ông cao ẩn nơi đâu, cho phép đệ đến vấn an lệnh nghiêm đường.

    - Song thân chẳng may vắn số, còn nhà đệ ở xóm chài hẻo lánh, huynh ông có đi mỏi cẳng cũng chẳng tìm ra. Xin chớ bận tâm.

    Câu chuyện nhạt nhẽo, vô vị. Ăn uống qua loa, gã họ Vũ chắp tay cáo biệt...

    ***

    Tết qua mới được ít bữa vừa tới ngày hạ cây nêu, trong lúc ông đồ đang lúi húi thắp hương trên bàn thờ tổ, ngoài ngõ đã rầm rập tiếng bước chân. Viên tri huyện đi đầu, dẫn theo bọn sai nha xô cổng bước vào. Huyện quan lại chính là văn sĩ trung niên hôm trước.

    - Té ra đây là chốn cao ẩn của Vũ huynh, xin thứ cho tội đường đột.

    Gã họ Vũ miễn cưỡng mời khách vào nhà. Khách xua tay:

    - Bất tất. À quên, hôm gặp nhau ở phố chợ, có một điều đệ chưa thưa rõ để huynh mừng. Ba năm trước trong khoa thi Hội, huynh oanh liệt chiếm ngôi đầu bảng, còn đệ, nhờ hoàng thượng tứ ân, tên cũng may được nêu trên bảng chính. Hiện nay triều đình đoái công, đã ban cho đệ một chức huyện quan nho nhỏ.

    Gã họ Vũ mỉa mai:

    - Xin chúc mừng, tiền trình của huynh ông chắc hẳn còn vô hạn.

    - Tiền trình của bọn đệ còn tùy thuộc vào công khuyển mã. Ha ha, nếu huynh ông chịu khuất thân bay nhảy chốn quyền môn, đệ chỉ xin làm một tên thư lại mài mực dưới án. Nhưng cảnh đời éo le, biến hóa thật khôn lường.

    Viên huyện quan khoái chí cười ngặt nghẽo.

    - Huynh ông biết không? Lúc gặp huynh ở phiên chợ huyện, chính là lúc đệ đi thị sát dân tình trước ngày đáo nhậm. Lời đồn đây là vùng “chó ăn đá, gà ăn muối” quả thật không ngoa. Này huynh ông, tuy đệ chẳng có chí lớn của chim hồng, chim hộc, nhưng cũng không cam tâm vùi mình ở cái huyện lỵ cỏn con này. Đệ đành đắc tội, phiền huynh ông theo đệ về kinh một chuyến, gọi là thể hiện cái đức “thành nhân chi mỹ”.

    Câu nói chấm dứt bằng một chuỗi cười bỡn cợt. Nét mặt vẫn thản nhiên, gã họ Vũ ôn tồn:

    - Đệ chuẩn bị đón ngày này đã lâu, huynh ông đừng ngại, chỉ xin huynh ông chốc lát, để đệ dặn dò nội tử việc nhà.

    - Dù sao chút tình vẫn không thể quên, huynh ông cứ tự nhiên, nhưng cũng đừng trùng trình thái quá.

    Đứa bé như linh cảm được việc chẳng lành, ré khóc không thôi, còn người vợ trẻ níu chặt tay chồng, đầm đìa nước mắt.

    Trước khi quay lưng, gã còn ngoái lại.

    - Em hãy dạy cho con khi nó lớn lên: “Giá trị cuộc sống là biết trỗi dậy từ giữa nỗi đau”.

    Gã ngửa mặt nhìn trời.

    - Mọi việc đã qua là sai hay đúng, dù sao đây cũng là kết quả của sự tự do lựa chọn.

    Gã nhìn vợ con lần cuối rồi lặng lẽ theo bọn sai nha. Phía sau lưng có những đôi mắt chưa hết bàng hoàng, những đôi mắt ngậm ngùi, cam phận.

    ***

    Cửa biển Thần Phù trời chớm vào hạ, gió cát mịt mù. Bọn sai nha dẫn giải tội phạm vào rừng nghỉ chân. Tên tội phạm dáng dấp thư sinh yếu ớt, cổ đeo một chiếc gông hầu như quá khổ, vậy mà vẻ mặt gã vẫn thản nhiên, gã dõi mắt ngắm mấy cánh diều lang thang bay bổng. Có tiếng vang lên bên cạnh.

    - Ngươi vẫn còn thú ngắm diều đấy ư?

    Gã giật mình quay lại.

    - À! Té ra là cụ, cụ biết không, trong cuộc đời có những sợi dây ràng quá chặt, đôi khi làm người ta nghẹt thở.

    Gã cười.

    - May quá chúng ta không lỡ cuộc hẹn ba năm.

    - Chính vì cuộc hẹn mà ta đến đấy.

    Giọng gã hóm hỉnh, đôi mắt nheo nheo như cười.

    - Thế rượu của cụ là quỳnh tương hay ngọc lộ?

    Ông lão thở dài:

    - Ta thua rồi, nhưng cái giá ngươi phải trả quá đắt.

    - Mua khoảng trời tự do bằng một kết quả nghiệt ngã, theo cụ là lỗ hay lời?

    - Bây giờ ta mới hiểu hai chữ lời, lỗ không thể dùng để đánh giá một hành động.

    - Rất hay, chọn lựa một hành động chỉ cần thuận lý thuận tình, việc quái gì phải so đo.

    Ông lão mở nút bình rượu quỳnh tương.

    - Đích thực ngươi thắng rồi.

    Không cần dùng chén, ông lão ngửa cổ tu một hơi dài rồi trao sang cho gã. Bọn sai nha trố mắt nhìn một già một trẻ vừa uống rượu vừa nói lăng nhăng. Cách không xa là một đứa bé khoảng tám, chín tuổi. Người nó khô đét, đen đúa, nhưng vẻ mặt rất lanh lợi, mảnh áo rách phong phanh trước ngực. Hai tay chắp sau lưng, nó trố mắt nhìn mọi người. Trước mắt nó hình như một cánh cửa vừa mở ra.

    Bình rượu trao qua, trao lại chẳng mấy chốc đã cạn. Gã ho Vũ vẻ còn thòm thèm.

    - Té ra trên trời cũng có rượu ngon, nhưng vẫn không sánh bằng vị nồng gắt đến cháy cổ của rượu dưới trần. Tôi hiểu rồi, cuộc đời trên ấy duy nhất chỉ có mùi mật ngọt.

    Gã chợt hỏi:

    - Cụ có giấy bút không?

    - Gì chứ mấy thứ lỉnh kỉnh ấy lúc nào ta cũng sẵn.

    Gã trải giấy trên phiến đá phẳng, hà hơi vào nghiên mực, rồi thấm bút thảo một bài hành. Nét bút bay lượn uyển chuyển, đẹp như đóa bạch ngọc mới nở, có lúc lại run rẩy như chồi mặc lạn mùa đông gió cắt da. Ông lão chồm qua vai trầm trồ:

    - Quả là thần bút như danh họa, ý thơ bi tráng mà vẫn không hết vẻ ngông nghênh. Này gã mặt trắng ơi! Người tuy còn trẻ mà hầu như đã nếm trải trọn vẹn ý vị cuộc đời.

    Bài hành thảo xong, gã cười ha hả rồi thản nhiên tung mảnh giấy cho gió cuốn đi.

    Từ đầu đến cuối, đứa bé ngẩn ngơ, nhìn không chớp mắt. Thấy tờ giấy chao lượn, đứa bé co giò phóng chạy, đua với sức gió đuổi theo. Nó chụp hụt vài lần rồi cuối cùng cũng vồ được. Đứa bé xoay ngang xoay dọc bài thơ, giữa rừng bút loạn thảo, nó kịp nhận ra hai chữ “thiên” và “nhân”. Đứa bé khoái chí gấp tư mảnh giấy, rồi trịnh trọng nhét vào ngực áo. Bờ cát trắng mịn hằn rõ vết chân nhỏ nhắn, nhưng bất quá ba lớp sóng tràn, tất cả chỉ còn lại những dấu lờ mờ.

    Gã họ Vũ thoáng rùng mình sau một phút ngẩn ngơ. Gã nhìn cảnh vật trước mắt, gã nhìn đám người trước mắt, gã cắn nhẹ vào cánh tay.

    - Là thực hay là mộng?

    Chưa đầy một thoáng, nét mặt gã chợt lấy lại vẻ phóng túng, gã cười ngạo nghễ, ngửa mặt nhìn trời.

    - Ô hay! Trời có nói gì đâu?

    Cuối năm 1999
     
    tducchau, amylee, meetdak and 2 others like this.
  8. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Cuộc Săn Tìm Hạnh Phúc Của
    STENDHAL

    DUY LỘC
    (Dịch từ “Great novelists and their novels”, NXB Fawcett, New York)
    Có lẽ không ai ngờ rằng nhà văn tài hoa đã “săn tìm hạnh phúc” suốt cả cuộc đời với quan niệm “tình yêu là công việc hệ trọng nhất hay đúng hơn là công việc duy nhất” lại là người có nhiều nỗi bất hạnh trong tình yêu. Somerset Maugham đã phác họa chân dung của người nghệ sĩ đã dành trọn cuộc đời để “săn tìm hạnh phúc” và chỉ tìm thấy khổ đau...
    Stendhal tên thật là Henri Beyle, sinh ngày 23 tháng 1 năm 1783 ở thành phố Grenoble, trong gia đình một luật sư có tên tuổi; mẹ ông là con gái của một bác sĩ, đã qua đời khi ông vừa được 7 tuổi. Năm 1789, cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ và vua Louis 16 cùng với hoàng hậu Marie- Antoinette bị xử tử vào năm 1792. Stendhal đã ghi chép đầy đủ về thời thơ ấu và thời niên thiếu của ông và chúng ta nên đọc những trang sách này để hiểu được vì sao những thiên kiến nảy sinh trong khoảng thời gian này đã tồn tại dai dẳng trong suốt cả cuộc đời ông. Sau cái chết của người mẹ mà Stendhal yêu tha thiết, cha ông cùng với một người em vợ đảm nhận công việc nuôi nấng và dạy dỗ ba anh em ông. Cha ông là một người nghiêm khắc và chu đáo, còn bà dì của ông là một phụ nữ khắt khe và mộ đạo; ông đặc biệt oán ghét hai người này. Stendhal nói rằng thời thơ ấu của ông rất buồn thảm nhưng những trang ghi chép về thời kỳ này lại cho thấy ông chẳng có lý do gì để phàn nàn: ông than phiền rằng ông không được tự do chơi đùa với những đứa trẻ khác; thế nhưng cuộc sống của ông không đơn độc nhưng ông nói bởi lẽ ông còn có hai đứa em gái và nhiều đứa trẻ khác cũng học chung với ông dưới sự hướng dẫn của một linh mục dòng Tên. Thật ra, Stendhal được nuôi nấng và dạy dỗ giống như tất cả những đứa trẻ khác thuộc tầng lớp trung lưu trong xã hội Pháp lúc bấy giờ, nhưng điểm khác biệt giữa Stendhal với những đứa trẻ khác là ở chỗ: những đứa trẻ này đã lớn lên và quên hết những nỗi bất bình của mình hồi nhỏ, còn Stendhal tới năm 53 tuổi vẫn còn nuôi lòng oán giận. Ông oán ghét người thầy của ông là vị linh mục dòng Tên nên ông trở thành một người chống đối tôn giáo mạnh mẽ và cho tới lúc cuối đời, ông vẫn nghĩ rằng tất cả mọi tôn giáo đều đáng nghi ngờ. Cha ông và dì của ông có tư tưởng bảo hoàng nên ông trở thành một người yêu mến chế độ cộng hòa một cách mãnh liệt. Thế nhưng một buổi tối nọ, khi lén đến dự một cuộc họp của những người bình dân, ông cảm thấy thất vọng não nề: ông thấy họ là những người hôi hám, ăn nói thô tục...

    Năm 16 tuổi, Stendhal đến thành phố Paris. Cha ông viết thư gởi gắm cho một người bà con tên là Daru; ông này có 2 người con làm việc ở Bộ quốc phòng: Pierre Daru, người con lớn của ông, nhận Stendhal vào làm thư ký. Vào lúc này Napoleon đang mở chiến dịch thứ hai ở Ý; hai anh em Daru đi theo ông và ít lâu sau Stendhal cũng đi theo họ đến thành phố Milan. Pierre Daru tiến cử Stendhal vào một trung đoàn kỵ binh nhưng cuộc sống ở Milan có quá nhiều điều vui thú nên Stendhal chỉ đến đơn vị một thời gian rồi xin giải ngũ vì lý do sức khỏe. Ông trở về sống ở Paris với một khoản tiền trợ cấp ít ỏi và tìm mọi cách để thực hiện hai mục tiêu lớn của đời ông. Mục tiêu thứ nhất là trở thành nhà soạn kịch lớn nhất của châu Âu. Mục tiêu thứ hai là trở thành một người đàn ông có nhiều tình nhân. Tuy nhiên, trong vấn đề này, tạo hóa không ưu đãi ông lắm: Stendhal là một người thấp bé, có khuôn mặt tròn trĩnh nhưng xấu xí, thân hình ông lực lưỡng nhưng đôi chân lại ngắn và cái đầu to; đôi môi mỏng, cái mũi lớn và nhọn; chỉ có đôi mắt màu nâu có vẻ linh hoạt. Ông cũng là người nhút nhát, hay e thẹn. Tôi không có đủ thời gian để xem xét tất cả những mối tình của Stendhal nên tôi chỉ đề cập tới hai hoặc ba mối tình làm sáng tỏ một đôi điều thuộc về cá tính của ông. Ông có ý thức sâu sắc về giới tính, nhưng ông không phải là người ham thích nhục dục. Trước khi những bức thư của ông gởi cho những người tình sau cùng được công bố, người ta còn ngờ rằng ông là người lãnh đạm với sinh hoạt tình dục. Những đam mê tình ái của Stendhal là những đam mê của trí óc và việc chiếm đoạt phụ nữ đối với ông chỉ là một cách thức thỏa mãn lòng tự kiêu. Dù rằng ông có nhiều lời lẽ hoa mỹ, người ta cũng không tìm được một dấu hiệu nào cho thấy Stendhal có tình cảm trìu mến thật sự. Ông thẳng thắn nhìn nhận rằng những mối tình của mình đều là những mối tình không may và chúng ta thấy điều này chẳng có gì là khó hiểu. Ông vốn là người rất nhút nhát. Trong thời gian ở Ý, ông đã hỏi một người bạn đồng đội về cách thức chinh phục phụ nữ và cẩn thận ghi chép lời khuyên của anh ta vào một cuốn sổ tay. Ông tán tỉnh phụ nữ theo những quy tắc cũng giống như ông dựa theo những quy tắc để viết một vở kịch; ông cảm thấy nhục nhã khi phát hiện ra rằng những người phụ nữ ông theo đuổi thấy ông có vẻ buồn cười, và ông thật sự kinh ngạc khi họ vạch trần sự giả dối của ông. Ông thông minh như vậy mà chẳng bao giờ chịu hiểu rằng phụ nữ chỉ cảm nhận được ngôn ngữ của trái tim, còn ngôn ngữ của lý trí chưa bao giờ khiến họ xúc động. Ông lầm tưởng rằng mình có thể đạt được bằng mánh khóe và mưu mẹo điều ông chỉ có thể đạt được bằng tình cảm. Nhờ sự tiến cử của Pierre Daru, Stendhal vào làm việc ở Cục quân nhu và được phái tới Brunswick. Tuy vẫn yêu mến chế độ cộng hòa và vẫn coi Napoléon như một bạo chúa đã tước đoạt tự do của nhân dân Pháp, ông lại viết thư yêu cầu cha mua cho mình một tước vị; ông thêm chữ “de” vào tên mình và bắt mọi người phải gọi mình là Henri de Beyle. Ông làm việc tốt và khéo xoay xở nên chẳng bao lâu sau được thăng chức và được trở về Paris. Ông sắm một chiếc xe song mã và bao một cô gái trước đây làm ca sĩ trong một dàn đồng ca; nhưng tất cả những điều này vẫn chưa làm ông thỏa mãn. Ông cho rằng mình có nhiệm vụ tìm cho ra một người phụ nữ mà ông có thể yêu thương thật sự, một người phụ nữ xinh đẹp thuộc tầng lớp thượng lưu. Ông quyết định rằng đối tượng của mình sẽ là Alexandrine Daru, vợ của Pierre Daru, một thiếu phụ trẻ hơn chồng nhiều tuổi nhưng đã có bốn mặt con. Ông tấn công Alexandrine với cả một kho sách lược, nhưng sự thiếu tự tin không thể nào khắc phục được luôn cản trở những hành động và những lời nói của ông. Ông tỏ ra lúc thì vui vẻ, lúc thì buồn bã, lúc thì sôi nổi, lúc thì lạnh nhạt; nhưng chẳng có phương sách nào tỏ ra hiệu nghiệm, và cuối cùng ông cũng chẳng biết Alexandrine có yêu ông hay không.

    Không có gì đau đớn cho bằng cái ý nghĩ không thể nào dứt bỏ: có lẽ Alexandrine cười sau lưng ông vì ông quá nhút nhát! Cuối cùng Stendhal đến gặp một người bạn thân, giãi bày nỗi lòng và nhờ anh ta lựa chọn một chiến thuật thích hợp. Người bạn lấy một tờ giấy ghi lại những câu hỏi và Stendhal trả lời: “Chinh phục bà B. (Stendhal dùng cái tên bà B. để ám chỉ Alexandrine Daru) thì được lợi gì? Những cái lợi đó là:

    1/ Stendhal theo khuynh hướng tự nhiên của mình.

    2/ Stendhal sẽ có lợi thế lớn lao trong xã hội.

    3/ Stendhal sẽ hiểu rõ hơn những tình cảm của con người.

    4/ Stendhal sẽ cảm thấy vinh dự và hãnh diện”.

    Trên tờ giấy, người ta còn đọc được một câu chú thích của Stendhal: “Lời khuyên hay nhất là: Tấn công! Tấn công Tấn công!” Lời khuyên này quả thật là hay nhưng cũng không dễ thực hiện một khi người ta có bản tính nhút nhát không thể nào khắc phục được. Vài tuần lễ sau, Stendhal được mời tới chơi ở Bècheville, biệt thự của hai vợ chồng Daru ở thôn quê; sau một đêm không ngủ, ông quyết định tỏ tình với Alexandrine. Sáng hôm sau, ông mặc chiếc quần dài có sọc thật đẹp mà Alexan drine không tiếc lời khen ngợi; hai người sánh bước trong vườn trong khi một người bạn của nàng cùng với bà mẹ và mấy đứa con đi ở phía sau. Họ đi đi lại lại trong vườn và Stendhal run lẩy bẩy thầm nghĩ là nếu đi từ chỗ gọi là điểm A tới chỗ gọi là điểm B mà ông chưa thốt ra được lời tỏ tình thì ông sẽ tự sát. Cuối cùng ông cũng thốt ra được điều khó nói nhất, cầm lấy tay Alexandrine và tìm cách hôn nàng. Alexandrine trả lời bằng giọng nhỏ nhẹ rằng tình cảm mà nàng dành cho ông chỉ là tình bạn và nàng cũng không muốn lừa dối chồng; nàng gọi những người đi phía sau tiến lại gần. Stendhal đã thua trong trận đánh mà ông gọi là trận Bècheville. Có thể nói lòng tự ái của ông bị tổn thương nhiều hơn trái tim ông.

    Hai tháng sau, với tâm hồn hãy còn đau đớn vì sự thất bại này, Stendhal xin nghỉ phép để đến thành phố Milan (Ý), thành phố mà ông đã yêu ngay từ lúc đến nước Ý lần đầu tiên. Mười năm trước, trong thời gian tham gia chiến dịch của Napoléon ở Ý, ông đã để ý tới một cô gái tên là Gina Pietragrua, vốn là nhân tình của một người bạn đồng đội. Nhưng hồi đó ông chỉ là một thiếu úy nghèo túng và Gina chẳng thèm để mắt tới ông. Giờ đây nàng đã là một thiếu phụ 34 tuổi có chồng, con nhưng trong lần tái ngộ này Stendhal thấy nàng vẫn là “một phụ nữ cao ráo, đẹp lộng lẫy. Nàng vẫn còn cái vẻ quý phái trong đôi mắt, trên nét mặt.” Stendhal ý thức rất rõ sự xấu xí của mình nên ông ăn mặc thật sang trọng và hợp thời trang; khi xưa ông cũng béo phị nhưng giờ đây cuộc sống sung túc đã tạo cho ông một dáng vẻ bệ vệ và túi ông lại rủng rỉnh tiền. Ông có nhiều hy vọng chinh phục Gina hơn là hồi ông còn là một sĩ quan kỵ binh nghèo túng. Ông muốn vui chơi với nàng trong những ngày ngắn ngủi ở Milan, nhưng nàng không dễ dãi như ông tưởng. Nàng chỉ khiêu vũ với ông và mãi đến ngày ông sắp rời Milan để đi Roma, nàng mới chịu tiếp ông trong phòng riêng của nàng vào một buổi sáng sớm. Ngày hôm ấy, Stendhal ghi trong nhật ký: “Ngày 21 tháng 9 vào lúc 11 giờ rưỡi, tôi đã đạt được chiến thắng mình ao ước bấy lâu nay.”

    Năm 1812, Stendhal gặp nhiều khó khăn ở sở làm nên đề nghị Pierre Daru chuyển mình về Cục quân nhu; ông đi theo Napoléon và đại quân trong chiến dịch bi thảm ở nước Nga, và trong cuộc rút lui khỏi thành phố Moscow, ông tỏ rõ bản lĩnh của một sĩ quan tháo vát và gan dạ. Năm 1814, hoàng đế Napoléon thoái vị và bước đường công danh của Stendhal cũng kết thúc. Stendhal kể rằng ông đã từ chối những chức vụ quan trọng trong chính quyền mới và ông yêu thích cuộc sống lưu đày hơn là phục vụ vương triều Bourbons, nhưng sự thật không phải như vậy: ông đã tuyên thệ trung thành với vị vua mới (Louis 18) và vận động để được thâu nhận trở lại vào guồng máy chính quyền; nhưng tất cả những cố gắng của ông đều không mang lại kết quả nên ông phải trở về Milan. Ông vẫn còn đủ tiền để mướn một căn hộ khá tiện nghi và đi xem hát mỗi ngày, nhưng ông không còn địa vị và danh vọng như ngày trước nên Gina tỏ ra lạnh nhạt với ông. Ông gom góp 3000 franc để tặng nàng, nhưng nàng lại viện cớ chồng nàng ghen tuông dữ dội nên chỉ cho ông gặp mặt vài lần mỗi tháng. Mỗi khi có hẹn, ông phải cải trang để đến gặp nàng vào buổi tối; ông phải đổi xe nhiều lần để đánh lạc hướng những kẻ theo dõi và cuối cùng được một cô hầu phòng dẫn vào phòng riêng của nàng. Một hôm, cô hầu phòng có chuyện xích mích với bà chủ hoặc là bị Stendhal dùng tiền mua chuộc, đã tiết lộ rằng chồng của Gina chẳng ghen tuông một chút nào; Gina đã xếp đặt chu đáo như vậy để Stendhal khỏi chạm trán với những tình nhân khác của nàng. Cô hầu phòng cho Stendhal nấp vào một buồng nhỏ ngay bên cạnh phòng riêng của Gina và qua cái lỗ khóa, ông “tận mắt nhìn thấy sự phản bội của nàng” Ông viết: “Chắc các bạn nghĩ là tôi sẽ rời khỏi chỗ ẩn nấp để lấy dao đâm Gina và tình nhân của nàng? Hoàn toàn không. Tôi rời khỏi căn buồng cũng lặng lẽ như lúc tôi đến đó; tôi chỉ còn thấy khía cạnh buồn cười của câu chuyện này và chỉ cười thầm: tôi chỉ còn thấy khinh bỉ Gina và cảm thấy gần như hạnh phúc vì đã tìm lại được tự do.”

    Năm 1821, cảnh sát Áo trục xuất Stendhal ra khỏi thành phố Milan vì nghi ngờ ông có những cuộc tiếp xúc với những người Ý yêu nước. Ông trở về Paris và trong 9 năm sống tại đó còn có một hoặc hai mối tình nữa. Ông đã làm tiêu tan hết tài sản do cha ông để lại và công việc sáng tác văn học không hề đem lại cho ông tiền tài và danh vọng. Tác phẩm “Về tình yêu” (Delamour) được xuất bản năm 1822 chỉ bán được 17 cuốn trong vòng 11 năm. Ông xin làm việc trở lại cho chính phủ và nhờ có sự thay đổi chính thể (năm 1830, vua Charles X bị lưu đày và Louis - Philippe lên ngôi vua), ông được bổ nhiệm vào chức tổng lãnh sự ở Trieste. Nhà cầm quyền Áo không chấp nhận sự bổ nhiệm này vì ông có cảm tình với những nhà cách mạng Ý nên ông phải thuyên chuyển đến Civita Vecchia, một công quốc trực thuộc Đức giáo hoàng. Năm 1836, ông xin Bộ ngoại giao giao cho ông một công tác ở Paris trong khi một người khác tạm thời đảm nhận chức vụ của ông tại Civita Vecchia. Một buổi tối tháng 3 năm 1843, sau khi dự một bữa tiệc ở Bộ ngoại giao, Stendhal bị đột quỵ khi đi bộ ngoài đường phố; người ta mang ông về nhà trong tình trạng hôn mê và ngày hôm sau ông trút hơi thở cuối cùng. Cuộc “săn tìm hạnh phúc” của Stendhal trong 60 năm chỉ mang lại những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi và biết bao buồn khổ, nhưng những kinh nghiệm quý báu của Stendhal trên tình trường đã giúp ông thể hiện những mối tình tuyệt đẹp trong những cuốn tiểu thuyết bất hủ. Lúc sinh thời ông vẫn tin rằng những tác phẩm như “Đỏ và Đẹn”, “Tu viện thành Parme”,”Ký sự nước Ý” sẽ là những tác phẩm bất hủ, nhưng ông cho là phải đợi tới năm 1880 hoặc năm 1900, công chúng mới nhận biết được tài năng và giá trị thật sự của ông.

     
  9. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Thần xà

    Đã mấy ngày nay, lão cứ ngồi trầm ngâm bất động, đôi mắt hằn lên nét khổ đau. Chuyện đã mấy mươi năm rồi mà ngày đêm cứ giày vò lương tâm lão mãi. Thời đó, vào khoảng đầu thập niên 70, phong trào võ thuật trên toàn thế giới rầm rộ. Nào là Lý Tiểu Long với triệt quyền đạo gây chấn động màn bạc. Hồng Kông có ngũ hiệp minh tinh La Liệt, Khương Đại Vệ, Vương Vũ, Địch Long, Trần Tinh với những bộ phim kiếm hiệp quyền cước cực kỳ hấp dẫn. Ở Việt Nam cũng chẳng thua kém gì, các lò võ thi nhau mọc lên như nấm để chiêu sinh. Thanh niên Việt Nam nô nức tầm sư học đạo, luyện tập thượng đài tìm chút công danh.
    Lúc ấy, lão còn là một gã thanh niên đẹp trai, cường tráng. Cũng như bao trai làng nơi miền quê hẻo lánh này, ngày cầm cày đánh trâu ra đồng, cần cù lao động để mưu sinh. Đêm về luyện tập võ nghệ, thi đấu tài cho thỏa chí đời trai. Lão là đại đệ tử của võ đường Xà Quyền này. Thầy lão, thầy Ba Tấn, một người tu hành chân chính và cũng là một bậc cao thủ trong võ lâm, từ vùng núi Thất Sơn về đây dạy võ. Lão nhớ rất rõ cái ngày hôm ấy, lão cùng sư phụ qua thăm võ đường Hắc Hổ làng bên. Nhìn môn sinh của võ đường Hắc Hổ biểu diễn ra chiêu mạnh mẽ oai phong như hổ vuốt cọp vờn, gã thấy ớn lạnh. Cô con gái độc nhất của chưởng môn Hắc Hổ đẹp như Hằng Nga giáng thế, đôi mắt đa tình cử lúng liếng đung đưa, làm hồn gã chới với chơi vơi, ra về mà gã như kẻ mất hồn. Thầy Ba Tấn nói vu vơ với đám đệ tử, nhưng ngầm ngụ ý riêng với gã “Ba tháng nữa, chưởng môn Hắc Hổ mở đài tỉ thí để kén rể”. Gã biết gã không phải là đối thủ của đại đệ tử Hắc Hổ, nhưng cặp mắt đa tình, thân hình quyến rũ của tiểu thư Hắc Hổ, làm gã quên đi công lực yếu kém của mình, và càng quên luôn mối tình nghèo với cô thôn nữ Tú Lan ở quê nhà, mà gã với nàng đang yêu nhau say đắm. Thầy Ba như đọc được cả nỗi niềm của gã, thầy muốn nói gì đó rồi lại thôi.

    Chiều hôm sau, gã mạnh dạn hỏi sư phụ: “Chẳng lẽ Xà quyền ta không có chiêu gì để chế Hổ quyền sao?”.

    Sư phụ gã nói: “Có, bất cứ môn võ nào cũng có ưu, khuyết điểm. Xà quyền ta tuy không bằng Hổ quyền, nhưng nếu luyện được đến công phu tuyệt đỉnh của Xà quyền, thì cũng chế ngự được Hổ quyền”.

    Gã lại hỏi: “Muốn luyện được như vậy phải tốn bao lâu?”.

    “Nhanh nhất cũng phải 3 năm, có khi cả một đời người” - sư phụ gã đáp.

    “Vậy ngoài công phu tuyệt đỉnh của Xà quyền, không còn cách nào để chế ngự Hổ quyền sao?” - gã lại hỏi.

    Thầy Ba nói: “Ngoài công phu tuyệt đỉnh của Xả quyền để chế ngự Hổ quyền, còn có luyện thiên linh cái tức là Thần xà. Luyện thiên linh cái chỉ cần một thời gian ngắn thôi, nhưng cần phải có..” như chợt nhớ ra chuyện gì, thầy Ba im lặng không nói nữa.

    Thấy sư phụ im lặng, gã càng nôn nóng hỏi: “Sao thầy không nói tiếp để chỉ dạy cho con?”.

    Thầy Ba nói: “Thôi, con hãy bỏ ý định luyện thiên linh cái đi, nó chỉ làm hại con mà thôi. Ráng khổ công luyện tập Xà quyền, một ngày nào đó con cũng sẽ là một cao thủ của võ lâm”.

    Thấy thầy Ba cứ ỡm ờ, gã càng nghi ngờ sư phụ cố ý giấu mình chuyện gì.

    Khu vườn của thầy Ba nhỏ gọn, ngoài căn nhà tranh đơn sơ đang ở, thầy Ba còn cất thêm một cái am bên cạnh để thờ cúng tổ đường và dạy các đệ tử võ nghệ. Từ lúc qua thăm võ đường Hắc Hổ về, thầy Ba thấy có cái gì đó không ổn bèn thực hiện ý định của mình. Trăng thượng tuần tháng chín cong như chiếc thuyền nan đang trôi lững lờ trên nền trời xanh thẫm. Từ trong am, một bóng ngự người ôm một cái hòm nhỏ lướt đi trong đêm. Bóng đen lao nhanh về phía cây đa cuối làng, nơi có vài gò mả lạng nằm trong khu đất hoang. Sau khi chôn cất cái hòm dưới gốc đa xong, bóng đen quan sát cẩn thận, thấy mọi việc xong xuôi liền trở về am tự. Nhưng tất cả mọi việc đều không qua được đôi mắt sáng như cú vọ, của một người đã bỏ công theo dõi mấy đêm nay. Đợi bóng đen đi khuất, từ trong lùm cây, gã tiến nhanh về nơi chôn cất cái hòm, sau khi đào bới lên, gã nhanh nhẹn lấp đất lại y như cũ. Mọi việc xong xuôi, gã nhếch mép cười nửa miệng và lẫn vào bóng đêm biến mất.

    Hoàng hôn trên bờ đê làng đẹp như bức tranh thủy mặc. Hồ Tam sửa lại những sợi tóc mai của Tú Lan và dịu đang nói với người yêu:

    “Anh là đại sư huynh của võ đường Xà quyền này, sư phụ muốn anh phải làm rạng rỡ sư môn. Ba tháng nữa, anh phải thi đấu với Lôi Hổ, đại đệ tử của Hắc Hổ. Thầy muốn anh phải chiến thắng. Vì vậy, trong thời gian sắp tới này, mình tạm thời phải xa nhau để anh chú tâm luyện tập, em đừng buồn nhé!”.

    Tú Lan nói: “Nhưng còn đứa con trong bụng em, hình thành đã ba tháng rồi anh tính sao?”.

    Hồ Tam nói: “Em đừng lo, đợi ba tháng sau anh chiến thắng Lôi Hổ, chúng ta sẽ làm đám cưới, sẽ sống hạnh phúc bên nhau. Đây là thuốc dưỡng thai, em uống đi”.

    Uống gói thuốc của người yêu trao, chỉ một lát sau Tú Lan kêu đau bụng dữ dội. Hồ Tam liền đưa người yêu đến mụ lang vườn để khám. Tú Lan vô cùng đau đớn khi nghe bà mụ bảo mình đã bị sẩy thai. Giọt máu của Hồ Tam và mình, kết quả của một mối tình nồng thắm mà nàng ấp ủ bấy lâu nay, giờ không còn nữa, làm Tú Lan đau buồn sầu não. Từ đó, nàng không màng đến ăn uống, thân thể ngày thêm tiều tụy, như cái xác không hồn. Hồ Tam chẳng buồn chẳng vui, khuôn mặt gã chai lì bí hiểm, ngày đêm gã miệt mài luyện tập công phu Xà quyền.

    Cây đa trong khu mộ hoang càng thêm huyền bí, bà con đồn rằng có một con bạch xà đã thành tinh, đêm đêm hiện nguyên hình để hù dọa mọi người và ăn sạch đám ngải cứu xung quanh, nó uốn lượn múa may tạo ra từng cơn gió rít lạnh lùng, làm khu mộ hoang càng thêm rùng rợn.

    Thấm thoát ba tháng trôi nhanh, mùa xuân đến với những lộc biếc bướm hoa rực màu, tô điểm cho quê hương. Võ đường Hắc Hổ làng bên vui như trẩy hội. Thầy Sáu, chưởng môn Hắc Hổ mời tất cả các bạn hữu trong làng võ nghệ, đem các đệ tử đến dự đài tỉ thí đón xuân và chọn người tài kén rể. Bà con gần xa nô nức kéo tới xem và cổ vũ võ sĩ nhà thật náo nhiệt. Đêm nay là đêm chung kết. Sau khi loại bỏ các võ sĩ yếu kém, Lôi Hổ và Hồ Tam bước vào trận so tài cuối cùng. Vừa bái tổ xong, Lôi Hổ gầm lên tựa con mãnh thú, lao tới vung quyền tấn công như vũ bão về phía đối phương. Hồ Tam nhếch mép cười mỉa, rất bình tĩnh, gã uốn lượn như con rắn để tránh đòn. Một đen một trắng quần thảo nhau chí tử làm khán giả hai bên thót tim hồi hộp. Bỗng Lôi Hổ rú lên một tiếng đau đớn hai tay bịt lấy đôi mắt loạng choạng lùi lại. Chớp lấy thời cơ, Hồ Tam như con rắn độc sấn tới, dùng chiêu xà nã thủ mổ trúng vào yết hầu đối phương. Tất cả sự việc xảy ra chớp nhoáng, làm khán giả hai bên chưa hiểu chuyện gì thì đã thấy Lôi Hổ ngã gục, mồm phun máu có vòi. Nhưng tất cả mọi chiêu thức của hai võ sĩ đều không qua được đôi mắt lão luyện của một người. Người ấy chẳng nói chẳng rằng, buồn bã biến mất giữa lúc bên thắng trận đang reo hò chiến thắng.

    Đám cưới Hồ Tam và cô con gái Hắc Hổ được tổ chức trọng thể. Bà con hai làng kéo đến ăn uống linh đình, chúc mừng cho đôi trai tài gái sắc. Giữa lúc cuộc vui đang náo nhiệt thì Tú Lan xuất hiện, nàng quét tia mắt rực lửa căm thù về phía Hồ Tam, nói như hét: “Hồ Tam, tôi muốn nói chuyện với anh”.

    Từ lúc Tú Lan xuất hiện, Hồ Tam tái mặt, gã không biết phải làm sao đành nhỏ nhẹ với Tú Lan: “Bấy lâu nay nàng đi đâu, bây giờ ta đã có vợ rồi, nàng đến để làm gì?”.

    Tú Lan: “Tôi đi tìm sự thật, và bây giờ tôi đến để nói cho mọi người biết sự thật. Tôi đã gặp sư phụ, quá đau buồn với tên đệ tử độc ác, nên thầy đã bỏ về núi tu hành và cho tôi biết sự thật. Anh là tên đê tiện, chỉ vì chút nhan sắc và công danh mà anh đã phụ tình tôi và giết chết con mình, anh đã ăn cắp bí kíp của thầy, và lấy chính đứa con trong bụng tôi với đám ngải cứu nơi vườn hoang để luyện thiên linh cái. Anh đã hèn hạ dùng độc dược làm mù mắt Lôi Hổ để giành chiến thắng. Tôi căm thù anh, tôi nguyền rủa anh, sau này anh sẽ tuyệt tử tuyệt tôn... tuyệt... tử... tuyệt... tôn...”

    Tú Lan chạy như bay khỏi đám đông. Kể từ dạo ấy, nàng không về quê nữa, nghe bà con nói nàng xuống tóc quy y nương nhờ cửa Phật, để quên lãng chuyện khổ đau chốn hồng trần.

    Một bước lên mây, sau lần chiến thắng ấy, gã nghiễm nhiên trở thành chưởng môn hai võ đường Hắc Hổ và Xà Quyền. Sống hạnh phúc bên vợ đẹp con ngoan, danh tiếng gã nổi như cồn, đệ tử đến nhập môn ngày càng đông. Ngoài nghề dạy võ, gã còn bắt qui trừ ma và chữa bệnh rắn cắn. Sau ngày đất nước hòa bình, cuộc sống đổi mới, làng quê từng bước được nâng cao. Khu vườn hoang huyền bí ngày nào thuộc về gã, và gã càng may mắn hơn khi khu đất ấy trúng qui hoạch. Với số tiền đền bù khá lớn, Hồ Thắng, con trai gã, mặc sức ăn chơi trác táng và bỏ mạng sau một cuộc đua xe táo bạo, để lại cho gã một đứa cháu trai khôi ngô tuấn tú.

    Dòng đời êm trôi, gã giờ đây đã trở thành một lão già lọm khọm, đứa cháu trai của lão giờ cũng là một chàng trai cao lớn, nhưng tánh tình không thua gì cha nó, cũng hút chích, ăn chơi sa đọa.

    Mấy ngày nay lão cứ ngồi trầm ngâm buồn bã, nghiền ngẫm về quãng đời lão đã đi qua. Lão chạnh lòng nhớ đến sư phụ, nhớ Tú Lan, mối tình đầu mà lão đã tự tay mình bóp chết. Lão giật mình khi nhớ đến câu nói của Tú Lan ngày nào: “Ngươi sẽ tuyệt tử tuyệt tôn...”. Linh tính như có điều gì mách bảo với lão, chưa kịp định thần thì lão đã nghe tiếng hàng xóm la ó: “Thằng Hồ Đại, cháu lão Tam phê thuốc bị sốc, bác sĩ đang cấp cứu”.

    Lão nhanh chân đến nơi, nhìn đứa cháu đích tôn nằm sóng soài miệng sùi bọt mép làm lão thất kinh hồn vía, lão càng choáng váng khi thấy chất độc hại cháu mình, sao mà giống chất độc năm xưa lão luyện thiên linh cái hạ Lôi Hổ quá. Lão rụng rời chân tay khi thấy bác sĩ lắc đầu tuyệt vọng. Miệng lão cứ lẩm bẩm... ác... lại... ác... báo... ác... lai... ác... báo... Bỗng lão cởi phăng áo quần chạy thẳng ra đường la hét:

    - Ha... ha... ha... Ta đã luyện được Thần xà... Ta là đệ nhất cao thủ...

    Hàng xóm nhìn theo chép miệng:

    - Tội nghiệp lão Tam, ngày xưa lão cứ lo luyện Thần xà gì đó nên bị tẩu hỏa nhập ma. Lão cứ mải lo luyện không dạy dỗ con cháu, để chúng lao vào con đường ăn chơi trác táng nên phải bỏ mạng, tội nghiệp... tội nghiệp...

    - Ha... ha... ha... Ta đã luyện được Thần xà... tuyệt... tử... tuyệt... tôn. Ta giết con cháu ta... hu hu hu. Ngoài đường, tiếng lão Tam khi khóc khi cười vang mãi tận cuối làng.

    ***
     
    meetdak, tducchau, amylee and 3 others like this.
  10. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Chiếu Bí
    Truyện ngắn của JEFFREY ARCHER

    Lưu Văn Hiến dịch

    Mọi ánh mắt đều hướng về người phụ nữ vừa bước vào phòng. Một số đàn ông chiêm ngưỡng người đẹp từ trên xuống dưới. Tôi thì lại bắt đầu từ cổ chân nàng mà nhìn lên.

    Nàng mang một đôi giày nhung đen gót cao và mặc một chiếc đầm bó sát màu đen, cao hơn đầu gối một khoảng, đủ để phô bày đôi chân thon thả tuyệt vời. Anh mắt tôi dừng lại ở chiếc eo thanh mảnh và thân hình nhỏ nhắn đầy sức sống của nàng. Nhưng tôi thấy choáng ngợp bởi gương mặt trái xoan, đôi môi nũng nịu và cặp mắt to xanh biếc của nàng, long lanh dưới những lọn tóc đen mượt mà. Sự hiện diện của nàng ở khung cảnh này lại càng đặc biệt. Người ta có thể đổ dồn ánh mắt như thế ở một buổi tiếp tân, một buổi tiệc cocktail, ngay cả ở dạ vũ từ thiện. Nhưng ở một giải cờ vua thì...

    Tôi theo dõi từng cử chỉ của nàng, không tài nào tin được rằng nàng có thể là một kỳ thủ. Như để chứng minh rằng tôi đã lầm, nàng chậm rãi bước lại bàn đăng ký của câu lạc bộ và ký tên vào sổ. Người ta đưa cho nàng số của đối thủ thách đấu trong ván mở màn. Tất cả những người chưa được phân đối thủ đều chờ xem liệu nàng sẽ ngồi vào chỗ đối diện ở bàn cờ của anh ta hay không.

    Nữ kỳ thủ xem số đối thủ của mình và đi lại bàn của một trung niên ngồi ở góc phía xa căn phòng, người này trước đây là chủ tịch câu lạc bộ, nhưng nay đã qua thời sung sức. Tôi là tân chủ tịch của câu lạc bộ và do đó chịu trách nhiệm đôn đốc các ván đấu vòng tròn.

    Đó là tối thứ sáu cuối cùng trong tháng trong căn phòng lớn ở tầng trên của tòa nhà Mason’s Arms ở phố High. Người chủ nhà đã cho bố trí ba chục chiếc bàn thi đấu và món ăn thức uống sẵn sàng. Có ba hay bốn câu lạc bộ cờ khác trong quận cử khoảng nửa tá vận động viên đến thi đấu, cho chúng tôi cơ hội thi thoảng gặp đấu thủ mới. Luật thi đấu khá đơn giản, mỗi nước đi chỉ được tối đa một phút đồng hồ, như thế một vấn ít khi kéo dài hơn một giờ, và nếu sau ba mươi phút không bên nào ăn được một quân tốt thì ván cờ được quyết định là hòa. Ai thua sẽ phải đãi người thắng một chầu uống trong giờ nghỉ, và mỗi người có thể thách đấu hai lần.

    Một gã đàn ông mang kính cận trong bộ đồ xanh đậm bước lại chỗ tôi. Chúng tôi mỉm cười, bắt tay nhau. Tôi tưởng hắn là luật sư, nhưng đã đoán nhầm: hắn thật ra là nhân viên kế toán của một hãng văn phòng phẩm ở Woking.

    Tôi không mấy chú ý vào khai cuộc kiểu Moscow của hắn vì mải dán mắt vào cô gái áo đen. Một lần bắt gặp ánh mắt tôi, nàng tặng tôi một nụ cười khó hiểu, nhưng sau đó dù cố gắng đến đâu tôi cũng không thể khiến đôi môi nàng hé mở thêm lần nữa. Mặc dù mất tập trung nhưng tôi vẫn tìm được cách thắng gã nhân viên kế toán, chắc hắn không biết rằng có nhiều cách thoát ra khỏi vòng vây của bảy quân tốt.

    Đến giờ nghỉ giải lao đã có đến ba hội viên của câu lạc bộ mời nàng uống rượu trước khi tôi kịp đến quầy. Tôi biết không hy vọng gì đấu ván thứ hai với nàng vì tôi còn phải thách đấu với chủ tịch một câu lạc bộ cờ khác. Cuối cùng nàng đấu với gã nhân viên kế toán.

    Tôi thắng đối thủ mới của mình sau hơn bốn mươi phút một chút, và trong vai trò chủ tịch, bắt đầu quan tâm đến những cặp khác còn đang thi đấu. Tôi chọn trước lộ trình để chắc chắn rằng nó dẫn đến bàn của nàng. Tôi thấy gã kế toán đang thắng thế, và khi tôi đến nơi nàng đã mất quân hậu và thua ván cờ.

    Tôi tự giới thiệu mình và nhận thấy cái bắt tay với nàng đầy xúc cảm. Chúng tôi len lỏi qua đám đông để đến quầy. Nàng cho tôi biết tên nàng là Amanda Curzon. Tôi gọi một ly rượu vang đỏ theo yêu cầu của nàng và một ly bia cho mình. Tôi bắt đầu câu chuyện bằng cách an ủi thất bại của nàng.

    “Ván rồi ông thi đấu ra sao?”. Nàng hỏi tôi.

    “Cũng thắng được ông ấy”, tôi nói, “Nhưng rất khít khao. Thế còn ván đấu của cô với ông cựu chủ tịch câu lạc bộ?”

    “Bí cờ” Armanda nói, “Nhưng tôi nghĩ ông ấy chỉ lịch sự với tôi thôi”.

    Tôi nói với nàng: “Lần trước đấu với ông ta chúng tôi cũng bí cờ”.

    Nàng mỉm cười: “Có lẽ chúng ta phải đấu với nhau một dịp nào đó?”

    “Tôi sẽ trông chờ dịp ấy”, tôi nói khi nàng uống cạn ly.

    Bỗng nhiên cô gái nói với tôi: “Thôi tôi phải về đây. Phải đón chuyến xe lửa cuối cùng về Hounslow”.

    “Cho phép tôi đưa cô về”, tôi nói rất lịch sự, “Ít nhất thì chủ tịch câu lạc bộ cũng có thể làm điều ấy”.

    “Nhưng đi như thế chắc là ngược hướng nhà ông nhiều lắm?”

    “Không đâu”, tôi nói bừa, vì Hounslow ở xa hơn căn hộ của tôi đến hai mươi phút đi xe.

    Tối nốc cạn ly bia và giúp Amanda mặc áo khoác vào. Trước khi ra về, tôi cảm ơn người chủ nhà về sự chuẩn bị chu đáo cho tối hôm đó.

    Chúng tôi ra bãi đậu xe. Tôi mở cửa chiếc Scirocco của tôi cho nàng trèo vào.

    “Quả là một sự cải tiến nho nhỏ về phương tiện đi lại ở London”, nàng nhận xét khi tôi ngồi vào chỗ. Tôi mỉm cười, lái xe ra con đường dẫn về phía Bắc. Chiếc đầm màu đen càng thu ngắn hơn trên đùi nàng khi nàng ngả người tựa vào lưng ghế. Nàng không có vẻ ngượng ngùng vì điều đó.

    “Hãy còn sớm lắm”, tôi nói lấp lửng sau một vài nhận xét vu vơ về buổi tối ở câu lạc bộ. “Cô có thời gian tạt vào uống chút gì không?”

    “Nhưng phải nhanh thôi”, nàng trả lời, nhìn vào đồng hồ tay. “Mai tôi bận suốt ngày”.

    “Tất nhiên rồi”, tôi nói, hy vọng nàng không nhận thấy tôi đang vòng xe lại, chẳng có vẻ gì đi về hướng Hounslow cả.

    “Cô làm trong thành phố hả?”, tôi hỏi nàng.

    “Vâng. Tôi làm tiếp tân cho một hãng địa ốc ở quảng trường Barkeley”.

    “Tôi ngạc nhiên vì cô không làm người mẫu thời trang”.

    “Trước đây tôi đã làm nghề đó”, nàng trả lời mà không giải thích gì thêm.

    Nàng dường như hoàn toàn lơ đãng đối với con đường chúng tôi đang đi khi nàng kể về kế hoạch đi nghỉ của nàng ở đảo Ibiza, Tây Ban Nha. Khi đến nơi, tôi đậu xe, đưa Amanda qua cổng trước và vào căn hộ. Ở tiền sảnh tôi giúp nàng cởi áo khoác ngoài trước khi đưa nàng vào phòng khách.

    “Cô muốn dùng gì?”, tôi hỏi.

    “Tôi sẽ uống rượu vang, nếu ông có một chai khui sẵn”. Nàng trả lời, từ tốn dạo quanh căn phòng ngăn nắp lạ thường. Chắc là mẹ tôi đã tạt qua hồi sáng, tôi nghĩ với vẻ biết ơn.

    “Đây chỉ là góc nhỏ của một anh chàng độc thân thôi”, tôi nói, nhấn mạnh từ “độc thân” trước khi đi xuống bếp. Tôi thấy nhẹ nhõm hẳn khi thấy một chai vang trong tủ rượu. Tôi đem chai rượu cùng hai cái ly ra vài phút sau đó, và bắt gặp nàng đang ngắm nghía bàn cờ của tôi, và sờ tay vào những quân cờ bằng ngà xếp theo một ván cờ tôi đã chơi trước đó qua đường bưu điện.

    “Bộ cờ đẹp quá”, nàng nhận xét khi tôi đưa nàng ly rượu. “Ông tìm thấy nó ở đâu vậy?”

    “Ở Mexico”, tôi nói, không giải thích thêm rằng tôi đã giành được nó khi thắng một giải đấu cờ trong kỳ nghỉ ở đó. “Tôi chỉ tiếc là chúng ta chưa có dịp đấu cờ với nhau”.

    Nàng nhìn đồng hồ tay. “Đủ thời gian cho một ván đấu nhanh”, nàng nói và ngồi vào chỗ sau những quân cờ ngà xinh xắn.

    Tôi nhanh chóng ngồi đối diện nàng. Nàng mỉm cười, nhặt lên một quân tượng trắng, một quân tượng đen và giấu ở sau lưng. Chiếc đầm nàng mặc càng chật hơn và đôi vú nàng căng lên dưới làn vải áo. Rồi nàng đưa hai nắm tay ra trước mặt tôi. Tôi chạm khẽ vào bàn tay phải và nàng mở nắm tay để lộ ra quân trắng.

    “Mình có đặt cược gì không nhỉ?” Tôi vui vẻ hỏi. Nàng mở xách tay ra xem.

    “Tôi chỉ còn vài bảng thôi”, nàng nói.

    “Tôi chỉ bắt kèo dưới thôi”.

    “Ông nói vậy nghĩa là sao?”. Nàng hỏi.

    “Cô có đề nghị gì không?”

    Ông muốn gì?”

    “Nếu cô thắng sẽ được mười bảng”.

    “Còn nếu tôi thua?”

    “Cô cởi một thứ gì đó ra”.

    Tôi ân hận ngay khi nói dứt câu và chờ nàng tặng một tát tai nảy đom đóm mắt. Tuy nhiên nàng chỉ nói, “Chỉ chơi một ván cũng chẳng hại gì”.

    Tôi gật đầu đồng ý và nhìn trân trân vào bàn cờ.

    Nàng chơi cũng không đến nỗi tệ - loại mà dân trong nghề gọi là nghiệp dư - mặc dù lối khai cuộc Roux của nàng có vẻ hơi bài bản. Tôi tìm cách làm cho ván đấu kéo dài hai mươi phút và hy sinh một số quân mà không quá lộ liễu. Khi tôi nói “Chiếu bí”, nàng bật cười và tuột đôi giày khỏi chân mình.

    “Uống ly nữa nhé?” Tôi hỏi mà không mấy hy vọng. “Dù sao cũng chưa đến mười một giờ”.

    “Được. Một ly nhỏ nữa thôi và tôi phải về ngay”.

    Tôi vào nhà bếp, lát sau trở lại đem theo chai rượu và rót vào ly của nàng.

    Nàng nhíu mày: “Tôi chỉ muốn nửa ly thôi”.

    “Tôi chỉ ăn may thôi”, tôi nói, vờ như không nghe, “sau khi quân tượng của cô bắt được quân mã của tôi. Thắng rất sít sao”.

    “Có lẽ thế”, người đẹp trả lời.

    “Chơi một ván nữa nhé?” tôi dọ ý nàng.

    Cô gái hơi do dự.

    “Thắng ăn cả ngã về không nhé?”

    “Ông nói vậy nghĩa là sao?” “Hai mươi bảng hay một món trang phục khác?”

    “Tối nay sẽ chẳng ai thua nhiều cả, phải không?”

    Nàng kéo ghế ngồi còn tôi xoay lại bàn cờ, và cả hai chúng tôi bắt đầu xếp lại quân cờ.


    Ván thứ hai kéo dài hơn một chút vì tôi phạm một sai lầm ngớ ngẩn lúc đầu, để quân hậu bị uy hiếp, và phải mất một số nước đi để giải vây. Tuy vậy, tôi vẫn kết thúc được ván cờ dưới ba mươi phút và còn tìm được cách rót đầy ly của nàng mà nàng không biết.


    Nàng nhìn tôi mỉm cười và kéo áo đầm lên đủ để tôi thấy phần trên của đôi vớ dài trên đùi nàng. Nàng tháo móc treo ra và chậm rãi lột đôi vớ ra khỏi chân rồi thả chúng xuống cạnh chỗ tôi ngồi.

    “Tôi suýt nữa là thắng được ông”. Nàng nói.

    “Chỉ một chút nữa thôi”, tôi đáp lại. “Cô muốn một cơ hội để gỡ lại không? Lần này tôi cược năm mươi bảng”. Tôi đề nghị, ra vẻ hào phóng.

    “Cơ hội thắng càng lúc càng cao cho cả hai bên”, nàng đáp, và sắp lại bàn cờ.

    Tôi bắt đầu tự hỏi không biết nàng đang nghĩ gì. Dù điều đó là gì đi nữa, nàng dại dột thí cả hai quân xe ngay từ đầu và ván cờ kết thúc chóng vánh sau có vài phút.

    Một lần nữa nàng lại kéo áo đầm lên nhưng lần này lên trên cả eo nàng. Mắt tôi dán chặt vào cặp đùi nàng trong lúc nàng cởi bỏ đại treo vớ và giơ nó lên cao quá đầu tôi trước khi thả nó xuống cùng chỗ với đôi vớ dài của nàng bên cạnh tôi.

    “Khi tôi bị mất quân xe thứ hai”, nàng nói, “Tôi chẳng còn hy vọng gì”.

    “Tôi đồng ý. Vì thế để cho công bằng phải cho cô một cơ hội nữa”, tôi vừa nói vừa nhanh chóng sắp lại bàn cờ. “Dù sao”, tôi nói thêm, “lần này cô có thể thắng một trăm bảng”. Nàng nhoẻn miệng cười.

    “Tôi thật sự phải về nhà”, nàng vừa nói vừa đi quân tốt lên. Khi tôi đưa quân tốt của mình vào thế phản công thì nàng lại nở nụ cười khó hiểu hồi tối. Đó là ván cờ hay nhất mà cô gái đã chơi trong suốt tối hôm ấy, và các nước đi kiểu Warsaw của nàng làm tôi mất hơn nửa tiếng đồng hồ với ván cờ. Thật ra tôi suýt nữa đã thua sớm do rất khó tập trung trước chiến lược phòng thủ của nàng. Một đôi lần Amanda tắc lưỡi khi nàng tưởng đang thắng thế, nhưng rồi hiển nhiên nàng chưa từng thấy Karpov phòng thủ kiểu Sicile và thắng cuộc từ một vị trí tưởng chừng không thể được.

    Cuối cùng tôi tuyên bố: “Chiếu bí”.

    “Quỷ tha ma bắt”. Nàng nói, và đứng lên quay lưng lại tôi: “Ông phải giúp tôi một tay”.

    Tôi run rẩy với tay qua và từ từ kéo chiếc khóa xuống cho đến tận eo nàng. Một lần nữa tôi khao khát chạm tay vào làn da mịn màng đó. Nàng quay phát lại đối diện tôi, khẽ nhún mình duyên dáng, và chiếc đầm rơi xuống nhẹ nhàng như khi người ta tháo bỏ tấm khăn che một bức tượng. Nàng nghiêng người tới và khẽ chạm bàn tay vào má tôi, ngay lập tức tôi như bị điện giật. Tôi rót hết rượu trong chai vào ly của nàng và vào nhà bếp, lấy cớ để rót thêm cho tôi. Khi tôi trở lại nàng vẫn ngồi yên. Trên người nàng chỉ còn hai mảnh nhỏ trang phục lót mỏng tanh mà tôi hy vọng sẽ thấy rời khỏi chỗ.

    “Tôi không nghĩ rằng cô sẽ chơi thêm ván nữa?” tôi hỏi, cố không tỏ ra tuyệt vọng.

    “Đã đến lúc anh phải đưa tôi về”, nàng khúc khích cười.

    Tôi trao cho nàng một ly rượu nữa. “Một ván nữa thôi”, tôi nài nỉ. “Nhưng lần này phải là cả hai mảnh”.

    Nàng bật cười. “Không đời nào”, nàng nói. “Tôi không thể để thua được”. “Sẽ là ván cuối cùng”, tôi đồng ý. “Nhưng lần này hai trăm bảng và chúng ta cuộc cả hai mảnh còn lại”. Tôi chờ một lúc, hy vọng số tiền cược lớn sẽ hấp dẫn được nàng. “Lần này chắc cô phải gặp may. Trước sau cô đã suýt thắng ba lần”.

    Nàng uống một ngụm nhỏ rượu làm như đang cân nhắc đề nghị của tôi.

    “Thôi được”, nàng nói. “Một ván chót”.

    Cả hai chúng tôi cố không để lộ ý nghĩ của mình về việc chuyện gì sẽ xảy ra nếu như nàng lại thua.

    Tôi không thể giữ tay mình khỏi run khi sắp lại bàn cờ. Tôi tập trung tư tưởng, hy vọng nàng không nhận thấy là suốt đêm tôi chỉ uống một ly vang. Tôi quyết tâm kết thúc ván cờ càng nhanh càng tốt.

    Tôi đưa quân tốt của mình lên một ô. Nàng phản công, đưa quân tốt của mình lên hai ô. Tôi biết chắc nước đi tiếp theo của mình phải là gì, và vì thế ván cờ kết thúc chỉ sau mười một phút.

    Tôi chưa bao giờ bị thua một ván cờ nào một cách toàn diện như thế trong đời. Amanda hoàn toàn thuộc một đẳng cấp khác hẳn tôi. Nàng đoán trước mọi nước đi của tôi và có những nước thí tôi chưa bao giờ gặp, thậm chí chưa bao giờ được biết.

    Đến lượt nàng nói “Chiếu bí”, và cùng với nụ cười bí ẩn, nàng tiếp thêm, “Quả thật anh đã nói lần này tôi gặp may”.

    Tôi cúi đầu không tin nổi. Khi tôi nhìn lại, nàng đã mặc lại chiếc đầm tuyệt đẹp, và đang nhét vớ dài cùng đai treo vớ vào xách tay. Vài giây sau nàng mang giày vào.

    Tôi lấy quyển sổ chi phiếu, viết vào tên “Amanda Curzon” và thêm con số “200 pounds”, điền ngày và ký tên. Trong khi tôi làm việc đó nàng sắp lại các quân cờ ngà vào đúng y chỗ cũ của chúng khi nàng mới đến.

    Nàng ngả người tới và khẽ khàng hôn lên má tôi. “Cảm ơn anh”, nàng nói, bỏ tấm chi phiếu vào túi xách. “Lúc nào đó ta phải đấu lại thôi”. Tôi vẫn nhìn trân trối vào bàn cờ trong nỗi hoài nghi khi có tiếng cửa trước đóng lại sau lưng nàng.

    “Đợi đã”, tôi vừa nói vừa chạy vội ra cửa. “Làm sao cô về nhà được?”.

    Tôi ra vừa kịp thấy nàng chạy xuống cầu thang, và về phía một chiếc BMW cửa mở sẵn. Nàng trèo vào xe, cho phép tôi chiêm ngưỡng thêm lần nữa đôi chân thon thả của nàng.

    Nàng mỉm cười khi cửa xe đóng lại.

    Gã nhân viên kế toán rảo bước về phía cửa xe bên kia, ngồi vào chỗ, nổ máy xe và đưa nữ kỳ thủ vô địch về nhà.
    HẾT
     
  11. hungbc1010

    hungbc1010 Lớp 6

    Bài viết này là sao vậy bạn? Có phải bạn up nhầm không? Mình đọc không hiểu lắm. :)
     
  12. amylee

    amylee Super Moderator Thành viên BQT

    Truyện này thật hay. Mình đọc có nét hao hao "Tố Tâm" của Hoàng Ngọc Phách.
     
    tducchau thích bài này.
  13. Cái lệ

    Cái lệ Lớp 7

    Mong bạn post thêm những truyện ngắn kinh dị trên tạp chí.
     
  14. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    HẸN GIỜ CHẾT
    Truyện ngắn của Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh



    Cả Huỳnh, Cả Trọng, Cả Rinh
    Trong ba Cả đó, Tây kinh Cả nào?
    Bắc Giang, Phủ Lạng thì thào
    Rằng Tây kinh nhất Cả nào bắn ghê
    Đứng trên ngọn núi bắn về
    Chính ông Cả Trọng bắn ghê nhất đời…



    Hạ tuần tháng năm...

    Một đêm sao thưa, vắng gió. Khắp mấy miệt Phủ Lạng Thương, Nhã Nam, Hữu Lũng, Kép, Bắc Giang, các sơn trấn, sơn thôn nằm im thít dưới sao vơi.

    Từ trong các trại lính, đồn binh, tiếng kèn "buồn ngủ tắt đèn” đã cất lên, âm đồng khê khê quen thuộc “đi" trong đêm hơi, tối nay bỗng nghe lê thê rờn rợn như tiếng kèn âm phủ vọng lên gọi hồn người "về cõi".

    Hồi hộp, nơm nớp, thiu thiu... Dân gian, lính tráng thỉnh thoảng lại giật mình choàng thức vì một vài tiếng súng gần xa, tiếng vó ngựa, giày đinh tuần tiễu khua rầm rập vờn sát khí.

    Sau những ngày giả hoà đầu để giũa vuốt mài nanh, hùm thiêng Yên Thế lại mới vừa rời khỏi hang sâu. Ông Đề Thám lại phất cờ kháng Pháp, và bất kẻ ngày đêm, quân du kích lúc nào cũng có thể bất thần nổ sung vào đầu lính Tây, lính tập, Ả Rập, Lê Dương. Người trong nước thường gọi "ông Đề Thám","Cụ Đề Thám","quân ông Đề Thám"..., nhưng dân miệt Bắc Giang, Phủ Lạng lại gọi “quan Hoàng", “lính quan Hoàng”. Nhiều người tưởng dân Đông Bắc chất phác nôm na, cứ thấy quân cầm súng là gọi “lính”, thực ra không phải vậy. Dân ta chưa bao giờ gọi giặc cướp, thổ phỉ là lính. Cờ Vàng Hoàng Sùng Anh , Cờ Trắng Bàn Văn Nhị, thậm chí đến Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc từng giúp triều đình đánh Tây, lĩnh chức Đề đốc, song dân ta vẫn gọi là “quân Cờ Đen”, “giặc Cờ Đen" chứ không gọi là "lính Cờ Đen"! Với dân, "lính" là loại quân có tính cách chính thống. Ông Đề Thám kháng Pháp, chỉ chiếm cứ được vùng Yên Thế, dân vẫn gọi quân du kích của ông là lính, ngụ ý tôn sùng, ngầm coi là chính thống!

    "Lính quan Hoàng!" - chỉ nghe 3 tiếng đầy âm hưởng sùng kính này, ngay cả quan Tây cũng phải nể thầm. Bởi ai cũng biết họ bắn giỏi và xông trận rất dũng cảm, gan lì. Đến tướng của quan Hoàng lại càng xuất chúng. Người ta đồn Cả Trọng, Cả Rinh, Cả Huỳnh, Thống Luận đều có tài “thần xạ", nhất là Cả Trọng, con cả “quan Hoàng". Cả Trọng có biệt tài bắn không cần ngắm “đầu ruồi”, bất kể súng trường, súng lục; từng bắn trúng cả chim bay, bắn xuyên qua lỗ đồng tiền cồng cách xa ngót cả trăm thước. Chẳng những bắn nhanh, bắn trúng, Cả Trọng còn có tài lạ nữa: bắn sống, bắn chết theo ý muốn, tuỳ theo tội địch. Bắn sống tức là bắn cho bị thương nặng, nhẹ - tuỳ vùng thân thể của đối tượng mà xạ thủ ngắm - điều này cũng dễ hiểu và những tay súng giỏi đều làm được. Riêng chuyện bắn chết theo ý muốn mới ly kỳ, bởi Cả Trọng có thể biết trước kẻ địch sẽ chết vào lúc nào sau khi trúng đạn, chưa khi nào sai! Tin đồn đến tai các võ quan, lính tráng Tây ta, nhiều kẻ cười ngất cho là chuyên hoang đường...

    Thời điểm này, đã vào đầu thế kỷ 20, các cánh quân Văn Thân, kháng Pháp đã tan. Phan Đình Phùng mất trong Hà Tĩnh; Tham tán Nguyễn Thiện Thuật, Đề đốc Tạ Hiệu (Bãi Sậy) đã bị Hoàng Cao Khải đánh thua, phải thoát sang Nam Ninh (Quảng Tây); Đốc Tít (Đông Triều) bị đày sang Algérie; Cai Kinh, Đốc Ngữ (Phủ Lạng, Yên Thế) người bị bắt, kẻ ra đầu; Đề Kiều (Hưng Hoá) cũng hàng. Riêng chủ tướng quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc đã chịu cùng con nuôi là Woòng Nhì rút sang Đài Loan theo lời cầu dụ của sứ giả nhà Thanh, chỉ còn đám dư binh Lương Tam Kỳ chiếm vùng Chu, Mụ. Nay Cờ Đen Lương Tam Kỳ cũng đã đầu hàng, được đóng yên tại chợ Chu, chặn hậu ông Đề Thám; giờ yên các mặt, quân Pháp, quân triều đã lập vòng đai thép quanh chiến khu Yên Thế. Tuy dân miền Đông Bắc nhiều người vẫn ngầm giúp ông Đề, song cũng chẳng thiếu kẻ hám lợi làm trảo nha cho Pháp để triệt các đường tiếp trợ binh lương, vũ khí của “quan Hoàng"…!

    Giữa cảnh lâm tuyền Nhã Nam về đêm đầy bí ẩn bỗng hiện ra một bóng người, dáng trẻ, đi vùn vụt êm như chồn cáo về hướng Yên Thế, vẻ thạo đường thuộc lối hết sức.

    Khoảng giờ Tý y đã tới ngoại vi vùng chiến khu thiên hiểm, dừng lại ngay đầu hẻm núi, ngó quanh đoạn rúc lên mấy tiếng như cú mèo kêu. Lập tức có tiếng rúc đáp vọng lại , từ trong bóng tối một bóng quân canh xách súng trường hiện ra trên mỏm đá cao xế phía trước.

    - Hai mươi giấc tốt, hăm mốt nửa đêm. Sao đến chậm thế?

    - Phải đợi tối mới đi được! Lại không dám cưỡi ngựa, sợ chúng để ý!

    - Cậu Cả đang đợi! Có ngựa chờ sẵn đấy, vào nhanh đi!

    Ba tiếng kiểng going lên, một bong phóng ngựa từ trong núi ra, dắt theo một con ngựa nữa. Bóng trẻ thót lên luôn lưng ngựa, tiếng vó câu tắt nhanh sau vách đá. Cầu vồng Yên Thế trung tâm khu chiến nằm giữa những đợi núi đèo hiểm hóc. Tổng dinh giờ này như đã ngủ dưới sao, giữa một vùng trại quân trấn rải rác theo thế liên hành. Dựa lưng vách núi có một căn nhà sàn. Bên trong, cuối nhà có một chiếc bàn mộc rộng choán hẳn góc sàn, trên trải một tấm bản đồ lớn có ghi rõ các đồn binh Tây, triều, các yếu lộ xuyên sơn… Một cái giá đèn bằng gỗ, cao, trên đặt một đĩa dầu nam cháy vật vờ, hắt ánh sáng vàng úa, loang lổ trên cảnh vật. Một người đàn ông, còn trẻ, nét mặt rắn rỏi, ngồi im như tượng đá, hai con mắt sáng nhìn trừng trừng vào tấm bản đồ quân sự, vẻ đăm chiêu đến căng thẳng.

    Bỗng có tiếng vó ngựa dừng rập trước nhà sàn. Người tuổi trẻ thở phào thành tiếng, ngả lưng dựa ra sau.

    Cửa mở nhẹ, một người trung niên bước vào kính cẩn:

    - Bẩm cậu Cả, người ấy đã vào. Xin gặp cậu!

    - Ta đang đợi đây! Thắp thêm lửa cho sáng.

    Người trung niên đốt thêm một đã đèn, quay ra mời khách vào. Đó là một chàng trai Kinh trạc 24, 25 tuổi, vẻ khôn ngoan, gan góc hơn người. Chính người vừa băng rừng tìm đến cứ địa. Y cúi đầu lễ phép:

    - Bẩm cậu Cả...

    - Cứ ngồi nghỉ, uống nước đã! Xem chừng chú mệt rồi đó! Ta đã để sẵn một bình trà ướp sen đợi chú!

    Chàng trai mới tới ngồi xuống chiếc ghế sát góc bàn, gần người được gọi là “cậu Cả" - tức Cả Trọng, con trai cụ Đề Thám và là vị tướng du kích khét danh thần xạ.

    Trà nước, điếu đóm được người hầu bưng ra. Cả Trọng tự tay rót trà ra chén đưa khách. Chàng trai kính cẩn đỡ lấy. Chủ khách đối ẩm ung dung, nhưng trong lòng cả hai đều như biển sóng ngầm. Vị khách chính là người bí mật chỉ huy đội do thám của nghĩa quân Yên Thế, hoạt động bên ngoài. Y quê miệt Hữu Lũng nên các tướng tuỳ cận "quan Hoàng" thường gọi "người ngoài lũng". Đêm nay có việc cơ mật nên y phải vào gặp Cả Trọng.

    Cạn tuần trà. Cả Trọng đẩy khay ấm chén sang bên, nhìn y:

    - Ta vào việc! Ngoài đó thế nào?

    "Người ngoài lũng” lập tức rút trong cán dao rừng ra một cuộn giấy bản, trải rộng trước mặt Cả Trọng. Mặt giấy đầy chữ Nôm, có xen chữ Latinh lẫn con số, nét vẽ chi chít. Giọng y chìm hẳn:

    - Thế trận, dân tình, quân vụ... mọi chuyện đều ghi rõ, quân Tây, quân triều nguy đang thắt mạnh vòng đai. Hiện địch đang tung ra nhiều đội tuần tiễu, di chuyển bất thường, khắp các vùng. Tai hại nhất là lần nay chúng kỹ trước khi tiến đánh, dùng nhiều thổ hào trấn giữ các làng tổng, thả "lính đỏ" khắp nơi tìm bắt những người giúp ta!

    - Hừ! Bọn này mới nguy hại!

    - Tây đã dẹp xong các miền, hiện đang rảnh tay, mạnh thế, nhắm vào Phủ Lạng Bắc Giang. Dân gian tuy yêu quí ta, nhưng hiện như gà phải cáo! Thổ hào, dân giã Kinh, Mán, Thổ kẻ theo Tây vì cầu an, hoặc vì bạc "xoè", chỉ làm cho có chuyện; nhưng cũng lắm kẻ rất đắc lực, cậy thế mạnh, sục sạo, phá phách khốc hại! Đây, cậu Cả xem sẽ rõ!

    Hai người ngồi sát nhau, nói nhỏ to rất lâu. Dưới ánh lửa, cặp mày Cả Trọng nhiều phen nhíu lại, mắt như bốc cháy nhìn mảnh giấy trên bàn. Chợt "người ngoài lũng" cao giọng:

    - Còn viên Chánh tổng vùng Hữu Lũng...

    Cả Trọng bật ngồi thẳng lưng, hỏi dồn:

    - À, tên đó... sao? Chú đã gửi được tờ án thư cuối cùng cho hắn chưa?

    - Dạ! Đã gửi tới tay! Hắn xem xong cười ngất, đọc cho thủ hạ nghe, cùng cười rộ! Hắn bảo, hùm con rời hang ổ mò ra ngoài... sẽ thành dê con sa rọ, còn hòng doạ ai! Hắn còn lớn tiếng thề sẽ bắt hết những ai giúp du kích Yên Thế, và gửi cả tờ giấy lên Bắc Giang cho quân Tây để tỏ dạ trung thành!

    Cả Trọng gật gù, ngồi im. "Người ngoài lũng" hỏi khẽ:

    - Thưa, chẳng hiểu lệnh chủ tướng nhà... ra sao? Xem chừng kẻ ác đó không khi nào chịu hối cải!

    - "Người" bảo bất đắc dĩ mới phải tỉa lá sâu, vì tỉa đi, lá khác lại sâu, tỉa nhiều chỉ làm cho lòng người khủng khiếp! Phải bón cho cây tươi tốt, phải bắt sâu tận gốc! “Người" muốn đánh thẳng vào quân Tây, phá đồn trại, phá vỡ vòng đai hơn là tỉa từng con sâu con kiến!

    - Nhưng lúc này con sâu cái kiến đang phá hoạt, cắn đốt dân gian, làm nhiều người sợ không dám giúp ta! Nếu kẻ theo giặc không bị trừng trị, chúng sẽ đua nhau nhởn nhơ phò địch hại ta càng nhiều, và dân chúng sẽ chán nản, cầu an hết, vì không thấy thiện ác đáo đầu, không tin tài sức ta nữa! Trừ được kẻ ác cũng là bảo vệ cho người giúp ta! Theo ý kẻ này, giờ nên trừ sâu kiến, đợi khi mạnh sẽ cho một mồi lửa lớn!

    Cả Trọng trầm mặt, lặng lẽ rít một hơi thuốc lào, vẻ cân nhắc trước đề nghị của kẻ bộ thuộc, hồi lâu mới thong thả đáp:

    - Chú nói đúng! Ta sẽ định kế hoạch ngay đêm nay! Chú đã rõ hết địa thế rồi chứ?

    - Dạ...cả miệt Hữu Lũng, Nhã Nam, Phủ Lạng, Kép... tôi thuộc kỹ, còn trại viên chánh tổng đó thì rõ từng viên gạch, từng tay súng! Cậu Cả chỉ cần đem một đại đội tới là đủ!

    - Còn lộ trình và thói quen di chuyển của hắn?

    - Dạ, hắn đi đâu cũng đem theo ít nhất 30 tay súng! Hắn đi về bất thường, nhưng lại có lệ ngày thứ bảy hay ra tỉnh gặp quan thầy, chiều chủ nhật mới trở về Hữu Lũng. Như tối nay, hắn hiện có mặt ngoài Bắc Giang!

    - À, hay lắm! Chắc chắn hắn sẽ đi qua quan lộ?

    - Dạ, chắc chắn! Vì đó là con đường yên nhất, đầy đồn binh, nên hắn thường đi con đường đó về qua Hữu Lũng!

    - Được! Vậy chiều mai tên đó sẽ chết! Ta sẽ định giờ sau!

    - Cậu Cả đem binh phục đánh giữa ban ngày ư? Không nên! Tây hiện đang kiểm soát gắt, đường đó chạy giữa các đồn binh... Cậu Cả đừng vào trọng địa, nguy hiểm!

    - Chú yên tâm! Ta không tấn công mở trận với con kiến con sâu độc, ta chỉ cần một viên đạn! Sáng mai, chú theo làm hướng đạo, chỉ mặt hắn cho ta. Mình sẽ có thêm 3 tay súng vệ thuộc rừng!

    - Tất cả chỉ có 5 tay súng! Bẩm, liệu cậu Cả…có mạo hiểm, khinh xuất quá không?

    - Không ngủ kỹ, ăn no trước khi ra quân mới là khinh xuất! Giờ chú hãy đi ăn cơm rồi đánh một giấc cho đẫy. Sáng mai ta lên đường!

    …Núi rừng còn ngậm hơi sương, 5 thớt ngựa đã rời khu Tổng dinh Yên Thế, tiến về hướng chếch Đông. Cả 5 con ngựa đều thuộc loại chiến mã, giống ngựa Nước Hai Cao Bằng, đanh sắn, thạo đường núi quen vượt suối băng đèo, chạy kiệu băm, kiệu nhỡ rất êm.

    Đường xuyên sơn nhỏ hẹp ngựa đi hàng một, người Kinh trung niên đi trước, "người ngoài lũng” đi sát sau, Cả Trọng đi giữa, phía sau là hai thuộc hạ Kinh, Thổ. Kẻ mặc quần áo chàm, người quần áo nâu tứ than, riêng "người ngoài lũng" lại mặc áo the, khăn lượt giống nho sinh, còn Cả Trọng mặc đồ kaki, đội "mũ thuộc địa”, thắt lưng da to bản, vai khoác cây súng trường, sườn phải còn đeo thêm một khẩu súng ngắn, loại cối đạn 6 lỗ, thoáng trông như cai đội lính tập.

    Vào khoảng xế chiều, cả 5 thớt ngựa vụt hiện trên lưng chừng một ngọn đồi cách quan lộ khoảng 200 thước giữa vùng đồn binh Tây, ta san sát. Bên kia, xế trước đồi là một rặng núi nằm chênh chếch, quan lộ chạy uốn khúc qua, cách vùng Hữu Lũng độ hơn chục cây số.

    Năm người mồ hôi đẫm áo, cả 5 con vật cùng ướt sũng lông sau cuộc viễn hành. Cả Trọng vượt lên trước cùng “người ngoài lũng", dừng ngựa dưới một tàn cây rậm, 3 người tuỳ cận trấn 3 chỗ phía sau.

    Cả Trọng rút khăn lau mồ hôi và rút trong bao da ra một cái ống nhòm dài, loại viễn kính hải quân, chiếu xuống đường, rê một vòng rộng.

    Dân Kinh, Thổ qua lại từng tốp nhỏ, thỉnh thoảng có một tiểu đội kỵ binh tuần tiễu ngược rầm rập, xa chút bên kia đường một nóc lô cốt đôn Tây nhô lên trên cao điểm dòm về hướng Yên Thế. Xa tít nữa, phía hữu lại còn một đồn nữa, mạn sông Thương.

    Cả Trọng trao ống nhòm cho người hướng đạo. Y rê một vòng, thì thào:

    - Trọng địa! Ôi chao! Đồn Tây san sát, sao cậu Cả không chọn khúc dưới gần Hữu Lũng? Súng nổ, nếu lính Tây kéo ra, ta dễ lọt vòng vây!

    - Không sao! Chỗ trọng địa mới là chỗ bất ngờ nhất, địch sẽ không phòng bị, ta dễ hạ hơn ! Lính Tây kéo ra sao kịp! Nhớ cho kỹ: ta sẽ nổ ngay khi hắn đổ xuống chân dốc, khúc vòng cung đó! À, thường khoảng mấy giờ hắn về qua?

    - Thường vào độ 4 giờ, nhưng có khi muộn hơn không chừng!

    - Giờ mới 3 giờ chiều, xuống ngựa đợi thôi!

    Năm thầy trò rời yên ngựa. Cả Trọng ngồi dựa gốc cây, nhắm mắt lại, súng trường dựng bên cạnh. Cành lá che kín đàng trước, mấy tuỳ cận quan sát tứ bề, “người ngoài lũng" lướt lên cao chút đăm đăm dòm xuống đường cái.

    Thời gian nặng nề trôi. Từng phút, khắc khoải, hồi hộp, khó thở. Mặt trời tháng năm đã ngả bóng cây rừng, cột dây thép; ánh nắng xiên khoai vẫn còn hun nóng, nhưng sương lam vài dải đã bắt đầu dăng lê thê.

    Bốn giờ rưỡi…! Năm giờ…! Dưới đường, khách đi chợ về từng đoàn về vội vã, lác đác vài bóng ngựa thồ xuôi...

    Người hướng đạo bồn chồn, lẩm bầm:

    - Quái! Hay hắn không về chiều nay?

    Đột nhiên y vụt kêu khẽ:

    - Kia! Đúng bọn nó rồi! Cậu Cả!

    Y nhảy xuống, mấy tuỳ cận chồm ra vạch lá dòm. Cả Trọng mở mắt, rất chậm, nhấc cây súng đeo vai, mũi súng chỉ địa, lững thững tiến ra trước. Người hướng đạo trao lại viễn kính, trỏ xuống đường cái:

    - Cậu xem kìa! Đúng bọn nó!

    Cả Trọng rê ống kính chiếu theo ngón tay chỉ. Ngay trên ngọn dốc khúc đường lượn vòng thúng, vừa nhô lên một toán người ngựa lố nhố, đang phóng kiệu nhỡ đổ dốc theo hàng một, ngót 30 bóng mặc toàn quần áo vàng trông như lính tập. Cả đám đều đeo súng chỉ thiên, sườn dắt dao, kiếm tua tủa trông rất mạnh tợn.

    Thản nhiên như không, Cả Trọng đứng xoạc chân trái về đàng trước, trao ống nhòm cho "người ngoài lũng", khô giọng:

    - Nhìn cho kỹ xem tên Chánh tổng vùng Hữu Lũng đâu?

    - Hắn là kẻ phóng ngựa thứ tư! Chính tên cao lớn đội mũ vàng đó, cậu Cả!

    - Nhận rõ chưa? Chắc chắn không lầm chứ?

    - Dạ, lầm sao được! Tôi thuộc cả từ dáng dấp hắn mà!

    - Tha cho nó tội chết đường! Cho nó về tới cổng mới chết ! Nhớ lệnh ta: không ai được nổ súng! Sửa soạn, ta bắn xong lên ngựa rút ngay lập tức! - Cả Trọng bảo thuộc hạ.

    Dưới đường cái, từng bóng nhân mã phi nhấp nhô xuống cuối dốc. Người con trai "quan Hoàng" buông thõng tay phải dọc ngọn súng chỉ địa, đu đưa, ve vẩy nhẹ, thân hình chợt cứng đờ. Đột nhiên "người ngoài lũng" vùng kêu giật giọng:

    - Cậu Cả! Hắn đang vượt lên hàng đầu... kìa! - Miệng kêu, tay trỏ, mặt y ngoảnh sang nhìn chủ tướng. Nhưng... tiếng kêu chưa dứt, bỗng ngay lúc đó trời vụt tối sầm, nổi gió cuồng cuốn tung lá rừng, cát bụi vãi táp vào người ngựa mịt mù dưới đường. Trên đồi, người hướng đạo giật mình khi thấy người con cả "quan Hoàng", mặc kệ lá rừng tới tấp trút đổ xuống đầu, mặt như đàn bướm, bất thần vung mạnh cánh tay phải nửa vòng tròn, hất vụt ngọn súng trường lên đến “bạch” cái, nách đã kẹp phăng báng súng, đồng thời ngón tay trỏ dính luôn vào cò, bóp nghiến, nhanh như chớp. Mọi cử động như chỉ dồn vào một động tác. Đoàng! Tiếng đạn nổ xé rách không gian, át cả tiếng cuồng phong rung cây đổ lộc ào ào.

    Cả người hướng đạo vùng Hữu Lũng cùng đám tuỳ cận đều đổ dồn mắt dòm xuống đường cái, đúng lúc bóng cao lớn vừa vượt lên trước, xuống hẳn chân dốc, và trên ngọn dốc bỗng lại nhô lên 5,7 bóng kỵ binh Tây cao lênh khênh.

    Nhưng... viên Chánh tổng vẫn phóng ngựa đi như thường. Trên này, Cả Trọng lại hất "bạch" cái nữa, cây súng đã đeo gọn trên vai, chỉ thiên.

    - Thôi rút!

    Người hướng đạo vẻ băn khoăn hỏi lại:

    - Sao Cậu cả không bắn thêm phát nữa? Nó phi nhanh quá chắc không trúng rồi.

    Cả ba tuỳ cận kia cũng lộ vẻ thất vọng, mấy tay cò, nhưng dưới đường cái, qua mấy giây ngơ ngác phân tâm, bọn viên Chánh tổng Hữu Lũng đã chỉ súng lên đồi vừa bắn trả vừa thúc ngựa phi như bay trong gió bụi. Toán lính Tây trên dốc cũng hô to khẩu lệnh, nhất loạt bắn vãi lên đồi. Cả Trọng phất tay, thót lên ngựa, bọn tuỳ cận lật đật làm theo, 5 thớt ngựa quay đầu phi xuống sườn đồi bên này, lát sau đã rời khỏi khu vực trọng địa. Tiếng súng Tây bắn đuổi vẩn vơ vài loạt rồi im bặt...

    Trên đường trở về cứ địa, "người ngoài lũng" chừng nhịn không nổi, bật hỏi Cả Trọng:

    - Bẩm... liệu phát đạn cậu bắn có trúng hắn không? Bọn tôi thấy hắn vẫn phi như bay, không có vẻ gì là bị đạn! Hay… chỉ bị thương nhẹ?

    - Hắn về tới nhà sẽ chết. Ta hẹn cho tên Chánh tổng vừa dừng trước cổng, xuống ngựa và sẽ chết gục bên chân ngựa. Ta có ý tha cho nó tội chết đường đó!

    Người con cả "quan Hoàng" điềm nhiên đáp. Đám thuộc hạ chẳng ai dám hỏi nữa tuy trong lòng đều bán tín bán nghi!



    ***



    Hai ngày sau, "người ngoài lũng" mò về miệt Hữu Lũng, liền được tin viên chánh tổng kia chết thật rồi. Và chết đúng lúc về tới cổng, vừa xuống ngựa là gục luôn bên chân ngựa, đúng như Cả Trọng đã hẹn trước!

    Vừa mừng vừa sợ, y lần luôn tới trại của viên Chánh tổng, vờ phúng điếu chia buồn để dò hỏi. Thì ra, viên Chánh tổng vốn khoẻ mạnh, lại thắt một sợi dây lưng bằng da to bản, đeo bao đạn. Cả Trọng đã bắn vào mạng mỡ hắn, đúng ngay chỗ mép dây lưng, giữa lúc thân hình hắn đang nhấp nhô trên lưng ngựa phi. Nhờ mép da dây lưng hãm sức, viên đạn chui vào bụng vừa độ, lại thịt mỡ, nội tạng chỗ đó lùng nhùng, nhu năng chế cương nên đạn không phá dữ. Theo nhịp ngựa phi, người nhấp nhô theo, lỗ thủng được dây da bít chặt mấy giây lại để hở, cứ thế bít hở, hở bít, máu ứa ra rồi lại cầm theo nhịp dây da lên xuống. Và có lẽ, dù biết trúng đạn nhưng là chỉ bị thương nhẹ, lại sợ bị lọt ổ phục kích, hắn cứ giục ngựa phóng như bay cùng thủ hạ về tới trại ở Hữu Lũng. Tuy sức khoẻ hơn người, song trong suốt quãng đường dài chục cây số máu cũng rỉ ra nhiều. Khi về tới cổng , vừa rời lưng ngựa, việc đầu tiên là hắn cởi vội dây lưng da để xem vết thương nặng nhẹ ra sao. Dây lưng vừa cởi, máu lập tức tuôn chảy ộc ra sau cả nửa giờ bị tức nghẽn, ướt đẫm áo quần. Thủ hạ xúm vào cấp cứu nhưng đã muộn, hắn chỉ kêu được một tiếng rồi gục xuống tắt thở luôn bên chân ngựa!*
     
    meetdak, tducchau, nhan van and 2 others like this.
  15. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TÌNH YÊU TRUYỀN KIẾP
    Truyện ngắn của Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh


    Mưa phùn, gió bấc. Trời rét căm căm, mây mù sa thấp. Một đêm thượng tuần tháng chạp.

    Hà Nội về khuya vắng lặng, hàng cây bên đường ướt át rủ bóng vật vờ, gió đưa xào xạc. Bóng đèn điện kẻ từng hàng thẳng tắp, xa hun hút mặt phố dài võng xuống như trĩu nặng nỗi buồn đêm mưa. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi ướt loáng chạy vụt qua, bánh xe nghiến nước tung toé, hắt cả lên khách bộ hành lướt thướt đi dưới hàng hiên.

    Bờ hồ Gươm liễu rủ, mỗi cơn gió thổi, vài chiếc lá vàng bay dật dờ chao qua chao lại trong ánh đèn vàng vọt rồi đáp xuống mặt hồ trôi đi, lạc lõng...

    Từ trong bóng cây, một bóng người lặng lẽ đi ra gần bờ nước, hờ hững bước lên cầu Thê Húc, đứng nhìn mặt nước hồi lâu, khẽ buông tiếng thở dài. Ánh đèn soi mặt người tuổi trẻ đậm nét tư lự. Chàng ta đội mũ “phớt", mặc "măng-tô-xan”, ngoài khoác áo mưa, dáng cao, lẳn người, trông vẻ phong lưu. Ngang qua vũ trường Taverne Royale, bước chân người tuổi trẻ chợt chậm lại, tiếng nhạc từ trong hắt ra dập dìu.

    Bỗng từ xa, phía Nhà Kèn, một chiếc xe hơi đít vịt đang phóng vùn vụt tới chợt “phanh" gấp. Tiếng xe thắng bất thần khiến chàng trai giật mình quay lại cau mày nhìn.

    Một người đàn ông trạc ba mươi, cao to như lực sĩ, khoác pa-đờ-xuy màu xám nhạt, đẩy cửa xe bước vội xuống nói như reo:

    - Dũng! Ôi chao! Đêm khuya mưa gió, sao lại lang thang bờ hồ thế này?

    - À… Đạt! Mình đi tản bộ chút! Đêm nay tự nhiên mình lại thấy trống trải, bâng khuâng như nhớ... dĩ vãng xa xôi tự kiếp nào!

    Chàng tuổi trẻ tên Dũng nhếch miệng cười khó hiểu, vỗ nhẹ vai bạn. Hai người là bạn thân. Hoàng Đạt lớn hơn Dũng mấy tuổi, võ sĩ quyền anh nổi tiếng, hiện làm huấn luyện viên, mở phòng tập tại Hà Nội Ngoài môn đánh "bốc”, Đạt cũng dạy cả võ Trung Hoa, đặc biệt còn thông thạo khá nhiều kỳ môn dị thuật bí truyền, do từng giang hồ ngược xuôi các miền biên địa ma thiêng nước độc. Còn Trần Dũng hiện là sinh viên. Chàng và Đạt gần nhau qua cái duyên võ nghệ. Dũng thích văn chương thơ phú, trọng văn học nhưng cũng chuộng côn quyền, ưa nghiệp võ. Tính rất đa cảm, thường được bằng hữu gán cho cái tên "Dũng thi sĩ”.

    - Mình kiếm chỗ nào giải sầu đi, Dũng! Cậu thích Taverne Royale này hay lại đằng Bồng Lai?

    Đạt ân cần nhìn Dũng, vẻ cảm thông tâm trạng người bạn đa sầu.

    - Ồ! Cậu biết đó! Tớ không hợp lắm với không khí vũ trường...

    Đạt cười xòa, kéo bạn lên xe.

    - Vậy thì trực chỉ... cao lâu Hàng Buồm! Hà! Với thi sĩ thì chỉ có Trúc Diệp Thanh, Mai Quế Lộ mới nguôi ngoai nỗi sầu vạn cổ! Hà hà!

    Xe qua mấy dãy phố, đến khu Hàng Buồm. Hoàng Đạt chọn một hiệu ăn khách trú quen thuộc mời bạn vào. Hai chàng lên gác tìm một bàn sát ban-công vừa trò chuyện vừa ngắm nhìn phố xá rét mướt, tận hưởng cái phong vị của Hà Nội đêm mưa.

    Đạt luôn miệng giục bạn ăn, nhưng Trần Dũng chỉ uống nhiều hơn, vẻ mặt càng lúc thêm trầm mặc, nhiều lúc quên cả đối đáp với bạn.

    Hoàng Đạt đã quen với tính cách của Dũng nên chỉ cười, không chấp. Từ khi thân nhau, Dũng hường kể về tâm trạng buồn vẩn vơ không căn cứ của chàng. Đạt xem đó là một căn bệnh mà.những kẻ lãng mạn thường mắc phải. Có lần chàng đã bảo thẳng Trần Dũng như vậy, nhưng Dũng lắc đầu phản đối:

    - Cậu không hiểu! Chẳng phải mình giống như các tay “lãng mạn còm” ấy đâu!

    Chàng sinh viên tỏ vẻ khổ sở khiến Đạt ái ngại bèn lảng sang chuyện khác. Bụng vẫn cho rằng bạn lãng mạn, giàu tưởng tượng. Nếu chẳng vì ngại Dũng chạm tự ái có lẽ Đạt đã khuyên bạn tới gặp một đốc-tờ chuyên khoa tâm thần!

    Chính căn bệnh quái gở đó đã lôi Dũng ra khỏi giường, đẩy chàng đi lang thang vô định giữa kinh thành Hà Nôi trong đêm trước khi Đạt tình cờ gặp.

    - Thêm một bình nữa nhé?

    Đạt hỏi bạn. Trần Dũng châm điếu xì gà thứ hai, gật gù chưa kịp đáp bỗng có tiếng chân chạy rầm rập lên cầu thang. Thực khách ai nấy cùng quay lại nhìn. Một người đàn ông đội mũ dạ, trạc bốn mươi, vụt nhô lên dòm nhớn nhác vẻ muốn tìm ai đó.

    - Kìa! Chú tài Lực!

    Trần Dũng nhác thấy vội gọi giật. Người kia nhận ra chàng, hấp tấp bước lại, kêu lên:

    - Cậu Ba! Trời! Tôi đitìm cậu từ bảy giờ tối đến giờ! May quá !

    Hai người tuổi trẻ cùng thoáng giật mình, Trần Dung đứng phắt dậy hỏi dồn:

    - Chuyện gì thế?

    Tài Lực, người lái xe cho cha Trần Dũng dưới Nam Định, vừa thở vừa đáp:

    - Cụ lớn ở nhà lên cơn đau, truyền lên đón cậu về gấp! Xem chừng cụ… khó qua nổi! Cụ bảo có chuyện hệ trọng cần gặp cậu Ba!

    Dũng hoảng hốt:

    - Còn các anh tôi?

    - Bẩm... Cậu Cả, cậu Hai chắc đã về Nam Định đủ cả rồi.

    Trần Dũng quay nhìn Hoàng Đạt. Không đợi bạn nói, họ Hoàng khoát tay:

    - Mình cùng về Nam với cậu!

    Ba người rời khỏi hiệu ăn. Mấy phút sau hai chiếc xe hơi xả hết tốc lực phóng trên quốc lộ như tên bắn.

    Hơn hai giờ khuya mới tới Nam Định. Mưa vẫn sụt sùi. Hai chiếc xe dừng trước một tòa nhà lớn trên phố. Trần Dũng, Hoàng Đạt theo tài Lực phóng lên thềm. Gia nhân nam nữ, họ hàng thân thích đứng đầy trong phòng khách. Một người trạc ba mươi, dáng mập mạp từ trên gác chạy xuống, nắm tay Dũng ứa nước mắt, giọng chìm hẳn:

    - Chú Ba! Chú về hơi muộn! Thầy vừa "đi" được nửa giờ!

    Trần Dũng bàng hoàng đứng lặng. Người vừa nói chính là Trần Thường, anh cả của Dũng. Chàng theo mọi người lên gác. Trong căn phòng cổ kính, cựu Tổng đốc Trần Hùng nằm ngay ngắn trên giường, mặt phủ tờ giấy bản trắng toát. Trần phu nhân ngồi cạnh khóc nghẹn.

    Dũng cúi xuống lật tờ giấy bản nhìn mặt phụ thân. Phu nhân gạt lệ bảo:

    - Thầy bỗng lên cơn bạo bệnh, lập tức cho tìm các con về! Nửa giờ trước thầy còn hỏi! Thầy có chuyện quan trọng muốn nói với con!

    Dũng lấy khắn lau nước mắt, ngạc nhiên hỏi:

    - Thưa, chuyện gì đó mẹ? Sao không nói với hai anh con?

    Trần phu nhân chợt đưa mắt ra hiệu cho mọi người lui ra hết, trong phòng chỉ còn

    lại ba người con trai lớn.

    - Thầy "đi" hồi một giờ ba mươi lăm phút, lòng ân hận vô cùng vì không cho con biết sớm! Thầy chỉ trối những việc bình thường, còn việc chính như chúc thư và “việckia" thầy dặn phải chờ tổ phụ về định đoạt!

    Trần Dũng không khỏi cau mày hỏi lại:

    - Chờ tổ phụ về ư? Tổ phụ nào? Thầy mê sảng đến thế sao?

    - Không đâu! Thầy tỉnh táo cho đến khi nhắm mắt!

    Người anh cả Trần Thường lắc đầu xen vào nói:

    - Tôi cũng nghe thầy trối mọi chuyện để cụ tổ về định đoạt! Và theo đúng di ngôn lập nguyện của giòng họ Trần ta, thì chính chú là... cụ tổ!

    - Trời! Anh cũng… loạn trí rồi ư?

    Trần Dũng sửng sốt kêu lên. Nhưng Trần phu nhân đã nghiêm giọng nói luôn:

    - Dũng! Anh cả con không loạn trí. Chỉ có con chưa biết chuyện bí ẩn của giòng họ Trần ta, vì thầy con đã do dự suốt hai mươi mấy năm chưa dám cho con rõ!

    Ánh nến lắt lay hắt tỏa lên gương mặt phu nhân mờ ảo, giọng bà trầm trầm xa xăm như từ dĩ vãng vọng về:

    - Chuyện như vầy! Ngót trăm năm xưa, cụ tam đại các con làm võ tướng triều đình, chống giặc khắp các miền thượng du đất Bắc. Thường cùng Tôn Thất Thuyết, Hoàng Kế Viêm, Ông Ích Khiêm hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đánh quân Tây Dương, quân Cờ Vàng của Hoàng Sùng Anh, Cờ Trắng Bàn Văn Nhị... Cụ nhà ta văn võ kiêm toàn, làm đến chức Tĩnh Biên phó sứ thì mất bởi một cơn đau ngực lạ lùng! Trước khi thác người có di ngôn lại là sẽ... trở về cõi thế, đầu thai vào cửa nhà Trần ta! “Người" có viết tên họ “người" vào hai lòng bàn chân, hẹn con cháu về sau nếu đẻ con trai cứ thấy ai có hai chữ dưới lòng bàn chân tức đó là “Người"! Sau này, con cháu vẫn giữ kín di ngôn đó, nhưng ông nội con sinh nhiều con vẫn không thấy! Đến đời thầy con, lần thứ ba mẹ vừa chuyển bụng đẻ ra con, ai nấy đều giật mình, thấy chữ ở bàn chân mới biết lời nguyện xưa đã ứng! Cụ tam đại trở về dương thế vì chuyện bí mật nào đó chưa ai được rõ! Trần Dũng hãy xem lại lòng bàn chân của con đi!

    Dũng vội cởi giầy, vớ, soi nến xem lòng bàn chân mình. Thật ngoài sức tưởng tượng! Lòng bàn chân phải có chữ Trần, chân trái có chữ Dũng, mờ mờ nét chàm xanh! Từ thuở bé đến giờ chàng trai chưa khi nào để ý thấy, vì chúng cũng hơi giống các nét chỉ ngang dọc thường có!

    - Thầy con để di vật trong tay! Chỉ riêng con mới được nhận! Chuyện bí mật liên quan đến... chứng bệnh đau ngực di truyền của giòng họ Trần ta!

    Nghe mẹ nói, Trần Dũng vội ngó kỹ thi hài phụ than, lúc đó mới nhận thấy hai bàn tay ông vẫn nắm chặt, không ai gỡ nổi!

    Chàng trai bàng hoàng kinh dị lặng đi, hồi lâu mới run giọng khấn:

    - Nếu con là tằng tổ phụ đầu thai, xin cho nhận di vật.

    Lạ thay! Dũng vừa chạm , tay ông cụ đã mềm như bún. Bàn tay trái ông có một mảnh giấy gấp nhỏ, nét chữ thảo đã run hẳn:

    “Di vật tổ phụ để trong hộp “sắc". Chỉ mình Trần Dũng mới được lấy chìa khóa mở hộp đó. Xin tha tội đứa cháu nội bất hiếu đã có lúc định quên di ngôn tổ phụ”.

    Chàng trai cúi đầu, cầm lấy chùm chìa khóa rồi một mình bước sang gian phòng thờ.

    Ánh nến vật vờ úa vàng trên bàn thờ. Trần Dũng nhìn dãy bát hương, bài vị, thần chú xếp đặt trên đó, bỗng giật mình đọc thấy hai chữ “Trần Dũng" trên bài vị tằng tổ phụ! Sau bài vị có đặt một hộp “sắc" dài chạm trổ, sơn son thiếp vàng.

    Dũng mang xuống đặt lên chiếc bàn độc thấp, lựa chìa khóa mở ra. Trong hộp đầy “sắc" vua phong. Dưới đáy còn một tầng kín, mở ra thấy có một khẩu súng lục cổ, một thanh gươm, một chiếc tù và bằng sừng linh dương, một tấm họa đồ đặc biệt và một cuốn sách nhỏ, bìa bằng da báo gấm, ngoài có tấm biển vàng khắc hàng chữ:

    “Tĩnh Biên phó sứ Trần Dũng di thư”.

    Bồi hồi, chàng trai mở sách ra. Trang đầu có mấy hàng chữ Hán lớn, viết lối chân phương:

    "Cái văn: phụ tác tử thừa, thử chi vị kế, bất cải ư tổ tông chi đạo, khả vị hiếu hĩ” (Thường nghe: Cha làm con theo đó là nối, không đổi đạo tổ tiên, ấy là hiếu).

    Các trang sau viết theo lối chữ Nôm thảo coi rất hoa mỹ, tỏ rõ tay bút tài hoa khác người:

    “Chúc thư lập nguyện của Trần Dũng để lại cho con cháu, chi phái trực hệ going Trần ta. Ta cầm bút thảo những dòng này khi lên cơn đau tức ngực, linh cảm sắp gần đất xa trời, và biết chắc là chứng bệnh quái gở này sẽ thành bệnh di truyền trong chi phái nhà ta. Lỗi tại ta hay tại số mệnh?

    Ta sinh ra trong cửa tướng, từ nhỏ chỉ biết phòng văn, trường võ, lớn lên xông pha trăm trận, chỉ biết vui với mũi tên, hòn đạn.

    Nhưng gặp hồi vận nước suy vi, quan hủ quan tham đầy cõi, đến nỗi để mất nhân tâm hơn dị tịch, ta biết dẫu có lầy gan nát óc, dày công hãn mã cũng khó mong xoay lại nước cờ. Tuy vậy, đã làm tướng không lẽ cúi đầu khuất phục? Ta đánh trận suốt Bắc, Trung, Nam; đương thời đã sống dưới cờ Hoàng Kế Viêm, Tôn Thất Thuyết, Ông Ích Khiêm, cùng đánh quân Tây Dương, đánh giặc Cờ Vàng, Cờ Trắng. Và hồi cùng ông Thuyết đánh Cờ Vàng, tháng tám năm Ất Hợi (1875), trong trận đất Vĩnh Tường, chính ta đã bắn què Hoàng Sùng Anh và bắt sống y!

    Ta lại quen thân với tướng Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc và con nuôi Lưu là Woòng Nhì.Ta thường được cử hợp binh triều đình với quân Cờ Đen đánh Tây Dương. Ngày tướng Cờ Đen Bá Dương bắt sống Henri Rivière tại Cầu Giấy, ta cùng Lưu nằm miệt Phùng bày kế.

    Nhưng sau triều đình phải ký hòa ước với Tây Dương, sai người ra Bắc triệu các tướng về và báo cho Lưu Vĩnh Phúc biết. Lưu cứ đánh. Ta hợp với Lưu tiếp tục mở trận khắp các miền Sơn Tây, Phú Thọ, Tuyên Quang, lên tận Lào Cai...

    Ngày kia Tây Dương tụ quân mạnh đánh tràn, chúng ta phải rút vào rừng. Một đêm ta cùng Woòng Nhì xuyên sơn sang miền Phong Sa Ly đánh địch, không ngờ lại bị địch phục chặn ngay tại biên thuỳ. Quân thua tứ tán, ta bị thương một mình một ngựa chạy bừa, tới miền ba biên giới bỗng lạc vào một cõi thần tiên của bà Chúa Ngàn. Cõi này không ai đến nổi, có núi Bạc, núi Vàng, có nguồn nước trường sinh. Bà Chúa Ngàn ngự trị đã nhiều thế kỷ nhờ nguồn nước lạ đó. Bà chữa thương cho ta, và như có tiền duyên nên vừa gặp, ta cùng bà đã yêu nhau tha thiết!

    Nhưng ta còn vợ con, còn nghĩa vụ, nên nửa năm sau ta ngỏ ý đòi về thu xếp việc riêng, hẹn năm năm sẽ trở lại với nàng.

    Nàng trao cho ta một bình nước, một cái sừng linh dương, nghẹn ngào bảo:

    - Ai đã vào Ngàn này, uống nước ăn cơm, ngửi hương hoa đều có thể trường sinh. Tuy nhiên, nếu một ngày không có nước Ngàn sẽ thắt tim mà thác! Bình nước này chàng giữ cẩn thận, mỗi ngày uống một ngụm, lau mình một ngụm, đủ năm năm chàng trở lại, thiếp chờ. Chàng cứ an lòng lo việc đời, dẫu sao dời vật đổi, thiếp vẫn chờ. Dù hàng năm, hàng thế kỷ, đời đời! Kiếp này nếu chàng gặp tai biến, thiếp sẽ chờ kiếp sau, kiếp sau nữa! Hãy tới vùng tháp Cửu Thiên, thổi chiếc sừng linh dương, thiếp sẽ ra đón chàng. Xin chàng chớ phụ! Đừng để bệnh thắt tim thành bệnh lưu truyền cho con cháu! Ngoài đời còn loạn!

    Ta cảm động đỡ lấy, cùng nàng ân ái biệt ly, khi tỉnh dậy đã thấy nằm trên tháp, mùi da thịt nàng còn ướp nồng ngực áo.

    Ngựa buộc ngay chân tháp. Ta lên ngựa ra roi, xuyên lâm tìm về bản dinh Lưu Vĩnh Phúc. Lưu đã về Tuyên Quang. Ta lần về Tuyên, may gặp Woòng Nhì, Woòng đưa ta đi gặp cha nuôi. Chủ soái Cờ Đen, Đề đốc Nam triều đang nằm hút thuốc phiện. Trông ông già hẳn đi. Giọng Lưu thật bi hùng:

    - Triều đình ký hoà ước nhận cuộc bảo hộ rồi! Tây Dương lại nhờ triều đình Mãn Thanh triệu Lưu này về trấn Đài Loan! Nhưng nhiều tướng không chịu! Tướng Tây mới đánh Sơn Tây, Hưng Hóa, sắp đánh Tuyên Quang! Hoàng Kế Viêm về Huế rồi! Lưu này đánh trận tai đây đã hai mươi năm, giờ vẫn giúp nước Nam! Tiên sinh tính sao?

    Ta nắm tay Lưu cảm động, thâm tâm định sẽ trông vào núi Vàng, núi Bạc của bà Chúa Ngàn, lây tiền mộ quân cùng Lưu hợp chiến

    Ta bèn lẻn về Sơn Tây đem gia đình lên Tuyên Quang.

    Ngay hôm sau Tây tiên đánh Tuyên Quang. Ta cùng quân Cờ Đen vừa chặn vừa rút, nào ngờ lúc đã đóng yên trong rừng, xem lại mới hay bình nước Ngàn đã bị đạn xuyên thủng lỗ chỗ, nước quí đã cạn từ lâu.

    Hỡi ôi! Nghiệt số! Mắt ta đã hoa, tim đang thắt! Không! Ta sẽ trở lại gặp nàng! Ta viết tên vào lòng bàn chân vì sợ sẽ quên tiền kiếp mình! Hỡi con cháu! Nếu đẻ ra kẻ có tên dưới chân, là ta đó! Hãy trao chúc thư cho Trần Dũng hậu thân! Trần Dũng! Hãy tìm tới xứ Ngàn, dẫu đã lâu hàng bao thế kỷ! Nàng đang chờ cố nhân! Giòng họ ta sẽ khỏi bệnh di truyền! Nếu không tin, ngươi có quyền đốt hết di thư, di vật, sống đời cháu chắt, coi tất cả chỉ là cơn mê sảng của tiền nhân! Nếu đi, hãy chờ năm Tý, năm Trần Dũng về trần, vì ta lập nguyện sẽ trở lại xứ Ngàn vào năm Tý!".

    Chàng tuổi trẻ gấp chúc thư lại, lòng bàng hoàng như đang trong cõi mộng. Rất lâu chàng khẽ thở dài, cúi xem lại lòng bàn chân rồi nhìn lên tấm bài vị cụ tam đại, lẩm bẩm:

    - Chân có chữ, sinh năm Tý, ta là hậu thân tằng tổ phụ! Giờ ta mới hiểu vì sao từ ngày có trí khôn ta hay buồn mang mang như nhớ về dĩ vãng xa xăm...!



    ***


    Ba biên giới...

    Miền giao địa Việt - Trung - Lào...

    Theo họa đồ của cụ tam đại Trần Dũng Tĩnh Biên phó sứ, chàng trai họ Trần cùng Hoàng Đạt, thêm Ngọc Bích - người yêu của họ Hoàng, lần mò khắp rừng thăm khe sâu, lang thang mãi để tìm tháp Cửu Thiên. Nhưng đã gần tuần lễ trôi qua vẫn không ra manh mối. Hỏi thổ dân, ai cũng sợ sệt lắc đầu, bảo đấy là “tháp ma tháp quỉ", nếu ai trông thấy sẽ quên đường về.

    Một ông lão ngoài bảy mươi tuổi ở vùng Apuchải cho biết: đã hơn thế kỷ nay chưa ai gặp được tháp đó!

    Cả ba người trẻ tuổi không nản chí, cứ đi. Rồi một buổi hoàng hôn ba mươi tết, ba người đến một vùng hoang tịch không vết chân người . Vừa lên tới một đỉnh đèo cao, bỗng thấy hình ngọn tháp kỳ dị đằng xa, mây khói mịt mù.

    - Kia rồi!

    Cả bọn bật kêu sửng sốt, mừng rỡ, lập tức giục ngựa tiến tới. Đường mòn đã bị xóa nhoà tự bao giờ, may sao xuống chân đèo lại gặp một dòng suối chảy về hướng tháp. Trông tưởng gần, ngờ đâu vừa phát dây leo, cỏ lau , vừa đi, mãi tới khi trời tối mịt mới đến chân tháp. Trời đêm đen như mực. Gió thổi vi vu, khí lạnh ghê người. Ba con ngựa sợ hãi cứ hí loạn chực phá chạy, bọn Trần Dũng phải vất vả mới ghìm lại được.

    Hoàng Đạt chiếu đèn rê ngược từ dưới lên. Tháp bằng đá xanh, rêu phong phủ đầy dây leo chằng chịt lên tận tầng thứ ba. Có giống leo tận ngọn, lá vật vờ.

    Ngọc Bích rùng mình bảo hai chàng:

    - Này! Sao trông có vẻ nặng nề âm khí lạ!

    Dũng, Đạt đưa mắt nhìn nhau, cùng chung ý nghĩ như nàng.

    - Hừ! Bất kể thế nào, đã đến thì phải vào thôi!

    Chàng võ sư trao đèn cho người yêu, rút soạt lưỡi dao rừng phát quang lối đi dắt ngựa lên trước.

    Lát sau, một bếp lửa cháy rực được nhóm lên giữa nền tháp, xua bớt lãnh khí.

    Trần Dũng xem đồng hồ, vẻ tư lự:

    - Hơn mười giờ rồi! Chỉ còn một lát nữa là sang năm Tý... năm "Người” lập nguyện trở lại xứ ngàn!

    - Tớ hiểu! Nhưng giờ này hãy còn sớm, ăn uống cho lại sức cái đã! Cố nhân trùng phùng, chớ để nàng thấy mặt mũi tình lang ủ dột vì... đói bụng!

    Đạt gượng bong đùa, che dấu nỗi xúc động.

    Ăn uống xong đã quá mười một giờ đêm, Trần Dũng chừng nóng lòng, đứng vụt lên.

    - Tớ ra ngoài chuẩn bị trước! Sắp đến giờ lên tháp!

    Chàng quơ bọc hành trang bước ra liền. Mươi phút đã thấy một viên võ tướng thời cổ mặc giáp, đội mũ trụ, đeo súng, tay xách gươm đi vào.

    Dù đã biết trước, Hoàng Đạt, Ngọc Bích vẫn không khỏi giật mình, tưởng như một hình bóng vừa từ dĩ vãng hiện về.

    - Ồ! Dũng!

    Trần Dũng mặc võ phục của cụ tam đại, mặt lộ vẻ khắc khoải, bồn chồn đi tới đi lui trong tháp.

    - Hai bạn ở dưới này, tớ lên trên xem sao!

    - Khoan! Để bọn này cùng lên! Tháp hoang lâu năm e có lắm độc xà, độc vật!

    Đạt, Bích cùng đứng lên. Chàng võ sư rút khẩu pạc-hoọc, lăm lăm đề phòng bất trắc, đoạn chiếu đèn đi trước mở đường.

    Vừa lên tầng hai , bỗng "rào” một tiếng, dây leo xao động, một con trăn gió cực lớn phóng vụt tới. Không chậm một giây, Đạt vẩy súng.

    - Đoàng!

    Con trăn rớt xuống nền đá giãy dụa, quật đuôi rầm rầm. Ngay lúc đó lại một con nữa từ đâu quặng vèo tới, ngay đầu gối. Đạt vội quay đèn, súng định nổ tiếp nhưng đầu trăn đã chạm ống quần.

    Phập!

    Đầu trăn rụng "bộp". Trần Dũng từ phía sau vọt lên theo đường gươm. Ba người lên tầng ba, suýt bị rắn rết cắn. Lên tầng bốn, năm suýt bị ong độc đốt. Thang đá rêu trơn khiến Ngọc Bích trượt chân mấy lần suýt ngã. Mấy phút sau cả bọn tới tầng chín cao chót vót.

    Khí lạnh thấu xương, gió vù vù, tháp hoang quạnh quẽ, trên có treo một quả chuông, đầy bụi, rêu.

    Ba người bước ra lan can nhìn về hướng Tây Bắc. Dãy núi đá sừng sững in vào nền trời, âm u như quái tượng biên khu đêm hoang tịch. Trần Dũng càng lúc càng thêm khắc khoải, chốc chốc lại xem đồng hồ.

    Mười hai giờ. Giao thừa rồi. Đã sang năm Tý.

    Chàng trai họ Trần xúc động, thở mạnh liền mấy hơi đoạn từ từ đưa chiếc sừng linh dương lên miệng thổi.

    Trong khoảnh khắc, Hoàng Đạt, Ngọc Bích cùng lặng người trước âm sừng phát ra vang lên, bay vãi trong không gian. Trần Dũng mới tập thổi tù và được ít ngày, nhưng âm thanh nghe nổi chìm thê lương lạ lùng, lan truyền xa hút...

    Dứt ba hồi, vẫn chẳng thấy gì lạ! Dũng thổi ba hồi nữa, vẫn im. Nhưng vừa dứt hồi thứ chín, thì lạ thay, từ dãy núi cao ngất âm u kia bỗng có tiếng tù và linh dương nổi lên, vọng tới tháp đúng chín hồi rền rĩ thê lương, nghe như vọng âm chậm của tiếng tù và Trần Dũng vừa thổi.

    Cả bọn nín thở.

    Bỗng nghe dưới chân tháp xôn xao rồi tiếng người , tiếng ngựa, có tiếng đàn bà thánh thót đưa lên:

    - Trần Dũng Tĩnh Biên phó sứ đã tới đó sao? Trời ơi! Thiếp đợi chàng đã gần thế kỷ!

    Cả ba cùng giật mình sửng sốt, Trần Dũng vùng phóng tới đầu cầu thang. Ánh đèn lồng cổ kính dập dềnh huyền ảo, một đám gái hầu phò một nữ lang mặc lối các cô nàng sơn cước đi lên, gót sen thoăn thoắt, hương thơm ngạt ngào. Nữ lang lên hẳn trên, đẹp như tiên giáng trần. Nàng nhìn Trần Dũng thỏ thẻ:

    - Lang quân! Sao chàng tới chậm thế? Nơi Ngàn thiêng thiếp đếm từng khắc chờ

    mong! Ôi! Chàng vẫn trẻ như xưa!

    Trần Dũng có vẻ lúng túng:

    - Ngày ấy"Người" về xuôi không may lâm trận thủng bình nước quí. Mãi đến đời cháu 3 đời Trần Dũng này mới được biết tiền thân!

    Nước mắt chảy thành giòng, nữ lang bước tới gục vào ngực Dũng:

    - Hãy theo thiếp vào Ngàn... nối lại duyên xưa.

    Như mê, Trần Dũng để mặc nàng dắt đi. Bất thần Hoàng Đạt vụt lại, quát dữ:

    - Yêu nghiệt! Không được hại bạn ta!

    Cả hai cùng quay mặt lại, nữ lang cau mày liễu:

    - Chàng này là ai, sao dữ thế?

    Dũng có vẻ không vui:

    - Đạt! Điên sao? Y hồi tù và rứt, nàng ra đón! Đây là Bà Chúa Ngàn!

    Đạt lạnh lùng:

    - Tới nhanh như gió thoảng, đâu phải người trần! Nếu là tiên tất không sợ súng ống!

    Dứt lời chàng trai họ Hoàng chĩa pạc-hoọc nổ luôn một phát giữa ngực nữ lang. Nàng vẫn đứng yên, mỉm cười. Đạt lại rút soạt ra một thanh gươm gỗ quấn chỉ ngũ sắc quát:

    - Đây là gươm lệnh của thầy phù thủy, nếu chịu nổi, không phải yêu ma!

    Véo! Gươm gỗ chém lia, nữ lang buông Dũng nhảy vụt xuống thang. Đạt phóng gươm theo. Rào! Một cơn gió lạnh, cả lũ gái hầu cũng biến theo ánh đèn lồng. Có tiếng rú mơ hồ. Đạt chiếu đèn bấm đuổi theo. Thanh gươm gỗ cắm ngay kẽ cửa sổ chân thang tầng tám, thành cửa sổ có mấy giọt máu đen như mực. Đạt lấy gươm đuổi theo nữa, Trần Dũng, Ngọc Bích cũng theo sát.

    Nhưng xuống đến tầng dưới cùng vẫn không thấy gì, ngó ra ngoài chỉ có mấy con ngựa buộc đó. Ba người đang rê đèn bấm quanh chân tháp, bỗng lại nghe tiếng đàn sáo véo von lẫn tiếng nhạc ngựa khua, rồi ánh lửa bập bùng từ xa chuyển nhanh tới. Có tiếng đàn bà truyền lanh lảnh như khánh vàng:

    - Mau lên! Không khéo nó đã hại chàng rồi! Trời ơi!

    Một đám hàng trăm thổ dân, gươm đao sáng lòa theo dòng đuốc kéo tới chân tháp. Có tiếng hô lớn:

    - Bẩm Chúa Ngàn! Có ba người! Ai là Trần tướng quân?

    Đám đông dàn hàng, để hở một đường trống. Một bọn gái mặc theo lối Thái Đen phò một bà nàng mặc lối Thái Trắng, ngoài khoác áo choàng, cưỡi con ngựa bạch phi lên, dừng rập bên thềm tháp. Vừa thấy Trần Dũng, nàng kêu thánh thót:

    - Trời! Lang quân đây! Thiếp đợi chàng đã ngót trăm năm, chàng ơi!

    Dũng, Đạt, Ngọc Bích cùng nhìn sững. Bà Chúa trông chỉ trạc hai mươi, đẹp tuyệt trần, từ mặt mũi, dáng vẻ toát ra vẻ đài các quí tộc, phảng phất nét uy nghi lạ thường.

    Trần Dũng chưa kịp lên tiếng, Hoàng Đạt đã đâm thử gươm son vào tay nàng. Nàng vẫn ngồi yên, vẻ ngạc nhiên, rồi như chợt hiểu:

    - A, phải con tinh tháp Cửu Thiên vừa hiện hình? Công tử tưởng ta là gái hồ ly ư?

    Đạt thu gươm, lộ vẻ kinh ngạc:

    - Trời! Tiền nhân để chúc thư không phải vì mê sảng! Bà Chúa Ngàn thật đây ư?

    Chúa Ngàn giơ tay, gái hầu đỡ xuống ngựa. Nàng tiến lên thềm nhìn Trần Dũng, nước mắt ròng ròng:

    - Trần tướng quân! Khi Tĩnh Biên phó sứ chàng về xuôi, quá 5 năm không trở lại, thiếp biết chàng đã lìa đời vì hết nước quí! Nhiều lần thiếp định quyên sinh, nhưng nhớ lại lời ước hẹn nên cố chờ... đến nay!

    Dũng bỗng nghẹn ngào, ngùi giọng:

    - Trần Dũng xưa lâm trận, bị thủng bình cạn nước mãi đến kiếp này mới nhận được tiền thân nhờ xưa có viết chữ vào lòng bàn chân làm chứng tích! Mấy đời cách biệt, may giờ được gặp lại nàng... trong kiếp này.

    Hai người ôm chầm lấy nhau. Chàng trai họ Trần bàng hoàng trong vòng tay người đẹp tiên triều. Nàng thỏ thẻ:

    - Lang quân giống xưa như đúc một khuôn, chỉ khác kiếp này chàng trẻ hơn xưa khi gặp thiếp!

    Hoàng Đạt buột miệng:

    - Dũng có râu quai nón, nếu để chắc cũng giống hệt... bức vẽ truyền thần cụ tam đại.

    Chàng lại nhìn bà Chúa Ngàn lẩm bẩm:

    - Có thể nào người ta trẻ mãi vậy chăng?

    Chúa Ngàn hơi mỉm cười, giải thích:

    - Trong Ngàn có nguồn nước từ ruột quả đất phát ra, tụ kết tinh hoa sinh khí ngũ hành, uống vào, tắm rửa sẽ bồi dưỡng thân thể như thuốc trường sinh bất lão. Tuy nhiên, ai đã dùng nước đó, tạng phủ đổi khác, một ngày không dùng sẽ thắt tim mà thác! Xưa Tĩnh Biên phó sứ Trần Dũng qua đời cũng vì nguyên nhân đó!

    Trần Dũng giới thiệu Hoàng Đạt, Ngọc Bích với Bà Chúa Ngàn , lại đưa nàng vào tháp lấy di vật cho xem, cả bình nước thủng năm xưa. Chúa Ngàn âu yếm khoác tay Dũng, bảo:

    - Thôi, xin rước tất cả vào Ngàn! Trời cũng sắp sáng rồi, về còn chuẩn bị tiệc mừng!

    Đạt, Bích cùng trao đổi một cái nhìn ý nghĩa. Cả hai cùng cảm thấy ngậm ngùi nao nao trước phút chia tay với người bạn thân thiết, khó còn dịp tái ngộ.

    Trần Dũng cũng đồng tâm trạng, và dẫu đã hiểu ý đôi bạn từ trước, chàng vẫn cố khuyên nhủ:

    - Hãy cùng Dũng này vào Ngàn thiêng sống kiếp trường sinh tránh luật hủy diệt tàn nhẫn của thời gian. Nghe mình đi, hai bạn!

    - Thiếp và lang quân đạt lời nguyền cũng nhờ vợ chồng công tử giúp đỡ, ân tình này cả xứ Ngàn đời đời ghi tạc. Mong Hoàng công tử với phu nhân vào Ngàn cùng chung hưởng hạnh phúc, xa lánh thế lụy phù sinh.

    Bà Chúa Ngàn khẩn khoản mời Đạt, Bích. Song cả hai một mực chối từ xin kiếu. Chàng võ sư họ Hoàng cảm khái nắm tay người bạn từng gắn bó sâu đậm trong đời, giọng chùng hẳn xuống, buồn mang mang như hơi gió biên thùy:

    - Hợp rồi tan, tan rồi lại hợp...! Trần Dũng giờ đã thỏa nguyện kiếp xưa, sum họp với người yêu. Bọn mình được chứng kiến cảnh đoàn tụ của bằng hữu, thế là đủ! Hai vị vun đắp một tình yêu bất diệt trong cõi bất tử, mình với Ngọc Bích cũng gắng tạo dựng một hạnh phúc bất biến giữa cõi đời hữu hạn! Ai có phận nấy, hãy chấp nhận và xem những gì đã qua giữa chúng ta như một kỷ niệm đẹp!

    Đạt, Bích tiễn đôi bạn tình truyền kiếp lên ngựa. Trần Dũng vẻ quyến luyến, trao chiếc sừng linh dương cho Đạt dặn dò:

    - Mỗi năm, vào đêm trừ tịch, bọn mình sẽ chờ nghe tiếng tù và thổi đi từ tháp này để ra đón hai bạn! Hãy giữ lấy nó, mai sau có khi dùng đến!

    Hoàng Đạt cầm chiếc sừng, mỉm cười:

    - Mình giữ làm kỷ niệm, nhưng bạn đừng chờ! Thôi, hai vị hãy lên đường!

    Tiếng đàn sáo dặt dìu nổi lên, đám gái hầu tùy tùng phò Bà Chúa Ngàn cùng Trần Dũng đi xa dần... Ngọc Bích, Hoàng Đạt đứng lặng trông theo. Chàng võ sư bỗng đưa tù và lên miệng thổi một hơi dài. Âm sừng linh dương bay vãi theo hơi gió, nổi chìm ngân nga như đuổi theo tiếng nhạc vào Ngàn… *
     
    meetdak, tducchau, amylee and 2 others like this.
  16. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    THẠCH CẨU GIỮ MỒ

    Truyện ngắn của Hoàng Ly - Đỗ Hồng Linh




    Đêm trừ tịch năm Dậu bước sang năm Tuất. Trời rét căm căm.

    Dân làng Thượng hầu hết đã đi ngủ sớm, đợi dậy đón giao thừa. Chỉ còn ít người ngồi ngủ gật trước hiên nhà, chờ vớt bánh chưng.

    Từ trong vườn hậu nhà viên tiên chỉ, bỗng có một bóng đen chui giậu ra ngõ nhìn trước ngó sau rồi rảo bước đi nhanh về phía cuối làng.

    Gió thổi vi vu ngõ tối, bụi tre xao động phát ra những tiếng ken két như tiếng nghiến răng. Bóng đen cắm đầu chạy, thoắt đã ra tới cánh đồng. Ngoài đó có một bãi hoang rậm rạp, gò đống ngổn ngang, cách giậu tre cuối làng Thượng chừng trăm thước.

    Do dự mươi khắc, bóng đen chạy thẳng đến khu gò vắng. Hình dáng thoáng nổi trên mô đất cao, dáng đàn bà trẻ.

    Ngay lúc đó, từ trên gò, một bóng trai tráng chạy vụt xuống:

    - Liêu! Sao lâu thế? Làm anh nóng ruột quá!

    - Anh! Khổ quá! Mãi lão ta mới ngủ.

    - Lên gò cho kín đi em ! Anh trải chiếu rồi !

    Chàng trai vừa dứt lời, chợt trên gò mơ hồ như có tiếng chó tru. Cô gái lẩm bẩm:

    - Tiếng chó sủa... Sao lại có tiếng chó sủa?

    - Chó làng bên đấy. Gò làm gì có chó!

    - Có ông thạch cẩu...

    Chàng trai cười khì như chế nhạo rồi nắm tay cô gái kéo thốc lên gò. Trên gò có một tòa miếu cổ bỏ hoang. Ngói vỡ, tường xiêu, không cửa, chẳng biết từ đời nào, hương khói vắng lạnh. Nhiều người trong làng bảo đó là cái nhà mồ vì cái nó giống cái long đình... Ngôi miếu mồ hoang phế này đứng ngay cạnh gốc cây si um tùm, rễ phủ loà xoà cả lên nóc.

    Trong miếu mồ này có một con chó đá mình mẩy rêu phong, to bằng chó thật.

    Chàng trai kéo cô gái vào hẳn bên trong. Chàng là cậu giáo dạy tư ở làng, chưa vợ, tên Sinh. Còn nàng là Liêu, vợ lẽ viên tiên chỉ già làng Thượng. Liêu vốn là con gái út một nhà nho lỗi thời, nhà nghèo mắc nợ, phải gả cho viên tiên chỉ. Cả hai mới phải lòng nhau hơn tháng nay, tình đang say, nhân đêm ba mươi Tết lén hẹn hò. Sinh đến trước, mang theo cả tấm chiếu manh trải sẵn bên con chó đá mốc rêu.

    Cửa miếu hướng Đông, gió bấc thổi bên ngoài, bên trong tương đối kín gió. Sinh ôm Liễu vào lòng như muốn truyền hơi ấm cho nàng.

    "Gừ... gừ!" - Bỗng lại nghe có tiếng chó quanh đó. Liễu sợ sệt bảo người yêu:

    - Tiếng chó gừ! Anh ơi...em sợ!

    - Chắc có con chó hoang, chó đói nào quanh đây!

    - Hay... ông thạch cẩu!

    Sinh cười khà trấn an. Giây lát tiếng đôi nam nữ lại vang lên trong bóng

    tối, thầm thì, đầy xúc cảm yêu đương. Đột nhiên Liêu duỗi chân về phía chó đá, kêu lên:

    - Ơ… thạch cẩu đâu rồi?

    Sinh cũng khua chân, kêu "lạ nhỉ?!”, đoạn nhảy phắt dậy, moi diêm đánh lên soi thử. Miếu trống trơn.

    - Chó đá đâu rồi? Rõ vừa thấy đây?

    Đôi nam nữ cùng nhìn nhau, nghi hoặc. Gió thổi rạp lửa diêm, soi rõ hình cặp trai gái khoả bán thân tràn trề sinh lực. Út Liễu dòm quanh, bất chợt ré lên:

    - Kìa! Chó kìa!

    "Gừ! Hộc !" - Từ cửa miếu, một bóng chó lù lù đi vào, há mõm nhe nanh vẻ hung tợn hết sức, nhác trông đúng con chó đá!

    Giáo Sinh, Út Liễu vùng rú lên khủng khiếp...

    Đúng giờ giao thừa, cả nhà viên tiên chỉ dậy đón năm mới, không thấy Út Liễu bèn đốt đuốc kéo nhau đi tìm khắp làng.

    Lên tới gò thạch cẩu, ai nấy kinh hồn khi thấy xác đôi nam nữ nằm dưới chân con chó đá, máu loang sũng nền gạch vỡ!

    Cả hai đều bị đứt lìa cổ họng, mình mẩy đầy dấu vuốt thú cào cắn. Soi quanh miếu mồ, tuyệt không một vết chân chó, chừng coi mõm thạch cẩu mọi người đều khiếp đảm vì thấy bê bết máu tươi.

    Viên tiên chỉ già chỉ kêu được một tiếng, ngã lăn ra và... không bao giờ còn dậy đón giao thừa nữa!

    Từ năm Tuất quái gở đó, dân làng Thượng không ai dám bén mảng tới gò thạch cẩu nữa. Ngay đám mục đồng cũng chẳng dám dắt trâu lên gò cho ăn cỏ!

    Khu gò đồng ngày càng hoang rậm. Năm sau, đúng vào đêm trừ tịch, dân làng Thượng nhiều người nghe văng vẳng có tiếng chó tru ngoài gò, lẫn tiếng người rú thê thảm vọng về.

    Ai cũng sợ, cho là oan hồn giáo Sinh, Út Liễu kêu khóc, thành ma trành hầu thạch cẩu tinh!

    Từ đó, vùng gò hoang thành cấm địa. Người ta còn đồn rằng, vào những đêm mưa thâm tối trời hay thấy bóng người bóng chó đánh đu rê si bay bổng lên tận ngọn…!

    Như thế đúng một giáp 12 năm trôi qua. Một hôm, vào tháng chạp, có một đám Khách ngót 40 người tới làng Thượng, xin gặp nhóm chức việc, bô lão, kỳ hào vì chuyện quan trọng.

    Tất cả tụ tập tại đình. Chú Khách đứng đầu đám là một lão trạc sáu mươi tuổi, tướng đạo mạo, đeo kính trắng, râu dài, có vẻ quí phái. Lão mặc xường xám dài, nghiêm mặt trình với đám chức việc, bô lão làng Thượng:

    - Chúng tôi nghĩ trên đời này không gì hơn sự thành thực! Chúng tôi lặn lội từ quê nhà sang đây cốt để thưa với quí xã một chuyện quan trọng, đó là, theo di chúc tổ tiên, chúng tôi sang Nam để lấy kho vàng của gia tộc đã yểm tàng cách nay nhiều thế kỷ! Người Hoa chúng tôi để của theo phép riêng, không thể lấy được nếu không biết phép! Vậy chúng tôi xin bàn với quí vị: kho vàng này sẽ chia đều bốn phần, chúng tôi hai, làng Thượng một, còn một để nộp cấp trên. Xin các cụ cho biết ý kiến?

    Cả làng sửng sốt. Lý trưởng ngơ ngác:

    - Nhưng kho vàng ở đâu?

    Lão Khách điềm đạm đáp:

    - Ở ngay đây! Chúng tôi có thể lấy lên nếu quí vị thuận điều vừa nói!

    Cả làng nhìn nhau. Không ai lạ gì lối để của người Tàu, thiên hạ đừng hòng đụng tới! Nên, xem chừng ai cũng thích đề nghị của lão Khách. Một cụ già hỏi:

    - Tại sao các ông không bí mật đến lấy đi?

    - Xưa nay thường vậy! Nhưng chúng tôi nghĩ khác! Họ chúng tôi gặp tai biến, di chúc thất lạc, giờ mới tìm được, tôi là trưởng tộc nghĩ: lộc trời đừng hưởng trọn mới bền, nên muốn xử đường đường chính chính! Vả lại di chúc cũng dạy chúng tôi phải tặng nước Nam một nửa gọi là đền công giữ của!

    Làng Thượng bàn nhau thuận hết, vội sai người lên trình cấp trên. Thế rồi huyện, tỉnh cùng cho người về thị chứng, ký cả vào giấy giao ước, ghi rõ từng điều.

    Đâu đấy xong xuôi lão Khách mới cho hay: kho vàng chôn trên gò thạch cẩu, ngay dưới ngôi nhà mồ. Lão Khách trầm lời nói:

    - Có phải cách nay một giáp đã có kẻ bị chó đá cắn chết trong nhà mồ không? Đó chính là thạch cẩu giữ mồ, chó đá được yểm phù thiêng sẽ cắn chết kẻ nào đến lấy kho vàng. Đôi trai gái kia bị cắn vì đã làm ô uế linh cẩu. Có phải 12 năm nay, cứ đêm trừ tịch là có tiếng chó tru không? Linh cẩu biết sắp có con cháu chủ kho vàng sang lấy của nên tru gọi đó! Linh cẩu còn muốn thoát khỏi nhà mồ, rất may đêm không ai tới đó, nếu tới sẽ bị nó cắn chết tươi!

    Cả làng Thượng lúc đó mới hay gò miếu đó là nơi yểm kho vàng, chó đá giữ kho! Ai nấy đều ghê thay phép Tàu để của, nhưng tất cả đều mừng vì sắp được chia vàng.

    Lão Khách khởi sự đào vàng đúng đêm 30 Tết.

    Theo lệnh lão, dân làng Thượng không ai được tới gò thần, trừ một ban đại diện có cả các chức việc trên tỉnh, huyên và một số tuần đinh.

    Khoảng 8 giờ tối, bọn lão Khách bày biện lễ tam sinh đem tới trước nhà mồ. Đuốc thắp sáng rực, lão Khách đứng đọc chú hô thần xong mới sai gia nhân, tuần đinh phát cỏ, lùm bụi lấy lối vào. Lễ vật đặt ngay trước mõm chó đá. Răng chó đá còn sỉn vết máu 12 năm trước!

    Dưới ánh đuốc, lão Khách xoã tóc, đọc chú hô thần cẩu, coi hết sức quái gở. Bỗng lão hú lên một tiếng dài, quơ cái chày vồ đập “bốp", chó đá vỡ tan thành nhiều mảnh. Thì ra chó rỗng!

    Lão thở phào, trỏ ngay chỗ chó đá vừa đứng xưa nay, hô:

    - Thạch cẩu đã giải linh về âm cảnh, cửa kho vàng đã mở, đào chỗ này cho mau! Phải thấy vàng đúng giao thừa, nếu không, vàng về mỏ hết!

    Tuần đinh, gia nhân lão Khách xách cuốc, thuổng, móng, vồ vào, bắt đầu đào xới! Toàn trai tráng lực lưỡng, đào rất nhanh. Nhưng mới được chừng thước sâu, bỗng chạm đá. Hì hục nạy được phiến đá lên, lại gặp một tảng nhựa thong, thơm khét, xúc đi xong, lại gặp một tầng gạch cổ rắn hơn đá. Lão Khách sai nạy từng viên ném sang bên, tầng gạch sâu ngót 3 thước. Nạy hết gạch thấy hiện rõ một cái nhà mồ ngầm rộng, dài, cao cỡ 3 thước, soi đuốc vào, trong có một cỗ quan tài và mấy cái chum lớn quàn đó.

    -Vàng! Vàng đây rồi!

    Lão Khách gọi các chức sắc đại diện xuống. Mặt rạng rỡ, lão nói lớn:

    - Xin sửa soạn quang thúng sẵn! Nào, bắt đầu mở nắp quan tài, nắp chum! Theo di chúc, trong chỉ có vàng ròng!

    Một bô lão kêu lên:

    - Ôi chao! Của đâu lắm thế! Một nhà vàng, ít nhất vài tấn!

    Tuần đinh, gia nhân xúm vào mở nắp trước những cặp mắt mở to.

    Nắp vừa mở, lão Khách giơ đuốc soi dòm vào, bỗng hét lên, ngã vật xuống, bất tỉnh nhân sự.

    Không ai hiểu chuyện gì xảy ra. Chức việc bô lão lật đật tiến lại sát bên dòm cũng buột miệng kêu "Ôi thôi! Chết tôi rồi!” và cùng lăn quay ra đất.

    Thì ra, quan tài rỗng! Cạy qua mấy cái chum, tất cả cũng đều rỗng tuếch!

    Lát sau lão Khách được cứu tỉnh, mặt mày thiểu não, trỏ cỗ quan tài, dãy chum, lắc đầu, giọng thê thảm:

    - Thế là xong! Phúc nhà tôi hết rồi! Để lâu quá kỳ hạn, vàng đã tiêu về mỏ hết, còn đâu?! Bao công trình lặn lội, uổng cả!

    Dân làng và các chức việc, bô lão cũng tiếc ngẩn ngơ, song thấy lão Khách đau khổ quá, đành kiếm lời an ủi cho nguôi.

    Mọi người chán nản trở về làng. Lão Khách cùng gia nhân quyến thuộc xin lưu lại nghỉ ngơi qua cái Tết.

    Nhưng sáng mùng ba, bỗng đám lão Khách biến sạch!

    Viên Lý trưởng cho họ ở trọ nhà, sáng dậy, sai mời lão Khách uống trà mới phát giác chạy vào buồng lão, chỉ thấy mấy viên gạch xếp chồng trên giường và một phong thư. Vừa lúc mấy chủ nhà cho trọ khác trong làng cũng vừa kéo nhau tới.

    Mọi người bóc thư ra coi. Trong có mấy hàng chữ Hán, đại ý: "Cám ơn quí ông đã cho tá túc trong những ngày đào kho vàng tổ phụ. Cám ơn đã giúp đỡ và xin lỗi vì chúng tôi đã buộc lòng phải giữ kín kho vàng đến phút chót. Nhân năm mới, xin “mừng tuổi" quí ông hai viên gạch, huyện, tỉnh mỗi cơ quan hai viên, còn một viên tặng mấy vị cho ở nhờ và anh em có công đào mỏ”.

    Vẫn chưa ai hiểu ý tứ ra sao?! Bèn kéo nhau ra gò thạch cẩu thì thấy cảnh huyệt mồ đào bới vẫn y đó, song toàn bộ số gạch xây cất nhà mồ nạy lên đã mất sạch!

    Bèn chạy ùa về nhà viên Lý trưởng. Lý trưởng lấy một viên gạch đập vỡ ra, mới hay chỉ là vỏ gạch nung già rắn hết sức, trong toàn vàng ròng sáng lóe. Ước lượng mỗi viên gạch vàng phải nặng đến cả chục cân!

    Mọi người chết lặng hồi lâu, Lý trưởng mãi mới lắp bắp:

    - Tàu… để… của!

    Từ đấy, không ai còn nghe tiếng chó quái tru hú vào đêm trừ tịch nữa.*
     
    meetdak, tducchau, amylee and 2 others like this.
  17. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    MẢNH TÌNH MẮC CẠN

    Truyện vừa
    Tác giả: Mường Mán


    Nguồn: Kiến thức Ngày nay số 496, 497




    Nhà văn Mường Mán (tên tật: Trần Văn Quảng, sinh ngày 20.5.1947.
    Quê gốc: An Truyền, Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
    Hiện sống ở Sài Gòn,
    Cựu phóng viên chiến trường miền nam trước 1975
    Làm việc tại Công ty văn hoá Phương Nam (1995-2007).
    Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Điện ảnh Việt Nam .

    Tác phẩm đã xuất bản: Lá tương tư (truyện dài, 1974); Một chút mưa thơm (1974); Hồng Hạ (tiểu thuyết, 1989); Thương nhớ người dưng (1989); Kiều Dũng (tiểu thuyết, 1989); Ngon hơn trái cấm (tiểu thuyết, 1989); Khóc nữa đi sớm mai (1990); Người đàn ông tội nghiệp của tôi (1990); Mùa thu tóc rối (1990); Chiều vàng hoa cúc (1992); Trộm trái vườn người (1994); Bèo nước long đong (1995); Trăng không mùa (1995); Những ràng buộc êm ái (tập tn, 1995); Vọng (tập thơ, 1995); và những kịch bản phim truyện, phim truyền hình: Người trong cuộc (1988); Tiếng đờn Kìm (1996); Trăng không màu (1996); Gió qua miền tối sáng (viết chung, 1996);Cạn chén tình (tập truyện); Dịu khúc (thơ lục bát, NXB Trẻ 2008)...





    Đời chia trăm nhánh sông mưa
    Dầu hao. Bấc lụn. Tình thua. Vẫn là...




    1

    Mặc những tốp lính rã ngũ, bỏ ngỏ các phòng tuyến đâu đó ở ngoại vi thành phố về, rảo bước, chen chúc nhau lên những chiếc xe đò, xe lam, xe tải, xe nhà binh la hét tranh giành hoặc câm nín ngang qua các đường phố bừa bãi những áo quần lính trận, mũ sắt, dây nịt đạn... quăng ném vội vàng. Mặc bọn hôi của thoắt biến thoắt hiện quanh những ngôi nhà vắng chủ ngang nhiên chia chác “chiến lợi phẩm” giữa thanh thiên bạch nhật. Mặc bụi khói ám mù cảnh vật dưới mặt đất, bầu trời thành phố Huế hôm ấy vẫn rất trong xanh, hoa phượng vẫn cháy đỏ màu muôn thuở, nhưng trong mắt nhìn của người bại trận rút chạy có chút gì khắc khoải, trong mắt những người ở lại có chút gì háo hức, trông mong.

    Hôm ấy, sông Hương bao dung tiễn người đi, lặng lẽ chờ đón kẻ về. Trong số người về có trung uý Hãn, áo quần trận lấm bụi, mũ lưỡi trai kéo sụp ngang mày cỡi chiếc Hon da Cub chầm chậm ngang qua đường Trần Hưng Đạo nghiêng ngó, chốc chốc dừng lại dõi mắt săm soi vào đám người tản cư mang xách, gồng gánh khoác chung vẻ lam lũ, cam chịu, từ tóc tai, quần áo đến điệu dáng mệt mỏi, phờ phạc, thất thần. Già có, trẻ có, họ lê bước lếch thếch hoặc tụ lại từng nhóm đứng lóng ngóng bên vệ đường, thấy xe nào ngang qua cũng đưa tay ngoắc rối rít, to tiếng van xin quá giang. Những xe đầy từ chối đã đành, có xe lưng lửng cũng vọt nhanh, dông biến để lại làn bụi làm lem úa những mặt người thất vọng vụt khựng sững như là tượng.

    - Hãn, anh... Hãn!

    Dừng vội xe, ngoảnh mặt về phía tiếng gọi, Hãn chưa kịp lên tiếng thì người đàn bà đã rảo bước đến bên hắn, chiếc túi xách nặng nề kéo lê theo chân, nón lá hất ngược ra sau để lộ gương mặt không son phấn nhễ nhại mồ hôi, mắt long lanh ánh vẻ mừng khôn tả:

    - Trời đất, tưởng anh đi rồi, sao còn ở đây?

    Tạt vào khoảng trống trước căn nhà đóng kín có tấm bìa lịch cũ ai đó viết nghuệch ngoạc lời nhắn: “Mạ đã vô Đà Nẵng. Chìa khoá gửi ở dì K.” treo trên cửa sắt. Hãn cau ríu đôi lông mày sâu róm, nhìn từ đầu đến chân Ngà:

    - Em…Ngà đi từ lúc nào?

    - Sáng hôm kia lận, đón xe hoài không được, cuốc bộ từ Cây số 17 vô tận đây muốn rã từng lóng xương. Còn anh Hãn, sao...

    - Đơn vị rút từ Giạ Lê về lúc 5 giờ sáng, anh vội chạy ra nhà coi thế nào, nói mãi ông bà già nhất quyết không cho đi, vợ chồng thằng em đi rồi, chẳng rõ giờ này đang ở đâu, kiếm hoài chưa gặp.

    - May thì vô tới Đà Nẵng, không may thì còn ở dọc đường đâu đó, anh khéo lo, biết đâu mà lần!

    - Lâu lắm mới gặp, Ngà sống thế nào?

    - Dạ, cũng tàm tạm. Anh đã rước cô nào về làm dâu làng Kế Môn chưa?

    - Chưa. Còn em, đi bước nữa rồi chứ?

    - Dạ, vẫn ở không!

    Người đàn bà trẻ cúi mặt cắn chặt môi, gã trai lắc đầu khẽ tặc lưỡi chẳng rõ ái ngại hay ân hận đã buộc miệng hỏi cái câu thiếu tế nhị, nhạy cảm không phải lúc. Hãn nổ máy, cúi cầm cái túi xách gác ngang sườn xe, thấp giọng:

    - Chậc, đã đến nước này thì... anh sẽ xoay xở thử xem. Lên xe đi.

    Thoáng ái ngại, rồi Ngà ngồi lên yên sau:

    - Đi đâu anh?

    - Thì đi kiếm xe. Không phải em muốn vô Đà Nẵng sao?

    - Ờ há!

    Xe qua cầu Trường Tiền, tiếng Hãn bạt trong gió:

    - Nếu là em, anh cóc cần đi.

    - Nghĩa là anh không sợ chết, bom hay pháo coi như pha hả? Em thì yếu bóng vía lắm, người ta nói trận này sẽ ác liệt gấp trăm lần trận năm 72, mùa hè đỏ lửa.

    - Sống chết đều có số cả, giày dép còn có số huống nữa là con người. Người xinh xắn như Ngà chắc chắn có số đẹp, sống dai.

    - Lúc nào anh cũng đùa được!

    Hai người cùng cười. Kiểu cười lặng, không phát thành tiếng. Nụ cười làm giãn vẻ mặt mệt mỏi của Ngà ra chút đỉnh, nom tươi tắn hơn. Nụ cười khiến Hãn nghe lòng vơi được phần nào nỗi bất an mấy hôm nay cứ bám riết lấy mình như đỉa. Con đỉa vô hình hút dần sự thanh thản, hồn nhiên vốn có ở bất kỳ gã trai trẻ nào còn lưng chừng ở độ tuổi giữa hai mươi và ba mươi, có chừng dăm năm mặc đồ trận chui rúc trong rừng sâu núi thẳm, may mắn lành lặn quay về, nhưng tâm hồn bị xém cháy ít nhiều sự tự tin , biết trân quí hơn cuộc sống, bởi đã có lúc cận kể cái chết ngoài trận mạc.

    - Lâu nay em có quay lại trường Luật, học tiếp mấy cái chứng chỉ còn lại không?

    - Học hành gì nữa, chữ nghĩa rỉ sét cả rồi, phải chi hồi đó...

    - Đừng vội lên xe hoa, trở thành đại uý phu nhân hả?

    - Anh vẫn còn mê đọc sách chứ? - Ngà lảng chuyện. Hãn lại cười:

    - Với anh, sách luôn là những người đẹp hoàn hảo hơn bất cứ người đẹp nào ngoài đời thực, mê sách lại an toàn hơn mê người đẹp bằng da bằng thịt.

    - Dóc tổ cái ông này! - Ngà đấm khẽ vai Hãn.

    Xe qua khỏi cầu, đổ dốc, rẽ trái rồi dừng lại. Khu trường đại học sư phạm, điểm bộ tư lệnh sư đoàn 1 bộ binh chọn làm nơi đóng quân tạm trên đường di tản, sớm mai còn đông đặc người của các phòng, ban, các máy móc, khí tài phục vụ cho guồng máy đầu não của một tập thể gồm nhiều trung, tiểu đoàn bộ binh và những đơn vị đặc nhiệm nay vắng hoe, còn trơ lại những phòng học mở cửa tan hoang, rỗng tuếch , lác đác vài kẻ “điếc không sợ súng” đi nhặt nhạnh những thứ vặt vãnh còn rơi rớt lại.

    - Muộn mất rồi!

    Hãn đựng xe, buồn rầu nói, rảo bước lao nhanh lên lầu 2, nơi bộ chỉ huy tiểu đoàn truyền tin tạm đóng. Phòng ốc trống không, cả cái ba lô đựng hồ sơ cá nhân của Hãn cũng “bốc hơi” đằng nào mất rồi. Hãn vội vàng quay xuống. Một chiếc Jeep từ phía bên hông trái chất đầy lính với một người mang lon đại uý ngồi cạnh tài xế bỗng quành ra, tăng tốc nhắm hướng cổng. Hãn đưa tay ngoắc, gọi:

    - Đại uý, thưa... đại uý!

    Chiếc Jeep chạy trờ tới, thắng đánh “kít”, Hãn đưa tay ngang mày dập hai chân vào nhau chào theo thói quen thâm niên ngoài 5 năm quân ngũ, kể cả thời gian huấn luyện ở quân trường, nói gấp:

    - Đi hả, đại uý?

    - Dọt lẹ, mẹ kiếp, giờ này còn em với út hả mậy?

    - Dạ không phải, người nhà, cho em gửi đứa em quá giang...

    Gã đại uý ném mắt ra phía sau, trên ấy hơn chục mạng cứ chèn như cá trong hộp, lắc đầu:

    - Chịu thôi, chạy theo bọn tao!

    - Đi đâu, đại uý?

    Chiếc xe tăng ga, quẹo phải ra đường, gã đại uý đưa hai tay lên trời gào, như thể không nói với Hãn mà với trời xanh đang bắt đầu ngả màu hoàng hôn tím thẫm:

    - Thuận An!

    Chiếc Honda Cub lao vọt đi. Ngà vòng tay âm chặt eo Hãn. Chiếc xe máy được nhấn hết ga rung nẩy lên từng hồi như thể mọi bộ phận sẵn sàng rã ra. Tiếng Ngà kề bên tai Hãn bởi nàng chọn vai hắn để gác cằm lên cơ hồ cho đó là điểm tựa vững vàng nhất từ mấy hôm nay, từ hôm khăn gói cuốn theo dòng người tránh bom né đạn:

    - Sao lại về biển?

    - Đường bộ tắc rồi, có lẽ đèo Hải Vân đã bị cắt.

    - Những người hồi nãy…

    - Cùng đơn vi truyền tin với anh.Họ rút muộn, có lẽ vì còn nán lại phá hỏng máy móc.

    - Kể cũng hên, không gặp họ mình cũng chẳng biết đi đằng nào.

    - Đường trời lúc này may ra, còn đường đất hoặc đường biển may ít rủi nhiều.

    - Khi không anh phải năng gánh thế này, em áy náy hết sức.

    - Có khi nào Ngà chạy lẹ kiểu này chưa?

    - Dạ chưa.

    - Giờ thì nhắm mắt lại, anh sẽ đưa em lên...

    - Lên đâu hả… ông tướng?

    - Lên thiên đàng!

    Ngà khẽ cười, đấm dứ vai Hãn liền hai cái, lặp lại cái câu đã nói lúc họ qua cầu Trường Tiền:

    - Lúc nào anh cũng đùa được.

    Lúc nào... Đúng là giữa hai người đã từng có một thời ấm áp những câu đùa, những tiếng cười. Thời ấy đã xa xôi chưa hẳn như cổ tích mà bị chôn vùi dưới biết bao nếp gấp thời gian, buồn nhiều hơn vui, dữ nhiều hơn lành, dù cả hai chưa bao giờ “cùng nhìn về một hướng” mà chỉ song hành, thậm chí đường ai nấy đi, thỉnh thoảng gặp rồi chia, chia tới bặt vô âm tín rồi thình lình bỗng gặp như lúc này, người này thấy kẻ kia già dặn hơn một tí, hình như xa cách hơn một tí, và ngược lại, nhưng chẳng ai nói ra điều này.

    Qua khỏi chợ Mai chừng hơn cây số, xe đột ngột bị chặn lại giữa đường bởi một gã râu tóc bờm xờm, chai rượu kẹp nách, mặc bộ đồ rằn ri thoạt trông biết ngay thuộc binh chủng biệt động quân. Bảng tên, cấp bậc, phù hiệu đơn vị đã được gỡ bỏ. Cây M.18 ngắn nòng cầm huơ huơ trên tay uy lực hơn tiếng hét sũng men của gã:

    - Ê dừng lại! Tao bảo... Đ.m dừng lạạại!

    Mũi súng, thôi huơ mà chĩa thẳng về phía hai người khiến Hãn không thể không dừng lại, không thể không cho gã say ngồi lắp vào sau lưng người đàn bà trẻ. Xe vừa lăn bánh, gã ngoác miệng phà hơi men vào tai Ngà:

    - Nè ông trung uý, làm vài hớp ly bôi đi! - Đưa chai Whisky còn lưng nửa về phía Hãn, nói giọng cà rỡn , đoạn gã ông ổng hát: - Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tui đã… đã… đi xa rồi...

    Hãn làm thinh, trả chai rượu lại vào nách, gã tiếp:

    - Bọn đại bàng, phượng hoàng với lại các mệnh phụ phu nhân vú bơm mông độn lên trực thăng hô biến cả rồi. Đ.m tổ tông năm đời bảy kiếp cái lũ mang con bỏ chợ. Đứa nào còn sót lại như ông và tui lúc này gọi là gì biết không?

    Hãn im lặng, gã cười:

    - Là cóc nhái, chuột cống, gà toi đang dẫn xác vô lò nướng thành các món quay, hê hê hê, quay, quay, quay tuốt, mẹ kiếp, xuôi tay cho mệ nuốt!




    2


    Trời sụp tối khi họ tới Tân Mỹ, dải đầm phá không rộng lắm lúc này bỗng trở thành cái chảo lửa kinh hoàng phải vượt qua nếu muốn tới cửa biển Thuận An. Cái chảo lửa sẵn sàng xơi tái, nhấn chìm hoặc nướng chín tất thảy những ai xấu số bị ăn đạn từ những nòng súng chẳng thù hằn mà điên tiết, hoảng loạn bởi hội chứng cùng đường, tuyệt lộ.

    Tân Mỹ lúc này tựa chỗ trũng, vũng xoáy hội tụ không biết hàng ngàn hay hàng vạn “sinh linh” trước đó khoác áo đủ loại binh chủng, giờ gần như xoá trắng hết mọi phiên hiệu nhưng vũ khí vẫn lăm lăm trong tay, buộc quanh dây nịt đạn. Dưới ánh sáng ma trơi của pháo sáng, pháo hiệu không ngớt lơ lửng trên nền trời đen mun, tiếng nổ của cơ man nào là các loại súng thi nhau xé rách, băm nát tả tơi màn đêm. Gió lộng từ đầm lên, từ biển vào không xua tan nổi mùi khét của khói súng, mùi tai ương ngờm ngợp bốc lên mỗi lúc có người ngã đạn bởi cố chen chân lên một chiếc xuồng, thuyền, đò hay xà lan vừa cướp được, hoặc bị Hà Bá nhấn chìm bởi các phương tiện ấy phải gồng gánh quá tải.

    Tiếng kêu la, rủa sả, hò hét tựa đám bọt ngầu nổi lênh khênh trên mặt chảo lửa sôi sùng sục ấy và, Hãn - Ngà chỉ là hai con toi - theo cách nói của gã say lúc nãy - đứng rủ cánh, chốc chốc khẽ cúi thấp người bởi các loạt đạn xé gió bay ngang trên đầu chiu chíu. Thoạt tiên cố len lỏi giữa đám đông tìm cách tiếp cận bờ đầm tìm phương tiện, sau họ bị dồn đẩy như thể có cơn sóng dữ sau lưng, đôi khi phải ngồi sụp xuống để cưỡng lại “dòng cuốn”. Có lúc Hãn ngỡ đã níu được tay Ngà nhảy xuống một chiếc xuồng ba lá cỡ trung, nhưng rồi một loạt đạn tỉa dọc thân người đi trước hẳn chừng một bước khiến hắn chùng lại, kéo Ngà quay ngoắt lại, cố rẽ “sóng” ngược lui.

    Họ quay lại chỗ những chiếc container trước kia hẳn chứa vũ khí, đạn dược hay hàng quân nhu, quân tiếp vụ gì đó, giờ sét rỉ, móp méo bị vất nằm chỏng chơ bên lối mòn cạnh bãi trống đông nghẹt người, cái còn cửa, cái không, tất thảy ngậm kín bóng tối và bốc mùi xú uế lưu cữu, mùi cứt đái lưu niên, nói chung là mùi của một bô rác kiêm cầu tiêu hoang phế. Họ quay lại và Ngà quờ tay vào hốc tối của chiếc container ngoài cùng, mừng rỡ reo lên:

    - May quá, nó vẫn còn nguyên nè anh!

    Nhận lấy chiếc túi từ tay Ngà mang vào vai, Hãn rảo bước ra khoảng trống bên vệ đường, Ngà lúc thúc theo sau. Họ ngồi sát vào nhau vì cùng cảm thấy lạnh. Cái lạnh hồ như chưa ai từng cảm thấy trong đời, lạnh giá từ trong lòng ra, và từ cái chảo lửa ngoài kia rờn rợn ập vào.

    Nhẹ nhàng mở giấy kéo túi xách lấy thêm áo khoác ngoài, đoạn Ngà lấy ra gói mì ăn liền cười bảo:

    - Nhai cho đỡ buồn miệng, anh.

    - Cho đỡ đói! - Hãn cười buồn - Từ sáng tới giờ đã có gì bỏ bụng đâu.

    - Chờ em một chút - Ngà nói mau và lập tức biến vào biển người bên kia dãy container. Lát sau quay lại với hai bọc trà đá có ống hút thò ra trên miệng, nhỏ nhẹ nói:

    - Giờ này nước quí hơn vàng, đắt kinh khủng.

    - Đắt là bao nhiêu?

    - Anh không thể tưởng tượng nổi đâu.

    - Gấp mười ngày thường chứ gì?

    - Không, gấp trăm ấy chứ.

    - Thật à? Vậy thì phải nhấp từng giọt từng giọt một như là hồng đào mỹ tửu, không nên uống theo kiểu ngưu ẩm hồ đồ.

    - Lúc nào anh cũng đùa được.

    - Càng gần kề cái chết, những gì thuộc về cái sống càng trở nên đắt giá. Ngày mai hai bọc trà đá này sẽ tăng giá gấp hai hoặc ba trăm lần. Nhưng liệu lúc đó mình có còn để uống nữa không?

    Ngà đưa tay bịt miệng Hãn:

    - Anh chỉ nói bậy.

    Họ nhỏ nhẻ nhai từng cọng mì dòn rụm, nhỏ nhẻ nhấm nháp từng giọt nước nghe ngon hơn bất cứ bữa tiệc ngon nào từng ăn trong đời.

    - Giờ tính sao anh? Lấy lại sức xong có nên phiêu lưu lần nữa, hay nói như cái gã say hồi hôm là ngồi đây “xuôi tay cho mệ nuốt”? - Ngà nhìn chăm mắt Hãn cùng lúc pháo hiệu kẻ nào đó vừa bắn lên trời, thấy cơ hồ có ngọn lửa đỏ trong ấy. Đỏ như mắt thỏ.

    - Không nên phiêu lưu, chắc chắn sẽ ăn đạn thôi. Chờ sáng hẵng tính. Cùng lắm anh sẽ bị bắt làm tù binh, còn em, thường dân thì có gì mà sợ?

    - Nhưng mà...Anh quên em từng là vợ lính sao?

    - Lính tử sĩ thì Việt Cộng đâu thèm tính sổ, hay sờ gáy làm gì!

    - Lại đùa! - Ngà đưa tay che miệng ngáp, nghe cơn buồn ngủ nằng nặng trên mi mắt, duỗi người nằm nghiêng trên vệ cỏ, tay gối đầu, tay chống cằm trông lên gương mặt Hãn trong khoảng tranh tối tranh sáng chốc chốc loé sáng hoặc nhuốm hồng bởi trái sáng hay pháo hiệu, vẻ mặt có cái gì đó là lạ như thể nàng mới thấy hắn lần đầu, và Ngà bỗng nhớ đến người chồng đã khuất.

    Hồi ấy Ngà đã nhận một lúc hai nỗi đau mất mát. Chồng Ngà biến thành tử sĩ cùng một thời điểm, cùng một trận địa với Lược, anh trai nàng. Lược - trung uý trung đội trưởng và Tiêu - em rể - đại uý Tiểu đoàn phó một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 54 bộ binh. Cả hai ngã xuống giữa vùng rừng núi Mỏ Tàu, một điểm nóng ở phía Tây huyện lỵ Phú Lộc. Sau này mỗi lần có dịp ngang qua các địa danh không thể nào quên ấy, từ đường cái quan Ngà không thể không ngước nhìn lên đỉnh non mù mây khói, mường tượng thấy hai người khoác vai nhau, băng trắng quấn kín từ đầu đến chân như xác ướp, buồn bã trông hút theo chiếc xe hay chuyến tàu có mình ngồi. Sự mường tượng thường tan nhoè trong nước mắt.

    Như con chim trốn tuyết, trốn mùa đông lạnh giá, sau đó Ngà đi “tị nạn” nỗi đau bằng cách rời quê vào sinh sống ở Đà Nẵng.

    Nhan sắc đang độ chín, lại có hai chứng chỉ đại học Luật, nói khá sõi tiếng Anh, từ vị trí kế toán khiêm tốn, nàng nhanh chóng trở thành tài pán, quản lý tới ngoài hai mươi cô “đào” trẻ xinh đẹp của một quán bar kiêm vũ trường thuộc loại sang trọng, nổi tiếng nhất nhì Đà Nẵng, nơi thu hút lắm tay nhậu tay chơi lính Việt đã đành, cả lính Hàn, lính Mỹ. Những tưởng cuộc đời cứ thế xuôi chảy mãi, chí ít cũng kiếm được một tấm chồng danh giá trong đám khách hào hoa để xoá bỏ mặc cảm goá bụa, nhưng rồi Ngà lại quay về quê buôn bán, đổi chác hàng quân tiếp vụ quanh những quán hàng “vệ tinh” của các căn cứ quân sự đóng dọc “trận địa” cây số 17 - sau lần bị vợ một thiếu tá không quân mướn bọn đầu gấu đánh ghen, trận đòn phũ phàng làm bà goá phụ trẻ chẳng những bị cạo đầu bôi vôi, mà còn gãy tới ba giẻ xương sườn, phải chữa trị cả năm mới bình phục.

    Ngà ngồi lên thu người kêu lạnh. Hãn nói:

    - Không thể ngủ kiểu phơi sương thế này được.

    Thoáng ngập ngừng rồi chẳng ai bảo ai, họ chui vào cái container giấu túi xách của Ngà lúc nãy. Ngà lấy chai dầu Nhị Thiên Đường từ túi áo ra để hai người cùng khử mùi. Loay hoay thu xếp, sau cùng họ cũng có được một chỗ tương đối ổn để ngả lưng. Mặc mùi xú uế vây quanh, mặc bao thứ tiếng động tai ương, chết chóc gào hú bên ngoài, họ nằm xa nhau mấy gang tay, rồi khoảng cách thu hẹp dần lúc nào chẳng hay. Lúc cảm nhận được hơi ấm của người nằm cạnh nàng khẽ nhích ra, chàng quàng tay giữ rịt nàng lại, buồn tay kia cho nàng gối đầu. Ngà nằm im không cục cựa, Hãn nói, tiếng nói phả hơi ấm vào tai nàng:

    - Nói nghe buồn cười, em đã có chồng rồi mất chồng, nhưng lúc nào anh cũng nhớ như in cái hồi em mới mười hai, mười ba tuổi.

    - Thật à?

    - Thật! Nhớ mùa hè đầu tiên anh ghé thăm nhà, ra đồng tìm Lược, rồi cùng hắn và em đi đào hang bắt chuột, nướng bắp...

    - Rồi anh rủ em cùng đạp xe nước. Anh đạp lọng cọng mắc cười muốn chết, nước vô ruộng một phần, chảy ngược ra song tới ba bốn phần. Đúng anh thuộc nòi thợ bạc, chứ không phải nòi nhà nông. À, mà hồi ấy trông em chắc xấu xí nhà quê lắm hả?

    - Ừ, đúng là quê một cục, nhưng không xấu lắm, tóc hoe nắng ngọn vàng ngọn đỏ, hai con mắt tròn xoay, đen láy in hệt hai hột nhãn.

    - Mãi tới bây giờ có lúc nhớ những chuyện tiếu lâm anh kể, em còn cười một mình.

    - Hồi trẻ ai cũng cười nhiều, càng lớn lên nụ cười càng hiếm đi.

    Có đám rượt đuổi nhau ngang qua ngoài cửa, tiếng chân rầm rập, tiếng quát tháo inh ỏi, rồi một loạt đạn đánh thức quét lạc vào container cách chỗ họ nằm chừng dăm thước khiến Ngà hớt hãi ôm riết lấy Hãn, run lên trong tay hắn. Hệt cơn lốc đã đi qua, sau loạt đạn là tiếng vọng âm âm từ chảo lửa ngoài đầm vẳng vào sôi réo, trầm đục, chốc chốc vụt chát chúa giống hợp âm của một dàn nhạc do các tay nhạc công điên khùng hỗn tấu.

    - Em thích, thậm chí rất ngưỡng mộ tình bạn lâu dài của anh và anh Lược - Tiếng Ngà lại nhỏ nhẹ vang lên làm ấm cả khoảng ngực, cổ Hãn: - Cùng ra phố trọ học chung nhà, cùng đi lính, rồi cùng về đóng quân chung một sư đoàn, thỉnh thoảng vẫn có thể tìm nhau, gặp nhau. Hỏi thật nghe, hồi đó, cách đây lâu thiệt là lâu rồi, có lúc nào anh nghĩ đến em không?

    - Có, nhưng chỉ như là đứa em nhỏ nhít, những ngọn tóc cháy nắng, nhớ chứ, rất... dễ thương. Ngà này, sao em lấy chồng sớm vậy, vội vậy? Yêu thằng Tiêu nhiều phải không?

    - Hồi đó mới mười bảy tuổi rưỡi đã biết yêu iếc gì đâu, thấy anh Tiêu đẹp trai hiền lành, anh Lược lại nói, ông đại uý Tiểu đoàn phó của anh thuộc loại con ông cháu cha, quen biết nhiều, có thể vận động để cả hai sau này chuyển về hậu cứ trung đoàn, kể như mang chữ Thọ trên lưng, ai ngờ... - Đoạn Ngà kể nỗi ám ảnh mỗi lần đi tàu hay xe ngang qua vùng rừng núi Mỏ Tàu, rồi tiếp: - Cả trong những giấc mơ của em anh Lược và anh Tiêu cũng luôn luôn khoác vai nhau. Họ cơ hồ đã dính liền, hoá thành một, thỉnh thoảng em còn.mơ thấy chữ Thọ không phải trên lưng mà trên ngực họ, chữ Thọ nhỏ máu ròng ròng - Ắng lặng vài giây rồi Ngà tiếp tục câu chuyện qua ngõ khác: - Hãn này, có điều rất, rất bí mật, anh đừng cười em mới dám nói.

    - Nói đi, anh đang mếu đây.

    Người đàn bà trẻ thu người gọn lỏn trong vòng tay gã trai khúc khích cười, những tiếng cười nhỏ, mảnh cơ hồ luồn vào tận tim hắn nhồn nhột, âm ấm.

    - Từ hồi còn học lớp đệ ngũ, lắm lúc em mơ thấy anh là... chồng!

    - Là chồng à? Ngộ vậy sao? Lãng mạn ghê ! - Hãn cười thành tiếng : - Không ngờ giấc mơ ấy tới bây giờ mới trở thành sự thực, ở cái phòng tân hôn thơm tho, kinh dị thế này.





    3


    Rạng sáng. Mặt trời chưa lên. Chảo lửa dần dịu lại trong nỗi thắc thỏm đè nặng mọi lồng ngực: Một cuộc tấn công bằng pháo hoặc xe tăng sẽ ập tới bất cứ lúc nào. Chẳng còn đông đảo như hồi đêm, các cuộc tranh cướp phương tiện để ra biển cũng ngớt dần. Số người còn kẹt lại, trong đó có Hãn và Ngà liều lĩnh lội ra đu bám vào các hàng sáo, và những cái nò đơm cá dựng giữa đầm. Thảng hoặc một chiếc thuyền, sà lan có gắn máy hoặc không chở đầy người khẳm lừ ngang qua, là cả một rừng tay vẫy, một rừng miệng van nài.

    Vận may tưởng chừng đã đến với hai người, nhưng rồi chỉ mỗi mình Ngà “được phép” quá giang, lên một chiếc đò chèo đầy ứ những lính là lính. Tới lượt Hãn, hắn đã bị một họng súng M.16 hất tay văng ra khỏi mạn đò, kèm câu rủa tục tằn của một gã đầu trọc tếu, vận quần rằn ri, khoác áo giáp, dây nịt đạn không mang ở thắt lưng mà quàng chéo trước ngực lòng thòng những lựu đạn, súng colt, súng bắn pháo hiệu, bi đông:

    - Đ.m mày trung uý, giờ này vẫn muốn làm quan sao con?

    Mặc tiếng kêu thất thanh của Ngà, chiếc đò chòng chành nặng nhọc cỡi sóng rời xa. Sực nhớ mấy cái bông ném xuống nước, rủa thầm: Mẹ kiếp trôi đi, trôi đi, trôi đi những tháng ngày u mê chiến trận, mệt mỏi trại đồn. Trôi đi tất tần tật quá khứ hôm qua, dọn mình đón cái chết đầu tiên, phút sống sau cùng sẽ đến sắp đến. Ngà ơi, ơi, ơi. Tiếng kêu thầm tuyệt vọng trườn êm qua mặt sóng nống đẩy mặt trời lừng lững ngoi lên từ hướng đông.

    Chiếc đò chèo ì ạch mãi rồi cũng cập được bờ phía bên kia, tốp lính rã ngũ nhanh chóng tản vào các ngõ xóm khuất khúc rợp bóng dừa tìm lối ra cửa biển khác hẳn không khí chộn rộn, chết chóc ở bờ đối diện, bên này làng xóm vẫn hết sức bình lặng, thậm chí rất thanh bình. Trẻ con cười đùa đuổi bắt nhau sau các mành lưới phơi trước sân nhà, người lớn thong thả lui tới làm các công việc thường ngày như thể những giây phút sau cùng, những sự cố sau cùng kết thúc cuộc chiến tranh dài bấy nhiêu năm sẽ không bao giờ ngang qua đây. Không đông lắm nhưng chợ vẫn họp trên bến, dọc lối đi.

    Cái túi xách không còn, cả Hãn cũng chẳng còn kề bên, Ngà trơ trọi hệt chiếc lá bị quăng ném từ cõi hỗn mang này sang cõi hoang vắng khác. Buồn rầu đưa tay ngang mày che những tia nắng chói đầu ngày dõi mắt trông hút bờ đầm phía bên kia, ký ức chợt loé sáng chút hạnh phúc đêm qua cùng chia sẻ với Hãn trong cái “phòng tân hôn” quái dị làm nàng thoáng ấm lòng, nhưng rồi Ngà lại mường tượng thấy cái dáng tuyệt vọng của Hãn giữa bao dáng tuyệt vọng khác hệt những con dơi khổng lồ rũ cánh trên các hàng sáo giữa mặt đầm kia, nàng lại cảm thấy đau lòng, đôi giọt xót lặng lẽ ứa lăn trên má.

    Giờ đi đâu, làm gì? Vừa lủi thủi bước đi Ngà vừa lẩn thẩn nghĩ. Gã đầu trọc tếu - từng hất tay Hãn khỏi mạn đò và cao giọng rủa hắn một cách cay độc - nhanh tay níu lấy Ngà khi nàng ngang qua gã:

    - Nè em gái, tính chuồn luôn sao? Tính quên ơn cứu mạng của qua sao?

    Ngà lừ mắt nhìn gã, cắn chặt môi.

    - Nhập bọn với tụi qua đi, qua sẽ bảo vệ cho, quen thấy mồ cứ làm bộ lạ. Trước đây cưng đứng ở Đà Nẵng phải không nào? Chậc, giống y ran con ghệ ở bar Thanh Khê

    Melody. Con ghệ bị đánh ghen tơi bời, bị đưa cả hình lên báo...

    Thoáng giật thót, Ngà cố nắn giọng điềm tĩnh:

    - Ông nhầm người rồi!

    Bà Chanh ngồi sau mấy cái mẹt tre bày đầy cá nục tươi bên đường vừa hóng chuyện vừa ái ngại nhìn Ngà, bỗng lên tiếng:

    - Cô ơi, mua cá đi, cá nục tươi vừa...

    - Nè, tính ngồi đây chờ Việt Cộng hay sao mà tỉnh khô tỉnh rụi vậy hả mấy bà nội nhỏ? - Gã trọc cướp lời, đảo mắt nhìn quanh. Chẳng len lét cúi mặt như các bạn hàng khác, bà Chanh mát mẻ nói:

    - Mấy ông mới lo cút xéo đi, chết tới nơi rồi còn ghẹo gái.

    Ngà ngồi xuống vờ săm soi mấy con cá nục tươi. Làm bộ chẳng thèm chấp lời “con mẹ hàng cá hàm hồ”, gã trọc đưa mũi súng khều nhẹ vai Ngà:

    - Quên mẹ cái thằng cha căng chú kiết cùng đi với cưng đi, giờ này còn kẹt bên bến vixi (V.C) không xơi tái thì đạn lạc cũng giúp nó tiêu diêu miền cực lạc rồi cưng!

    Thoáng sững người vì chợt nhớ ra gã đã gạt tay Hãn khỏi mạn đò, đoạn Ngà cầm cái mẹt cá bất thần đứng vụt lên quật vào mặt gã, rít qua kẽ răng:

    - A thì ra mày chính là thằng đã...

    Bất ngờ hứng cả mẹt cá vào mạt, gã trọc nổi đoá lùi lại lên đạn cây M.16 đánh “rắc”, trừng mắt hét:

    - Con đĩ thúi, tao cho mày chết!

    Một gã đồng bọn nhào tới ngăn, lôi gã trọc ra xa, nhăn nhở cười:

    - Thôi huynh, em xin can, bảnh mắt đã gặp gái kiểu này xui tận mạng, đi thôi.

    Một chiếc Goebel thồ hai cái cần xé đầy cá ở yên sau giảm ga chạy trờ tới. Gã đầu trọc và gã đồng bọn nhào ra chĩa súng vào ngực thẳng nhỏ cầm lái, xô nó ngã xuống đường:

    - Mượn đỡ chiếc xe nghen mậy! - Gã trọc hét, gã đồng bọn nhanh tay mở giây buộc hất văng hai cái cần xé làm cá bắn tung toé ra mặt đất. Chúng lên xe nổ máy dông biến ra phía biển.





    4


    Những quả pháo đầu tiên mở màn cho đợt pháo cấp tập chiếm lĩnh trận địa miền biển rớt xuống bên bờ đầm Tân Mỹ. Những cây dừa đổ gục xuống và nỗi khiếp hãi mưng ngợp. Sau tiếng pháo là sự im lặng choáng, căng. Sau những cột nước lác đác vọt lên trên mặt đầm ngầu sóng, những “con dơi khổng lồ” rũ cánh trên các hàng sáo bỗng biến mất như thể đã hoá thành khói bay lên trời, hoá thành cá lặn sâu dưới mặt nước.

    Từ những nơi trú ẩn không định trước, bạ đâu chui vào ẩn đó, những đôi mắt lấm lét nhìn nhau chẳng còn tị hiềm hay đằng đằng sát khí mà dịu hẳn đi, dại hẳn đi, có vẻ đã tỉnh cơn cuồng tâm loạn trí, tất thảy dù không muốn cũng không thể khước từ cái hiện thực đang trùm phủ không chỉ lên người mà lên cả số phận họ: không có phép lạ nào có thể xua tan “hương vị” khó tả của cái chết đang tán lạc quanh đây, đang phân phát chia đều cho từng người, không sót một ai. Thứ hương vị khiến đầu óc mê muội đi, than xác rã rời. Không có ma lực, thần lực nào chấm dứt được “trò chơi” đậu vãi. Mỗi quả pháo là một hạt đậu vãi xuống bung thành những cái dấu chấm hết cho nhiều số phận “sinh linh” quên tuổi lú tên, hoá vô danh, sẵn sàng bước vào hàng ngũ “thập loại chúng sinh”, mai này hồn phách dật dờ ăn mày từng miếng cháo lá đá ở những buổi cúng tế cô hồn đầu sông cuối chợ.

    Tay vẫn bám chặt cột nò, “con dơi khổng lồ” hôm qua có tên là trung uý Hãn, giờ đang là cựu trung uý hụp đầu xuống nước mỗi lần nghe “đậu vãi”, nhịn thở hết nổi lại ngẩng lên hít lấy hít để không khí. Lần nào hụp xuống Hãn cũng đinh ninh rằng mình sẽ chết, nhưng rồi có lần ngẩng lên thấy một chiếc xà lan gắn máy ngang qua chỉ cách mình có mấy sải tay, đang hãm bớt ga lách tránh mấy cái xác vắt trên cọc nò cản lối. Hãn liều lĩnh lao vút ra, bơi như thể có cái máy điện cơ gì đó trong mình vừa khởi động tiếp sức và lần này thì vận may đã mỉm cười với hắn, ráng sức kéo để hắn lấy đà leo lên sà lan. Kẻ ra tay “tế độ” ấy chẳng phải ai xa lạ, chính là gã biệt động quân râu tóc bờm xờm , tiếng mời Hãn “cạn chén ly bôi” dọc đường, và ông ổng hát, đúng hơn, gào: Bạn ơi quan hà xin cạn chén ly bôi..

    Khi chiếc xà lan có Hãn quá giang ra tới cửa biển Thuận An, và bọn họ được cứu hộ bởi một chiếc tàu lớn thì trên đất liền, đạn đạo của những quả pháo mỗi lúc mỗi dài ra, trùm phủ lên cả vùng cửa biển.





    5

    Hãn vào tới Đà Nẵng vừa lúc phố xá lên đèn. Phản ứng dây chuyền của hội chứng cùng đường, tuyệt lộ tiếp diễn ở đây tuy có phần êm dịu hơn, nhưng sự căng thẳng táo tác, thắc thỏm không hề tỏ ra giảm bớt “nhiệt độ”. Ngang qua một góc phố tương đối vắng, Hãn cởi bỏ cái dây nịt đạn vẫn đeo dính khẩu colt 45 mấy hôm nay như một vật thừa ném vào một góc tối khuất, chẳng kiếm phương tiện đến điểm tập trung của đơn vị theo “lệnh” oang oang phát trên loa phóng thanh, có cái từ “tử thủ” lặp đi lặp lai lắm lần - mà thả bộ về đường Trần Cao Vân đến nhà một bà chị họ tắm rửa, ăn uống qua loa và đánh một giấc đến tận sáng. Trong giấc ngủ sâu, có lúc Hãn mơ thấy thằng bạn cũ - Lược, băng trắng quấn kín từ đầu đến chân mang chữ Thọ nhỏ máu ròng ròng trên ngực đứng khoác tay Ngà tươi cười trên một đỉnh non mù mây trắng, họ cười, họ vẫy tay, và Hãn bơi, bơi, bơi trên mặt biển ngầu sóng mà không cách chi tới chỗ họ được.

    Hôm sau khoác cái quần dài nâu, áo sơ mi carô rộng thùng thình mượn đỡ của ông anh rể, Hãn đi lang thang gần như khắp Đà Nẵng, sang tận bán đảo Sơn Trà tìm kiếm Ngà theo kiểu hú hoạ bởi hắn đinh ninh qua được đầm Tân Mỹ thế nào thì nàng cũng đã về đến đây. Chẳng thấy tăm dạng, Hãn chán nản rồi yên chí có khi Ngà đã may mắn thoát hiểm, và không chừng lúc này đang bình yên trên một hạm đội lớn nào đó của Mỹ tận ngoài khơi. Những tàu của ham đội 7 nghe nói sẵn sàng đón các tàn binh và thường dân di tản, ngược hẳn “lệnh tử thủ” đang được nghe hết sức hờ hững ở đây, hờ hững như nghe tin dự báo thời tiết.

    Ăn vật vờ, ngủ vật vờ, đi đứng vật vờ, cả đọc sách cũng vật vờ nốt! Sau này nhớ lại Hãn cho đó là khoảng thời gian bản lề, chuyển tiếp, giao mùa u mê ám chướng nhất đời mình.

    Vợ chồng bà chị họ vốn là giáo sư của trường trung học Phan Chu Trinh, nhà có một tủ sách dàn kín tới ba bức tường của một phòng đọc rộng cạnh phòng ăn. Lang thang chán ngoài đường, Hãn lại quay về làm “mọt sách”. Ban đêm đôi khi chợt thức sau một cơn ác mộng nào đó không ngủ lại được, hắn đọc sách tới sáng, rồi chợp mắt ngủ bù đến tận trưa hôm sau. Hôm quân giải phóng vào tiếp thu Đà Nẵng, đứa cháu vào nơi dành riêng cho khách thấy đèn vẫn để sáng, cuốn Kẻ xa lạ của Albert Camus đọc dở còn úp trên mặt Hãn, nó vừa tay ông cậu đánh thức vừa đùa: “Nè, Kẻ xa lạ, Việt công vô tới rồi kìa, dậy trốn lẹ đi cậu”.

    Hắn chẳng trốn, đứng trước cửa nhìn thành phố rùng rùng trong nhịp điệu chuyển động mới, cờ băng rợp trời. Cảm nhận đầu tiên của Hãn trong ngày hôm ấy là, hình như mọi ám ảnh nặng nề về chiến tranh đã cất khỏi mọi lồng ngực, ai cũng thở phào nhẹ nhõm.

    Hôm sau, phất cờ thong báo tập trung của Uỷ ban quân quản phát trên đài phát thanh và từ các xe thông tin lưu động ngoài phố, Hãn tiếp tục nằm nhà đọc sách. Nửa đêm, một toán trong đội Thanh niên Cờ đỏ ập vào lục soát, hắn bị dẫn độ vào nơi tập trung. Hành lý mang theo khá ít ỏi, hai bộ quần áo, ít đồ ăn khô, vài gói thuốc Bastos xanh, và phần còn lại của cái túi xách cũ kỹ ken đầy những sách văn chương, triết học. Tiếc thay, số sách ấy sau này lên tới trại Hiệp Đức đã bị cán bộ quản giáo “giữ giùm”, kèm câu cảnh cáo nghiêm khắc: “Không được đọc các loại văn hoá phẩm đồi truy, phản động”.

    Hoà Cầm hai ngày, Hội An chừng hơn tháng, và Hiệp Đức, Phú Ninh ngoài ba năm. Những ngày tháng ấy thoạt tiên tưởng như không thể chịu đựng nổi, nhưng rồi những tờ lịch cũng trôi theo mồ hôi mỗi ngày tuôn xuống làm bóng lưỡng những cán cuốc, cán dao, theo các thao tác ban đầu vụng về sau nhuyễn dần của việc trồng trọt, đẵn gỗ, phát rừng làm.rẫy... Trôi theo những câu chuyện tiếu tâm thay, chay có mặn có bạn bè chung nhà, chung trại hễ gặp là nài nỉ Hãn phải kể để được cười thả dàn, quên bớt mệt nhọc. Trôi theo những câu chuyện võ hiệp kỳ tình của Kim Dung hắn từng đọc, nhớ như in từng chương hồi, từng tình tiết, và kể lại vanh vách lúc pha giọng hài tếu, khi cường điệu dàn trời. Kể chuyện chọc cười đổi thuốc hút. Kể chuyện kiếm, chưởng được người nghe sẵn sàng san sẻ cả những món ngon, hiếm được tiếp tế vào mỗi kỳ thăm nuôi, so với tiêu chuẩn cơm độn khoai mì, mắm cái rau rừng hàng ngày. Trôi luôn và qua tuốt có điều hắn không hề ngờ, vào một buổi sáng chủ nhật đẹp trời, cái thằng ít được thăm nuôi nhất trại lại được gọi ra khu tiếp tân, nhận tin mình sắp lên chức… cha. Người mang tin đến chẳngai khác hơn là Ngà.

    Gặp lại Ngà quả là bất ngờ ngoài sức tưởng tượng, Hãn hết trâng trối ngắm nàng lại siết chặt tay lắc lắc như để chắc rằng thực chứ không mơ. Xa lâu rồi bỗng gặp, hệt một đoạn phim quay chậm, phần cuối của cái đêm dài dằng dặc bên bờ đầm Tân Mỹ ấy tuần tự hiện ra trong hồi ức của cả hai người. Chẳng rõ có bị ảnh hưởng dây chuyền bởi hội chứng cùng đường, tuyệt lộ đang “hành hạ” lũ người gần như mất trí ngoài đầm hay không, ám ảnh về nỗi chết gần kề sau cùng đã ráp họ thành đôi lứa, cơ hồ do sự phối ngẫu của định mệnh. Thoạt tiên ngại ngần, dần dà bạo dạn hẳn lên, chàng quấn lấy nàng trong tiếng kêu trầm thống thịt gọi thịt, da gọi da, nhịp tim gọi nhịp tim hào hển, háo hức, nồng nã quí báu rất có thể là những phút giây sau cùng. Cái đêm hôm ấy chỉ đến với họ duy nhất một lần trong đời, giờ đã thành kỷ niệm ngấm trong hồn, chìm vào xác và chẳng trừu tượng chút nào, nó đang lớn từng ngày ở người đàn bà lần thứ nhất được làm mẹ. Vuốt cái bụng lùm lùm, Ngà nheo mắt cười:

    - Hôm ấy tưởng anh không vượt qua được đầm Tân Mỹ, em đã yên chí anh chết, khóc suốt.

    Đoạn Ngà kể, ngay sau loạt pháo đầu tiên, nàng hớt hải theo chân mấy bà bán cá vào hầm trú ẩn trong nhà bà Chanh cách chợ chừng trăm mét. Thấy nàng bơ vơ, bà Chanh thương tình cho ở lại qua đêm. Sáng sớm hôm sau nghe im tiếng sung, chẳng rõ có còn chiến tranh nữa hay không, Ngà cũng tất tả đón đò quay lui bên kia đầm Tân Mỹ.

    Từng đám tù, hàng binh chân trần, nhếch nhác xếp thành hàng dọc đi bộ ngược ra mạn Bắc trước các họng súng canh giữ của quân giải phóng. Nàng hết lui lại tới, hết đi bộ lại xin quá giang xe tải, xe máy, và cả xe nhà binh, ngược xuôi tìm kiếm. Suốt hai ngày liền trong hàng ngũ những gương mặt bụi lầm nắng xém ấy chẳng có gương mặt nào mang tên Hãn. Điều khó tin và kỳ diệu là, cái túi xách bỏ lại ở “phòng tân hôn” vẫn còn y nguyên, lấy chai dầu Nhị Thiên Đường ra xức một tẹo, quặn lòng nhớ chàng, nàng lại khóc như mưa.

    Về tới cây số 17 nghỉ ngơi vài ngày, Ngà lại tiếp tục quay lại Huế tìm đến những nơi nghe người ta bảo là cơ quan của Chính quyền Cách mạng, của Uỷ ban quân quản, là điểm tập trung cải tạo ngụy quân nguy quyền. Không, không, và không tìm thấy, nàng đinh ninh rồi yên chí Hãn đã mất tích hoặc chết rấp ở bụi bờ hốc xó nào đó, nhưng rồi cái mầm sống ngày mỗi lớn trong nàng lại thầm nhắc nhở và Ngà lại cầm lòng không đậu lại tiếp tục tìm kiếm.

    - Sao biết anh ở đây? - Hãn âu yếm ngắm gương mặt Ngà trắng xanh điểm lấm tấm những hạt mồ hôi bên cánh mũi nom đẹp và hiền đến tội.

    - Đến nhà anh ở Kế Môn năm lần bảy lượt, ai cũng nói sốt ruột chờ tin. Ông già đòi lập bàn thờ, bà già cứ khóc suốt không cho, hai vợ chồng chú em trai nói có đi xin xăm, coi bói , thử đi tìm vài nơi rồi cũng đành về không Riêng em không hề mất hy vọng, cách đây chừng mươi hôm lai về Kế Môn, và may mắn là... sao anh lặn mất tăm lâu vậy?

    Hãn cúi mặt, cau ríu đôi mày sâu róm nom áy náy hơn là ân hận, thấp giọng nói:

    - Thư từ ở đây ra ngoài qua nhiều cửa dễ thất lạc. Vả lại anh biết ở nhà bây giờ cũng không ít khó khăn, phải gánh thêm phần lo cho anh đâm ra nặng, ra tội, và rồi nói chung… anh cũng lười viết thư!

    - Anh coi cái sự lười của mình to tát, vĩ đại hơn nỗi âu lo của ông bà già và anh em ở nhà sao? Quên béng cả em sao? Từ nay đừng có khùng vậy nữa!

    Họ cùng cười, Ngà cầm tay hắn đặt úp lên bụng mình giấu sau cái túi xách, âu yếm nói:

    - Làm quen với con đi chứ, anh có mừng không?

    - Mừng!

    - Nghe yếu xìu, nói lần nữa coi!

    - Ừ thì… mừng, nhưng liệu em có nuôi nổi nó cho đến ngày anh về không?

    Ngày về! Dạo mới đến Hiệp Đức, vào trại chừng hơn tuần lễ, có người ở chung nhà được tiếp tế một trái mít chín cây. Hãn được chia hai múi gọi là ăn lấy thảo. Ăn xong hắn mang hai cái hạt vùi ở vạt đất trống sau nhà, cạnh cửa sổ, cười bảo: “Bao giờ hai cái hạt mít này nứt mầm thành cây ra trái thì chắc tụi mình mới được về!”. Ai nghe cũng cho là hắn cường điệu. Người bảo cùng lắm là 6 tháng, kẻ đoán chắc 1 năm là cùng, mà mít có trái thì ít ra cũng phải ngoài 3 năm, lâu quá! Hai hạt mít nứt mầm được Hãn chăm sóc mỗi ngày, được tưới bằng nước vo gạo xin ở nhà bếp, và bón bằng phân bò nhặt đâu đó trên đường đi lao động, chúng đâm cành nẩy lá lớn dần, xanh tốt, mượt mà và chẳng ai bảo ai, hễ trông thấy chúng là họ lại sực nghĩ đến ngày về. Có kẻ nghĩ đến hoá rồ, nhảy băng qua cửa sổ nhổ mất một cây, vừa dày đạp nó vừa lớn tiếng thoá mạ thằng Hãn gàn, thằng Hãn lẩm cẩm, thằng Hãn... Bị Hãn phẫn nộ ngăn chặn kịp thời nên một cây vẫn còn sống sót, giờ đã cao hơn 1 mét, thân vẫn còn buộc rẻo vải trắng để tang cho cái cây anh em đã chết thảm.

    - Tới ngày anh về à? Làm như anh phải ăn đời ở kiếp nơi này mãi hay sao ấy! - Ngà khẽ vặc, Hãn kể chuyện hai cây mít. Nàng cười: - Anh quá là khéo tưởng tượng.

    - Không., anh rất thực tế. Kể chuyện cây mít để em đừng quá trông mong.

    - Ờ thì... trông vừa vừa thôi vậy! Nhưng anh đừng có quá coi thường em, ý chí em chẳng bằng thép nhưng em đã muốn làm cái gì thì phải làm cho bằng được. Như anh biết rồi đó, trước đây lấy chồng xong em vẫn tiếp tục đi học, lấy hai cái chứng chỉ Luật.

    - Hồi ấy em chúi mũi vào việc học để lấp đầy khoảng thời gian chờ đợi chồng đi trận về. Còn bây giờ...

    - Bây giờ, chờ anh đi tù về cũng có khác gì đâu? Em lấp đầy khoảng trống bằng việc nuôi con. Anh lo em không nuôi nổi nó à? - Ném lia mắt bốn phía, Ngà láu lỉnh cầm bàn tay chai sần của Hãn vẫn giấu sau túi xách đặt lên bầu vú căng tràn thanh xuân của mình, cười nói: - Chỉ với hai bình sữa này thôi cũng dư sức nuôi con, và nếu cần… nuôi cả cha nó nữa!

    Hai người cùng cười. Chạm phải tia nhìn soi mói, sắc lạnh của tay cảnh vệ trẻ bồng súng đứng gác trước cửa, vờ lơ đãng nhưng không hề bỏ qua cử chỉ hay lời nói - có thể nghe thấy - nào, Hãn rụt vội tay lại:

    - Ở đây có người thỉnh thoảng nhắc đến em, bữa nay biết tin em chắc hắn sẽ ngạc nhiên lắm.

    - Ai vậy anh?

    - Còn nhớ thằng say hát hỏng tùm lum hôm mình chạy ra biển không?

    - À, cái gã cạn chén ly bôi hả?

    - Ừ, chính hắn là người đã cứu anh ở đầm Tân Mỹ, nay thân nhau lắm. Cũng chính hắn đã nổi đoá nhổ, dày xéo cây mít của anh. Cái thằng nóng tính nhưng tốt bụng, lại khoẻ như trâu, luôn chia sẻ, gánh giúp anh những việc nặng.

    - Ngộ quá hả? Nhưng ít ra anh ta cũng có một cái tên chứ?

    - Kiêm. Hắn tên Kiêm.

    - Cho em gửi lời thăm anh Kiêm, hứa sẽ hậu tạ cái ơn cứu tử - Ngà bỗng thấp giọng gần như thì thầm: - À, mà anh Hãn này, từ đây đến ngày sinh con còn lâu mới gặp anh lần nữa, em muốn biết anh thích đặt tên con là gì?

    - Chậc, tên gì chẳng được...

    - Nói như anh thì .. Em tính nếu là con gái sẽ đặt tên Tân Mỹ.

    - Tên cái đầm quỉ tha ma bắt ấy hả?

    - Anh không thích sao? Để kỷ niệm...

    - Được thôi, còn nếu là con trai sẽ đặt tên nó là Công.

    - Công à? Nghe cũng được, nhưng sao lại là Công, anh?

    - Thì container, phòng tân hôn độc nhất vô nhị, trên mặt đất này không nơi nào có, cái nơi cha mẹ nó...

    Họ cùng cười, Ngà lùa tay khẽ nhéo đùi Hãn, mắng yêu:

    - Cái anh này, lúc nào cũng đùa được.

    Một đứa con, đặt tên cho nó! Mãi tới lúc này cái cảm giác mới mẻ vì bất thần biết tin mình sắp có con vẫn còn mưng ngợp trong Hãn. Mình có yêu Ngà không nhỉ? - Có! Đã có lúc mình quay quắc nhớ Ngà tưởng chừng muốn trốn khỏi trại để đi tìm nàng, nhưng rồi... Nếu mỗi người chỉ yêu một lần trong đời thì có phải là lần này không? Trước Ngà, những gặp gỡ qua đường, những đêm tình tạm bợ, những mẩu tình bỡn cợt, chắp vá cùng bao cô gái phấn son dọc những vùng hành quân, trại đồn nhoà trong bia bọt thâu đêm suốt sáng, ngầu trên chiếu rượu hay chiếu bạc bạt mạng cô hồn. Tất thảy đã khép lại sau cánh cửa hôm qua, đã lắng tận đáy quá vãng, để bây giờ chỉ còn một gương mặt, một tên gọi bật nổi trên cái bề mặt chìm khuất ấy: Ngà!? Thoáng ngập ngừng rồi Hãn siết chặt tay nàng, xúc động nói:

    - Cảm ơn em!





    6

    Ở rừng, mùa mưa khắc nghiệt hơn mùa khô gấp bội. Đó là mùa sinh sản cấp tập của sên, vắt, muỗi mồng, những “người bạn” khó chịu của thợ sơn tràng, người đi rừng, cực chẳng đã phải sống chung với chúng, củi khô trở nên khan hiếm để nhóm bếp hơ quần áo và nấu ăn, mái lều tạm lắm khi khó chống chọi với những cơn mưa trút, những con suối sớm mai ngang qua ròng sát đáy, chiều quay về mưa đã biến thành những dòng sông vạm vỡ tràn bờ khó thể vượt qua… Đã từng trải qua nhiều mùa mưa đồng bằng lận miền núi, nhưng mùa mưa ở Hiệp Đức năm ấy để lại trong Hãn dấu ấn không thể nào phai.

    Một ngày như mọi ngày, ra khỏi trại lúc hừng sáng, mỗi người khoác một tấm nylon phong phanh lầm lũi bước dưới trời lất phất mưa pha sương. Đến cửa rừng, toán lấy mây rẽ trái khuất dạng sau xưởng mộc, xưởng rèn ồn động tiếng cưa, bào, thổi bễ, quai búa. Đi chung thêm một quãng nữa, toán đốt than lại rẽ phải mất hút sau ba ngàn bạch đàn gầy guộc trong mùa khô giờ đua nhau đâm cành, nảy lộc, và toán đẵn gỗ đông đảo nhất, trong đó có tổ lao động của Hãn và Kiêm băng qua con suối cạn, vượt dãy đồi chập chùng xanh mượt nương bắp, khoai mì, đậu phộng nối mãi vào rừng chồi rải rác nhiều hố pháo hố bom, lúp xúp những chồi non mới nhú, vượt thêm chừng dăm cây số đường rừng nữa mới tới rừng đại ngàn với lắm khe suối, đồi, lũng sâu, còn nhiều dấu vết hầm hào, lán trại của một căn cứ cũ nay bỏ hoang. Đến nơi, nghỉ ngơi chừng mươi phút rồi từng tốp tản ra đi khai thác gỗ. Gỗ được đẵn bằng rựa, dao hoặc mác, chẳng có cưa máy hay cưa tay trợ giúp, nhưng qua ngày này tháng nọ nhiều vạt rừng cũng phải lùi bước trước sức chịu đựng nhẫn nại, dẻo dai của bọn người trước đây chưa từng biết lao động là gì.

    Quá trưa, cây chò dài 14 thước, đường kính hai tấc đúng chuẩn chỉ tiêu được giao, khiêng bởi bốn người: Hãn và Kiêm một đầu, đầu kia, hai bạn chung tổ - theo kiểu khiêng quan tài với hai đòn ngang xỏ vào dây mây máng cây gỗ toòng teng ở giữa, và hai đòn khiêng ngắn hơn đặt lên vai một người - đưa từ dưới thung lên nhập vào các tốp khác ở cửa rừng chờ lệnh xuất phát.

    Cơn mưa dai dẳng từ sau bữa cơm ăn vội đứng quây quanh dưới mái lều che tạm làm bếp đến giờ mỗi lúc mỗi nặng hạt. Tất thảy mọi người đều tỏ vẻ ái ngại, duy chỉ có hai cảnh vệ đi kèm là coi thường thời tiết.

    Một cảnh vệ giảm âm cái radio nhỏ đeo bên hông đang phát tin thời sự, lật tay dòm đồng hồ, hét tướng:

    - Tập họp đủ rồi chứ? Nào bắt đầu đếm!

    Từ trái sang phải vang lên tiếng đếm từ 1 đến 19.

    - Tốt! Lên đường - xốc lại chiếc áo mưa chiến lợi phẩm màu đất sét, tăng âm cái radio, tay cảnh vệ lại hét và 19 tổ khiêng lục đục nâng đòn lên vai.

    Trong màn mưa trùng điệp , thoạt tiên các tốp nối thành hàng một giữ khoảng cách khá đều, dần dà tốp trước tốp sau có khi cách quãng cả vài trăm thước.

    Cây gỗ dài đòn khó xoay chuyển mỗi lúc qua các lối mòn cua ngặt, quẹo gắt, hai anh bạn chung tổ gánh phần ngọn vẫn càu nhàu than nặng. Kiêm nói:

    - Kể chuyện gì vui vui cho tụi tao đỡ nặng đi mày, Hãn!

    Nhấc cái đòn khiêng đổi từ vai trái sang vai phải, Hãn làu bàu:

    - Mệt thấy ông bà ông vải dưới suối vàng, mếu chứ cười gì nổi! Tụi mày cứ vừa đi vừa nhắm mắt mường tượng thấy mình là cây chò chứ chẳng phải người khiêng nó sẽ nhẹ nhõm ngay.

    Ba thằng “phu khiêng” gần như cùng lúc kêu lên:

    - Xạo, đồ xạo! Thì ra nãy giờ mày vừa đi vừa ngủ à!

    - Thực chứ xạo gì! - Hãn cãi: - Này nhé, các Thiền sư đạt đạo, trở thành bậc Quán Tự Tại có thể dùng trí huệ siêu nhiên thấy được năm Uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là không. Rõ chưa? Tới 5 uẩn còn không thì nhằm nhò gì một cây chò này.

    - Đúng là không nhằm nhò gì ! - Kiêm nói : - Chỉ nặng thấy ông bà ông vải thôi, nhưng cây chò là cây chò, còn mày đếch phải... Thiền sư hay bậc Quán Tự Tại, con ạ.

    - À vậy hả! - Hãn làm bộ nhăn nhó: - Tại tao... quên!

    Cả bọn cùng cười. Sau mươi lần dừng nghỉ dọc đường, bọn Hãn rớt lại sau cùng với một cảnh vệ đi khoá đuôi. Tay này luôn miệng ca cẩm, giục đi mau, ngại trời tối.

    Và rồi tai nạn xảy ra khi họ cố vượt qua khe Ma Đuổi - một trong những cái tên tự đặt để ghi nhớ những mốc, chặng trên đường, nơi hẹn gặp để cùng cơm nước, nghỉ ngơi. Có những tên buồn cười như Dốc Tức Ngực, Suối Bì Bạch hoặc Rú Đoạt Hồn… Cái khe hẹp nhưng nước chảy xiết, đường xuống khe dốc nghiêng chừng 30 đến 35 độ hễ đổ dốc là phóng nhanh như bị ma đuổi, ma rượt. Trước khi qua khe - lúc này nước tràn, chảy xiết hệt con thác - bọn họ đã cẩn thận “sắm” một người một cây gậy để chống đỡ lúc trượt dốc. Dù đã hết sức trì níu, thận trọng dò dẫm từng bước đưa phần ngọn xuống trước nhưng rồi không cưỡng được dòng cuốn, đòn khiêng tuột khỏi vai người khiêng đằng gốc, Kiêm bị trượt chân ngã ngửa. Trên đà lao theo dòng cuốn, cây chò xoay gốc bật mạnh vào phần dưới người Hãn, hắn bị ngất xỉu, bị cuốn đi chừng hai mươi thước, may mắn vướng vào một thân cây mục ven bờ, dừng lại.

    Hạ bộ bị thương trầm trọng, máu ra nhiều, người bị nạn được chuyển về, sau khi băng bó sơ cứu bằng nhiều phương tiện, thoạt tiên trên cán làm bằng cây rừng, tiếp đến quá giang trên cộ xe bò, xe kéo máy cày, và trên chuyến xe đò liên tỉnh cuối cùng trong ngày, về đến bệnh viện huyện gần nửa đêm, ở đó điều trị hơn mười hôm, rồi quay về tiếp tục an dưỡng ở trạm xá trại. Sau cùng được trại chiếu cố, Hãn chuyển sang làm việc nhẹ ở xưởng mộc. Hắn giấu kín không hề báo cho Ngà và gia đình biết về sự cố bất hạnh này.

    Sau tai nạn, sức khoẻ bình phục khá nhanh nhờ sức trẻ, nhưng Hãn cơ hồ biến thành kẻ nào khác, xa lạ với mọi người, xa lạ với chính bản thân mình. Từ một người thích đùa, hễ nhắc đến chuyện tiếu lâm hay truyện chưởng là bốc hứng thao thao bất tuyệt, giờ thì hắn cứ y như cái hũ đóng kín nút, đâm ra kiệm lời, sau giờ lao động thường ở lại chăm chút mảnh vườn nho nhỏ bên xưởng mộc trồng gần như đủ các loại rau củ như cải, rau thơm, ngò gai, mướp ngọt, ớt… tặng thêm chút chất tươi cho bếp ăn tập thể, ngồi hàng giờ trông ra cây mít cô đơn bên cửa sổ, hoặc lên hội trường vùi đầu vào mớ sách báo của cái góc khiêm tốn được gọi là thư viện trại.

    Kiêm luôn bị dằn vặt bởi cái ngã ngửa không thể cưỡng chống của mình khi vượt khe Ma Đuổi tiền đề dẫn đến tai nạn khiến thằng bạn đồng cảnh ngộ hoá ra đổi tính đổi nết một cách ngang xương như thế. Càng hiểu rõ nổi đau kín thầm của Hãn - nỗi đau hầu hết mọi người ở trại ai cũng biết nhưng vì tế nhị, ai cũng vờ như không biết - Kiêm càng hết lòng chăm sóc bạn hơn. Đổi lại, Hãn luôn tiếp nhận sự tốt bụng của Kiêm một cách hờ hững, thậm chí lạnh lùng. Nhìn dáng vẻ lủi thủi, cô đơn như cố tách biệt mình ra khỏi thế giới chung quanh mà không thể của Hãn trong lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, thỉnh thoảng Kiêm lại lắc đầu, lẩm bẩm : “Giá như mình đừng ngã, hôm ấy trời đừng mưa. Phải chi... sao ông trời lại giáng cho nó một đòn đau hiểm ác đến thế!”.

    Cái tên Hãn buột miệng nói ra trong ngày chủ nhật thăm nuôi ấm cúng, hạnh phúc giờ đã hoá xa xôi ấy, tưởng như đùa ấy lại được Ngà thực hiện. Đứa con trai sinh ra nàng đặt tên Công - Thái Ngọc Công, và sau kỳ ở cữ chừng hơn ba tháng, Ngà lại khăn gói lên Hiệp Đức.

    Nàng hết sức kinh ngạc khi Kiêm thay mặt Hãn ra nhà tiếp tân nhận đồ thăm nuôi. Hắn nhận ra nàng ngay, còn Ngà thì cảm thấy ngờ ngợ.

    - Rất tiếc Hãn bệnh đột xuất nên... Tôi là Kiêm, cô Ngà còn nhớ tôi không? Mình từng gặp nhau ở đầm Tân Mỹ.

    - À thì ra là anh. Anh Hãn em bệnh thế nào ạ?

    - Cũng xoàng thôi, bị viêm răng sưng má trông kỳ cục nên cu cậu không muốn gặp Ngà đấy thôi! - Kiêm nói dối một cách trơn tru. Ngà cười buồn:

    - Tiếc thật, thế mà đêm qua ngủ trọ dưới thị trấn Hà Lam chờ đón xe thồ lên đây em cứ thao thức mãi không chợp mắt được, chuẩn bị biết bao lời sẽ nói với anh ấy, cứ ngỡ bữa nay sẽ rất vui.

    - Cháu vẫn khoẻ chứ? Hôm nhận thư cô báo tin đã sinh con trai, Hãn nó mừng lắm. Trên đường đi làm tôi đã lén mua được một bi đông rượu đế cùng vài anh em làm tiệc khoai mì bảy món chúc mừng... - Kiêm bỏ lửng câu nói, không nỡ kể tiếp về cuộc rượu chúc mừng ấy, vì Hãn đã uống rượu mà chẳng tỏ ra hân hoan chút nào, cứ trầm ngâm như thể đang đắm vào thế giới bí ẩn nào. Mắt người đàn bà vụt ngời lên giống bao bà mẹ khác khi nhắc đến con mình, giọng trở nên ấm áp hẳn:

    - Cảm ơn anh, cháu vẫn khoẻ. Có cái ảnh chụp nó kèm thư gửi anh Hãn trong giỏ xách, nhờ anh...

    - Chúc cô và cháu khoẻ vui luôn, tôi phải vào đây.

    Cầm lấy giỏ đồ thăm nuôi đã được cán bộ quản giáo kiểm kỹ, đoạn Kiêm lấy từ quần ra cái hộp diêm nhỏ xíu dúi lẹ vào tay Ngà, thấp giọng nói:

    - Suýt quên, Hãn gửi...

    Cử chỉ lẹ làng của hắn không thể qua mắt cảnh vệ. Anh ta bước đến chìa tay trước Ngà, lờ mắt nghiêm giọng:

    - Xin lỗi, cho tôi mượn cái hộp quẹt.

    Săm soi sợi giây chuyền vàng mang hình tượng Phật và mảnh giấy nhỏ chỉ ghi vỏn vẹn một dòng chữ xong, cho lại vào hộp diêm đưa trả Ngà, rồi anh ta quay lại gay gắt cảnh báo Kiêm về cử chỉ lén lút vừa rồi. Kiêm thành khẩn nhận lỗi, hứa lần sau không dám tái phạm, đoạn xách giỏ đồ quày quả vào trại.



    7

    Gắng nuôi con. Quên anh đi. Thứ lỗi cho anh. Hãn. Đó là nội dung dòng chữ bút chì trên mảnh giấy xé từ tập vở học trò gấp tư, kèm sợi dây chuyền vàng giấu trong hộp diêm. Mười một chữ hệt mười một con nhặng, vừa đọc thấy tức khắc chúng cất cánh bay vù đáp vào mắt khiến Ngà tối tăm mày mặt. Mười một chữ viết theo lối đánh điện tín ngắn gọn, mà chứa lượng thông tin có sức nặng làm trĩu trái tim giàu cảm xúc của người đàn bà trẻ.

    Sững sờ, nước mắt lặng lẽ ứa lăn trên má, đọc lui tới không biết bao nhiêu lần vẫn chẳng thể hiểu nổi sự thực ẩn giấu sau dòng “điện tín” ấy, Ngà đến khẩn nài ông cán bộ quản giáo trực tiếp tân xin được gặp “chồng” lần nữa. Ông này lắc đầu:

    - Từ trước tới nay không có lệ cho trại viên tiếp thân nhân hai lần.

    Ngà trưng mẩu thư ngắn nom tầm thường nhưng chứa cả nội dung “vĩnh biệt” ngậm ngùi, kèm những giọt vắn giọt dài không thể ngăn:

    - Hai lần trong một ngày phải không ạ? Vây tôi xin nán lại chờ đến mai, mong ông thông cảm.

    Trả tại mẩu thư cho “khổ chủ”, ông ta lạnh lùng nói:

    - Mai không phải là ngày nghỉ. Đây là việc nhà, tôi nghĩ chị có thể trao đổi qua thư từ.

    Sau đó bao nhiêu thư đi không hề nhận được tin lại. Vài lần Ngà lên thăm nuôi mang cả thằng cu Công theo, Hãn vẫn cố tình tránh mặt. Kẻ “đại diện” hắn vẫn là Kiêm. Kiêm thường kết thúc nhanh chóng cuộc gặp, nhận giỏ đồ tiếp tế xong là quay vào trại ngay, và bao nhiêu lần hắn lặp lui lặp tới mãi một câu nghe phát chán: “Hãn vẫn thường, chúc cô Ngà và cháu khoẻ vui luôn!”.

    Để có tiền sinh sống, nuôi con, Ngà chẳng nề hà bất cứ công việc gì, từ nặng nhọc như rửa chén bát trong các tiệm ăn, quán phở, giúp việc trong các lò giết mổ heo, bò... đến tạp nham như bán hàng rong, buôn bán nhu yếu phẩm ở cửa hàng đằng đông, đi bỏ mối lẻ ở các quán tạp hoá đằng tây, theo tàu lửa Thống Nhất buôn chuyến đủ loại hàng hoá trong Nam cần, ngoài Bắc sẵn có hay ngoài Bắc thiếu, trong Nam thừa, luồn lách tận biên giới Lào buôn lậu hàng qua ngả cửa khẩu Lao Bảo. đường 9... Ăn uống thất thường, ăn vận tuềnh toàng nhưng nhan sắc cứ lồ lộ hệt sen trong đầm, trăng đầu ngõ, đi bất cứ đâu và làm bất cứ gì, không ít phen Ngà phải chống chọi với cái lũ trai lơ, bọn đàn ông thích cà rỡn, ưa trò chim chuột, coi quấy rối tình dục là tuồng mua vui. Người mẹ trẻ ấy chưa bao giờ ngã lòng.

    Và, ngày nọ bỗng gặp lại bà Chanh ở giữa chợ Đông Ba, hai người hàn huyên tâm sự gần nửa buổi ở một quán nước. Nghe bà Chanh rủ rê, nói về lợi lộc của cái nghề “tối mật” mối lái, móc nối cho đường dây đưa người vượt biên ra nước ngoài qua cửa biển Thuận An, Ngà phân vân, nửa tin nửa ngờ, đoạn hứa sẽ thử việc. Qua vài lần móc nối trót lọt, nhận thù lao gấp nhiều lần thu nhập do các nghề hầm bà lằng trước đây mang lại, nàng trở thành cái bóng luôn theo hình là bà Chanh được coi như bà chị kết nghĩa.

    Nghề nghiệp mới đòi hỏi phải sống kiểu nửa tối nửa sáng, thoắt ẩn thoắt hiện, lắm lúc phải “tàng hình” bám chặt các bến bãi trước mỗi “trận đánh” đến cả tuần lễ, mươi ngày, không thuận tiện lắm cho việc nuôi con, Ngà đánh bạo mang thằng Công về quê Hãn ra mắt ông bà nội nó. Hết sức ngỡ ngàng, chẳng ai dám nhận, bảo chờ xác minh. Sau đó được Hãn xác nhận qua thư, người em trai vội vã đi tìm Ngà, và không chút ngại ngần nhận thằng cháu về nuôi. Vậy là năm lên ba, thằng Công về ở luôn với ông bà nội và chú thím nó. Thỉnh thoảng Ngà lại về thăm con, dẫu chưa được cưới xin, nàng vẫn đối xử khá tốt với gia đình “chồng”, dưới mắt mọi người, Ngà được tiếng là nàng “dâu” thảo.

    Ngày Hãn nhận giấy phóng thích quay về quê thì thằng Công gần lên bốn, ông bà nội rất cưng chiều thằng cháu đích tôn. Trước đó không lâu, vợ chồng người em không con, mới tậu được một cửa hàng nhỏ kinh doanh vàng bạc ngoài phố, dọn ra ở ngoài đó luôn, Hãn trở thành trụ cột chính của gia đình.

    Như một số gia đình khác trong làng, ngoài ruộng vườn canh tác quanh năm, nhà Hãn còn có truyền thống kinh doanh vàng bạc từ bao đời nay. Người cha nói:

    - Bây giờ thong thả rồi con học nghề là vừa, trước mắt giúp em con phát triển cửa hàng của nó, sau này có nghề lận lưng để nuôi vợ con.

    - Không, con không có ý định sống xa nhà nữa.

    - Xa nhà là sao?

    - Thì từ bao đời nay làng mình ai muốn ăn nên làm ra bằng nghề thợ bạc cũng phải tha hương ra phố ra huyện, thậm chí lang bạt kỳ hồ khắp nơi Bản thân cha cũng vậy thôi, nếu chưa thua tuổi già, cha đâu đã chịu “qui cố hương”!

    Người cha cười:

    - Đi, thỉnh thoảng lại về, có gì đâu mà ngại.

    - Vả lại, con đã nguyện sống độc thân đến hết đời.

    - Cái gì mà... độc thân? - Người cha xoe tròn mắt kinh ngạc nhìn gã trai như thể trên trán hắn bất thần nẩy ra cái sừng… bò: - Thế đã báo tin cho Ngà nó biết con về chưa? Bao nhiêu năm người ta sắt son chờ đợi lo kiếm tiền nuôi con mọn, sao giờ con lại…

    Run tay châm thêm cho đầy tách trà, ông cụ uống cạn cơ hồ đang rất khát. Đan hai tay bó lấy đầu gối, Hãn lảng mắt ra cây bồ đề cổ thụ cao chừng năm sáu tấc thu mình đứng trong chậu kiểng màu lam ngọc với bộ rễ sù sì chưng trước hiên, thường ngày ai cũng khen thế đẹp oai phong, bộ rễ mạnh mẽ, ấn tượng, giờ nom lẻ loi đến phiền muộn.

    - Dù mẹ thằng Công đã từng…nhưng giờ con coi cô ấy cũng chỉ là bạn!

    - Lâu nay ở nhà vẫn đối xử với nó như dâu thảo, và nó coi cha mẹ như cha mẹ chồng, tình cảm như bát nước đầy. Đừng có ruồng bỏ, quay lưng lại với người ta một cách vô ơn bạc nghĩa thế con ạ!

    - Con có một lý do rất riêng chưa tiện thưa với cha lúc này, xin khất lúc khác tiện hơn. Mỗi thằng Công con nghĩ trả hiếu cho cha mẹ cũng đủ rồi. Biết đâu sắp tới vợ chồng chú Hiếu hết tịt ngòi, lại đẻ sồn sồn năm một, lúc đó chỉ sợ cha lại than mệt vì bị cháu chắt quấy rầy.

    - Con có tự thấy bây giờ con khác trước nhiều không?

    - Con vẫn là con thôi, có gì khác đâu? Con muốn chăm sóc lại khu vườn, cha thấy thế nào ạ?

    - Chơi với cuốc xẻng chẳng nhàn nhã bằng chơi với các dung cụ nhỏ gọn của nghề thợ bạc đâu, con cần cân nhắc kỹ. Việc cuốc đất lật cỏ ai chẳng làm được?

    - Đất sẽ đẻ ra vàng nếu mình biết cách bắt nó đẻ. Còn nghề thợ bạc chỉ là gia công vàng thôi!

    Đẩy mục kỉnh lên tận gốc mũi, người cha ngắm đứa con nay đã rắn rỏi, phong trần hơn trước, có cái gì đó cứ phảng phất trên vẻ mặt hắn nom buồn buồn, nghiêm nghiêm khó thể hiểu nổi. Ông khẽ phẩy tay:

    - Ờ thì... - ông cụ bỏ lửng câu nói với vẻ mặt cau có, cau ríu đôi mày sâu róm y hệt mày của Hãn, nhưng Hãn biết ông sẽ không bắt buộc hắn phải theo cái nghề thợ bạc truyền thống của gia đình nữa.

    Vốn gốc gác nhà nông, rời làng ra phố chợ học hành đỗ đạt, đi lính theo sắc luật tổng động viên, thất trận, rã ngũ, giờ quay về lại hiện nguyên hình là anh nông dân với ít chữ nghĩa trong đầu, ít trải nghiệm cuộc sống và tâm hồn hằn dấu một nỗi đau thầm, Hãn cầm lại cây cuốc thoạt tiên hơi lọng cọng sau quen dần, chí thú chăm sóc mảnh vườn tạp hơn 7 sào đất quanh nhà lâu nay gần như hoang phế. Thuê người làm sạch cỏ dại, khơi lại giếng, khai thông mương tưới tiêu, gia cố thêm vồng, liếp không chỉ các loại trái cây lưu niên như cam, quít, bưởi, xoài, sabôchê... mà cả các loạt rau củ ngắn ngày cũng được lên kế hoạch sản xuất. Sau vài tháng, khu vườn đã có “bộ mặt” mới.

    Công việc vườn tược chiếm hầu hết thời gian trong ngày, phần còn lại Hãn dành cho việc chăm chút, dạy dỗ thằng Công và đọc sách, đa số là sách Thiền học, Phật học và Triết học.




    8

    Ra trại sau Hãn chừng nửa năm, Kiêm về phụ việc ở nhà máy sản xuất nước đá của một ông chú ở Hoà Vang Đà Nẵng. Vào một buổi chiều cuối tuần, ngang qua khu phố có quán bar Thanh Khê Melody ngày xưa, nay đổi bảng hiệu thành quán nhậu bình dân Mai Hồng, lác đác có vài bàn đầy khách, Kiêm ghé vào. Hắn hết sức ngạc nhiên và vui mừng gặp lại Ngà ở đây. Nàng mang bia hơi, bò lúc lắc ra chiêu đãi khách. Sau vài câu thăm hỏi thông thường, Kiêm nói:

    - Sao cô lai phiêu bạt giang hồ vào tận đây, cứ ngỡ là đang vui vầy với thằng Hãn và cu Công ngoài Huế chứ.

    Ngà khẽ so vai nói giọng không buồn không vui:

    - Anh Hãn bây giờ khác xưa nhiều quá, em không thể hiểu nổi, nên rất tiếc không thể vui vầy như anh nói.

    - Không sống chung nhưng vẫn yêu hắn chứ?

    - Có lẽ không bằng ngày còn mang thằng nhóc trong bụng.

    - Thế Ngà có gặp Hãn thường không? Tôi cũng tính đi thăm nó một chuyến nhưng công việc cứ lu bu...

    - Thì thỉnh thoảng em vẫn về thăm thằng Công ấy mà! Ngại ở riết với anh Hãn, con trai em rồi cũng sẽ đâm ra gàn dở như cha nó, em đòi mang nó vô trong này. Cả anh ấy và gia đình nhất định không cho, nói nó là cháu đích tôn, như hũ mắm treo đầu giàn.

    Uống cạn ly bia hơi, rót đầy, Kiêm cau mày ra dáng nghĩ ngợi rất lung, đoạn lái câu chuyện qua ngõ khác:

    - Ngà mở quán lâu chưa? Hình như trước đây nơi này là bar Thanh Khê...

    - Chỗ quen cũ của em, ông chủ vượt biên, bị sung công làm trụ sở dân phòng một thời gian, nay người nhà xin lại...

    - Chắc cũng phải thân thế ghê lắm mới...

    - Đương nhiên, em sang lại gần một năm nay. Thời buổi này buôn bán kiểu bình dân, làng nhàng vậy cho chắc ăn.

    - À ra thế, vị trí thuận lợi, mặt bằng này chắc đắt lắm?

    - Chỉ có sáu cây thôi, ăn nhằm gì! - Ngà nheo mắt cười.

    Sáu cây vàng là cái giá không rẻ giữa thời buổi cơm độn bột mì hay bo bo hàng bữa. Mọi nhu yêu phẩm phải mua bằng tem phiếu theo tiêu chuẩn phân phối dè xẻn của nhà nước… Kiêm đưa ly lên, họ cụng rồi cạn nửa ly, Ngà nhắc khách ăn, gọi hầu bàn mang ra một bình bia nữa. Kiêm bỗng nhìn người đàn bà hơi đẫy đà nhưng vẫn còn khá xinh đẹp y như trước kia - bằng con mắt khác, sau khi nghe cái giá nàng đã sang mặt bằng, buột miệng:

    - Khâm phục, khâm phục! Hỏi thật nhé, bộ cô được hưởng quyền thừa kế gì hay sao?

    - Thừa kế gì đâu, tay làm hàm nhai thôi anh! Anh hiểu sao bây giờ em phải mở quán ngồi lượm bạc cắc thế này không? Bởi vì, sợ lắm rồi... chẳng còn hồn vía để phiêu lưu vô mấy cái nghề hốt bạc nữa.

    Ngầm bị thôi thúc bởi ý định khoe mẽ nghề mối lái, dắt dây người vượt biên chui, sau một lần đổ bể, suýt xộ khám, đành xa chạy cao bay, nhưng rồi Ngà dừng kịp, lại nhắc Kiêm ăn uống, cụng ly với hắn, lại than phiền về Hãn, và chẳng rõ do hơi men hay vui vì chợt gặp người quen để trút vơi tâm sự, ngữ điệu của Ngà bỗng nhiễm chút hơi hám - người ta thường gọi là triết lý vụn:

    - Đôi khi buồn nẫu ruột, em chợt nghĩ, tụi em giống hai lạch nước nhỏ sau khi đã trải qua lắm ghềnh thác cheo leo dọc đời mới gặp nhau, nhưng thay vì hợp lưu thành một dòng sông êm đềm lại chia ra đôi ngả. Ít ra thì cũng hơn một lần em bảo anh ấy nên làm cái đám cưới, đơn sơ cũng được, hoặc lễ ra mắt họ hàng gì đó, nhưng Hãn cứ hứa suông rồi phớt lờ. Theo anh thì tại sao nào?

    Thừa biết lý do Hãn không muốn đeo nhẫn cưới vào tay Ngà, nhưng Kiêm cứ tỉnh như không:

    - Thế hắn ta có để mắt hay phải lòng cô nào ở làng không?

    - Chắc là... không!

    - Sao cô dám đoạn quyết vậy?

    - Thì nghe vợ chồng chú em và cả vài người trong họ hàng anh ấy nói. Ngoài làm vườn đọc sách, thỉnh thoảng Hãn cũng đi đâu đó làm việc họ, việc làng, tham gia các công tác xã hội, nhưng trong mắt mọi người, kể cả các cô gái thì anh ấy là một người lãnh cảm hay trầm cảm gì đó rất khó tả. Điều này em cũng thấy và luôn tự hỏi, có phải do trục trặc tâm thần gì đó mà khi còn ở trong trai anh ấy bảo phải quên anh đi và luôn tránh mặt em vào những kỳ thăm nuôi!? Các anh, cả anh lẫn anh Hãn đang cố giấu giếm điều bí mật nào đó, phải không?

    - Lạ lùng nhỉ! - Kiêm lảng chuyện : - Thế em tính để thằng Công ở với cha nó mãi sao?

    - Vào mùa hè, em hay đón nó vào chơi, chừng tuần lễ thằng nhóc lại kêu nhớ đòi về. Mà này, đừng có đánh trống lảng nữa, nói đi, cái gọi là điều bí mật ấy!

    - Xin khất Ngà một dịp khác, bởi anh đã hứa với Hãn sống để bụng, chết mang theo nên... Quả là rất... buồn, như cô nói lúc nãy, cô và Hãn bây giờ tựa sông chia hai nhánh, nhưng dù tan hay hợp thế nào thì sông vẫn chảy.

    - Vẫn chảy à? Mắc cạn thì có! Nói như anh thì giàu hay nghèo, sướng hay khổ thế nào thì cũng phải sông chứ gì? Cái sống ấy có khiên cưỡng quá không?

    - Thế theo cô phải sống như thế nào?

    - Người này phải biết tận hiến để được tận hưởng yêu thương từ kẻ kia, đừng có lãng phí thanh xuân một cách oan uổng. Em đang đi tìm điều này nhưng chưa gặp.

    - Tìm sẽ thấy, hình như Chúa Jesus từng bảo thế.

    - Thật ra em đã tìm thấy nhưng lại để vuột mất đó thôi. Suy cho cùng, anh Hãn đối với em cũng chỉ là chồng có mỗi một đêm rồi... thôi! Nhiều khi nghĩ đến nát óc em cũng không thể hiểu nổi mình có còn yêu anh ấy không nữa.

    - Cái nhánh sông ngỡ mình đang mắc cạn tên Ngà chảy vòng vo một hồi rồi cũng quay về “hợp lưu” với cái tên Hãn. Sao lại chỉ có một đêm?

    Cái bộ dạng ra vẻ kinh ngạc của gã đàn ông khiến người đàn bà hơi chột dạ, nghe môi má vụt nóng bừng cái cảm giác phần kín thầm nào đó của riêng mình bất thần phơi lộ trước mắt kẻ khác. Hôm gặp lại sau gần 4 năm xa cách, Hãn cứ tỉnh như không, không hề giống chút nào trạng huống đoàn viên hạnh phúc của một đôi vợ chồng đã đành, như thể cuộc gặp lại của hai người bạn cũng không nốt. Có cái gì đó giống bức tường vô hình ngăn giữa họ, khiến trong mắt nhìn người đàn bà, người bạn lòng của nàng trở nên xa lạ từ cử chỉ đến lời nói, cơ hồ có lớp giá băng xi mạ lên tất thảy khó hâm nóng, khó gần gũi. Một chỗ nằm chung biết bao đêm cô đơn Ngà từng mong đợi đã được Hãn khước từ một cách bẽ bàng: “Em ngủ với con đi, từ lâu anh đã quen ngủ... một mình!”.

    Người chồng một đêm. Vâng, chỉ duy nhất một đêm kinh hoàng bên bờ đầm sôi lửa tai ương, và ám mù khói chết chóc ấy. Rồi thôi!

    Lần gặp hôm ấy ở quán Mai Hồng mở đầu cho những lần gặp sau. Dần dà họ tìm thấy ở nhau lắm điểm tương đồng, vài điểm dị biệt có thể san sẻ được. Nói một cách nôm na thì, một hôm cả hai cảm thấy không thể sống thiếu nhau. Và, để Ngà không còn tiếc nuối, không còn bị ám ảnh mảy may nào về người bạn cũ nữa, Kiêm đã nói cái mà Ngà gọi là điều bí mật của Hãn vào dịp hắn ngỏ lời cầu hôn với nàng:

    - Thật ra chẳng có gì khó hiểu. Sau một lần bị tai nạn trong rừng, Hãn không còn là đàn ông nữa. Người chồng một đêm tội nghiệp của em mong em có một cuộc đời khác, không phiền luỵ bởi sự khiếm khuyết bất hạnh hoàn toàn ngoài ý muốn và rất đáng tiếc của hắn ta!

    Sau đó ít lâu họ cưới nhau, rồi cùng sang Mỹ định cư theo chương trình H.O. Thỉnh thoảng Ngà gửi tiền về tiếp Hãn nuôi thằng Công ăn học, hắn khó thể từ chối.

    Đủ tiêu chuẩn ra đi nhưng Hãn đã chọn ở lại, ngày mỗi già đi bên cây trái vườn nhà. Những cuốn sách Thiền học, Phật học và Triết học từ thời ấy đến nay đã cũ sờn vẫn được lật giở một cách trang trọng bởi những ngón tay chai sần, vẫn được đọc đi đọc lại không hề thiếu sự nghiêm túc hay say mê. “Vàng” từ đất vườn nhà hắn bây giờ không chỉ cung cấp cho các bạn hàng rau quả ngoài chợ, mà cả các mối lái từ Huế ra, từ cây số 17 vào.

    Định bụng ngày nào đó sẽ quay lại Hiệp Đức thăm cây mít cô đơn hắn trồng coi có còn không, nhưng chưa có dịp. Cây mít ngày bọn Hãn rời Hiệp Đức để chuyển về trại Phú Ninh - nơi dừng chân của “hành trình” dài 3 năm 7 tháng - đã cao ngồng nhưng vẫn còn son trẻ, chưa ra hoa đậu trái, giờ này nếu còn chắc nó hoá lão mất rồi.

    Qua bậc tiểu học ở trường làng, thằng Công ra tỉnh học tiếp trung học, rồi tốt nghiệp đại học, đi làm ở một công ty nước ngoài, cưới vợ, lập nghiệp luôn ngoài phố, thỉnh thoảng lại về thăm cha. Vẫn không quên lời trối trăng của ông nội, Công tranh thủ lúc rảnh rỗi đi học thêm nghề thợ bạc ở cửa hàng của chú Hiếu, ông chú đã đi tìm, nhận nó về nuôi từ thuở mới lên ba.*
     
  18. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Người chủ thầu
    Ngọc Quỳnh dịch

    Có một người thợ xây già sắp sửa nghỉ hưu. Ông nói cho ông chủ của mình về kế hoạch rời bỏ ngành xây dựng, tận hưởng một cuộc sống nhàn nhã cùng với vợ và đại gia đình của ông. Ông sẽ mất một khoản thu nhập hàng tháng, nhưng bù lại ông có nhiều thời gian hơn để dành cho gia đình.

    Người chủ thầu rất tiếc khi thấy người công nhân giỏi nhất của mình ra đi. Ông yêu cầu người thợ già vì nể ông hãy xây dựng chỉ một ngôi nhà duy nhất nữa. Người thợ xây đồng ý, nhưng rất dễ dàng nhận thấy là lúc đó tâm trí ông không còn để vào công việc nữa. Ông làm rất xấu và dùng toàn những vật liệu kém phẩm chất. Thật là một cách giã từ nghề nghiệp rất đáng tiếc.

    Khi người thợ xây đã hoàn thành công trình của mình, người chủ thầu đến để kiểm tra căn nhà. Ông trao chìa khóa căn nhà cho người thợ già. “Đây là nhà của ông”, ông ta nói, “món quà mà tôi muốn tặng cho ông”.

    Quả là rất bất ngờ! Thật đáng xấu hổ! Giá mà ông biết được rằng ông đang xây căn nhà của chính mình thì chắc chắn ông đã làm nó khác hẳn. Bây giờ ông phải sống trong căn nhà mà chính ông đã xây một cách cẩu thả.

    Chúng ta cũng vậy. Chúng ta xây dựng cuộc sống của chúng ta một cách lơ đãng, đối phó hơn là hành động, sẵn sàng biến nó thành cái dở hơn là cái tốt nhất. Điều quan trọng là chúng ta không dành hết mọi nỗ lực cho công việc. Rồi thật bất ngờ khi chúng ta rơi vào hoàn cảnh mà chúng ta đã tạo ra và nhận ra rằng từ bây giờ chúng ta sẽ phải sống trong ngôi nhà mà chúng ta đã dựng nên. Nếu chúng ta nhận biết được, chúng ta đã làm khác đi.

    Hãy nghĩ chính bạn như là người thợ xây. Nghĩ về ngôi nhà của bạn. Mỗi ngày bạn đóng một chiếc đinh, đặt một tấm ván, hay dựng một bức tường. Hãy làm một cách sáng suốt. Đó là cuộc sống duy nhất mà bạn từng xây dựng. Thậm chí nếu bạn chỉ sống cuộc sống đó chỉ một ngày nữa thôi, thì cái ngày đó cũng đáng để sống một cách tử tế và đàng hoàng. Những viên gạch ngay ngắn trên tường nói rằng, “Cuộc sống là một công trình mà bạn tự làm lấy.”

    Còn ai có thể nói điều đó rõ ràng hơn? Cuộc sống của bạn ngày hôm nay là kết quả của những thái độ và những chọn lựa của bạn trong quá khứ. Và cuộc sống của bạn ngày mai là kết quả của những thái độ và những chọn lựa của bạn hôm nay.

    KTNN #361​
     
    meetdak, tducchau, vuivui2013 and 2 others like this.
  19. sucsongmoi

    sucsongmoi Lớp 8

    Cội mai lưu lạc
    Truyện ngắn của Quế Hương

    Chị ở Pháp về thăm quê, nói tiếng Việt sõi như người Việt trong nước. Còn tôi là một hướng dẫn viên du lịch. Yêu cầu của chị không giống các du khách khác. Danh lam thắng cảnh, món ăn Huế chị còn biết hơn tôi. Chị chỉ yêu cầu tôi dẫn chị đi tìm một cội hoàng mai đã trên trăm tuổi, cội duy nhất còn sót lại của một Mai gia trang đã quá vãng nào đó. “Nghe thì lẩm cẩm nhưng đó là ước nguyện của mẹ tôi. Bà tha thiết mong tôi khi về quê nhà, cố tìm cội mai cố tri mà bà tin vẫn còn sống”. Chị giải thích bằng thứ tiếng Việt chuẩn xác nằng nặng âm sắc Huế. Cảm cái tình sâu nặng, tôi dẫn chị đi tìm dẫu “nhà” của chị chỉ là một nơi chốn trong kỷ niệm.

    “Mẹ tôi bảo qua đàn Nam Giao, nơi trước kia vua tế đất trời. Chân đài có hai phiến đá kỳ lạ. Vua lầm rầm tế, thế mà chung quanh vạn người nghe rõ như có hệ thống loa phát thanh. Đi nữa, rẽ phải... qua chiếc cầu nhỏ cong cong rẽ trái, đi quãng nữa hỏi thăm Mai gia trang”. Mai gia trang ấy tôi chưa từng nghe nói tới trong mười năm làm hướng dẫn viên du lịch. Mai gia trang không còn thì cội mai ấy là một cội mai lưu lạc. Ở Huế cũng có nhiều cội lão mai nhưng đa phần là mai kiểng. Còn của chị: “Mẹ tôi nói cội mai ấy gốc gác sơn lâm, sần sùi, khoẻ mạnh, có sức sống mãnh liệt. Xưa, Mai gia trang có đến 50 cội. Xuân về bát ngát sắc vàng”.

    Suốt một ngày loanh quanh hỏi thăm, chẳng ai biết một Mai gia trang như thế. Người phu xe mất kiên nhẫn càu nhàu: “Nhà vườn san sát núi mô mà núi. Mít thơm dày đặc mai mô mà mai. Hỏi người ta thêm cười”. Hôm sau, chúng tôi đi xe đạp để có thể vào sâu các ngõ ngách, nương vườn mà vẫn chẳng có tin tức gì về cội mai lưu lạc. Nhưng tôi không bỏ cuộc vì giọng kể như khơi từ thẳm sâu cả một nguồn nhớ của chị.

    “Đã bao lần mẹ tôi dẫn tôi về nhà. Giọng kể chầm chậm và đôi mắt vời vợi út tắp của bà dắt tôi băng qua tháng năm và nghìn trùng trở về chốn cũ: “Đó tề! Cái vòm cổng rêu phong đề ba chữ Mai gia trang. Dưới là câu thơ chữ Hán của Cao Bá Quát: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”[1]. Qua khỏi cổng có bức bình phong bằng chè tàu, hòn non bộ thu gọn cảnh sơn thủy hữu tình, núi non hang động, khe suối, chùa chiền, đình tạ, hoa cỏ bốn mùa. Ở đó có những hình nhân nho nhỏ bằng sứ: ngư ông ngồi câu, tiên ông đánh cờ dưới cội tùng, gã sơn nhân vác cành mai vàng xuống núi... Sau căn nhà cổ là một rừng mai...”

    Bác cho cháu hỏi: cách đây trên nửa thế kỷ vùng này có chỗ nào gọi là Mai gia trang không. Trong nhiều mai lắm! - Tôi lặp lại điệp khúc.

    Mai mô mà mai. Chừ đất là vàng. Vườn nào rộng xẻ bán, xây nhà, mở quán còn hơn trồng cái thứ chỉ hữu dụng mấy ngày xuân!

    - Thế quanh đây có cội mai nào trên trăm tuổi không?

    - Chú ni lạ! Ai mà để ý tuổi mai.

    Chúng tôi lại đi, lang thang trong vùng trời kỷ niệm của chị: “Trong căn phòng mẹ tôi, nước Pháp dường như xa lắm. Một tủ sách phần lớn là sách cũ đem từ quê nhà. Hai bộ sơn mài Ngư Tiều Canh Mục, Mai Lan Cúc Trúc. Một khay trà bằng gỗ trắc, chân quỳ đỡ lũ ấm chén Tàu bằng đất nung bóng láng đến lạnh lẽo. Một chiếc độc bình cổ, loại dùng để cắm mai. Chỉ cần nhìn cái bình ấy, mẹ tôi có thể thấy cả cành mai với những nụ căng mẫm ngời ngợi màu ngọc bích, hé dần màu nắng tháng chạp quê nhà. Mẹ tôi đồng thời cũng là người thầy dạy tiếng mẹ đẻ cho tôi năm đó, cạn dần sinh lực. Thế nhưng càng ý thức đời mình còn ngắn ngủi, sức sống tinh thần của mẹ càng mãnh liệt. Mẹ kể miên man chuyện quê nhà, khi mệt nhắm mắt lại nghe tôi đọc Kiều... Mẹ sinh tôi ở đất khách nhưng cho tôi một mảnh hồn Việt. Trong nhà phải nói tiếng Việt, giữ gìn nếp Việt. Nhưng rốt cục chỉ có tôi là giống mẹ. Còn lại Tây hóa cả. Mẹ mất, tôi bơ vơ ngay trong gia đình của mình... Chuyến này tôi qua đây để dọn đường về. Nếu tìm được mảnh đất xưa ai đó bán lại, đắt mấy tôi cũng mua để đem tro bụi của mẹ về”. Đang kể chị bỗng ngừng rồi sà xuống bên đường nâng trên tay một đóa hoa dại kêu lên:

    - Hắn đây rồi! Hoa Ngũ Sắc phải không anh?

    - Răng chị biết tài rứa?

    - Mẹ tôi tả: “Hoa Ngũ Sắc nhiều màu, tươi tắn, đỏm dáng, mọc đầy ven sông triền đồi xen lẫn những đốm tím buồn của hoa Bâng Khuâng. Lồng Đèn như quả bóng xanh trong cỏ. Hoa Cẩn màu đỏ có tua dài. Thuở nhỏ mẹ hay hái chúng để chơi trò đám cưới...”

    - Chị phải yêu mẹ lắm và mẹ chị phải yêu quê nhà lắm! - Tôi buột miệng.

    - Vâng. Ba tôi đi du học thành tài rồi không muốn về nước. Ba đón mẹ qua như bứng cây trồng nơi đất lạ. Cây được chăm bón mấy cũng cằn cỗi dần. Đến khi con cái lớn khôn, thành đạt, mẹ quyết về thì lại ngã bệnh... Rồi chị nói lảng:

    - Tôi còn biết trái sim ăn ngòn ngọt, tím miệng. Trái móc chua chua chát chát mồm xanh lè. Trái dâu núi ăn vào môi đỏ như son.

    - Chị giỏi quá! Gặp khách như chị phải đổi vai mới đúng.

    - Nhưng tôi chỉ biết chúng trong thế giới hoài niệm của mẹ tôi, còn anh thì trước mắt.

    - Tôi cũng chưa được ăn trái sim rừng, nếm trái dâu núi. Mà chị về đây không sợ khổ ư?

    - Sướng khổ tùy người. Quê mình khối cái giàu. Chỉ sợ đem cái giàu thật đổi lấy cái giàu “dỏm” phù phiếm xa hoa đó thôi!

    Chúng tôi chợt dừng lại bên một ông lão ngồi bên nấm mồ, đôi mắt côi cút lặng thinh lang thang trên những hàng mộ nhấp nhô sau lưng một dãy nhà.

    - Ôn[2] ơi cho con hỏi!

    Tôi nói lớn nhưng ông lão vẫn nghiêng tai ngơ ngác.

    - Xưa ở đây nghe nói có một vườn trồng nhiều mai lắm gọi là Mai gia trang phải không ôn?

    - Cái chi! Ôn điếc, nói to lên!

    - Mai gia trang... Mai... Mai gia trang... một vườn mai - Chị hét to.

    Ơn trời cuối cùng cũng lọt vào tai ông lão tiếng “mai”!

    - Mai hả? Chặt hết rồi.

    Nhưng xưa kia nhiều lắm phải không?

    - Ừ, nhiều lắm! Vườn ôn Thản nhiều lắm!

    - Đúng rồi! - Chị reo lên rồi ôm chầm lấy ông cụ - Cụ cố tôi tên Thản. Tìm ra rồi anh ơi!

    - Chặt hết nhưng còn sót một cội nằm trên một rẻo đất nhỏ của Mai gia trang ôn biết ở mô không? - Chị lại hét.

    - Mụ ấy hả? Chết rồi! Mụ nằm đó tề! - Ông lão đưa tay chỉ nấm mồ bên cạnh - Cả tụi thằng Khoai, thằng Lé, con Bưởi, con Bòng, nằm đó hết. Họ đợi tui thế mà còn tui xây mồ cho năm năm rồi mà vẫn chưa chết. Buồn, tui ra đây chơi.

    - Một cội mai già lắm ở mô ôn biết không?

    - “Lão nhi bất tử vị chi tặc”!

    Ông lão điếc lác lại lẩm bẩm một mình, chẳng để tiếng nào lọt tai nữa. Chúng tôi đành phải bỏ đi. Chị cứ ngoái nhìn cái bóng bơ vơ bên những nấm mồ còn lòng tôi nằng nặng câu thơ Giả Bình Ao:
    “Người cùng thời chết cả.

    Chỉ còn một mình bà.

    Ngồi giữa bãi tha ma.

    Bà là bia mộ của những người đã khuất”.

    “Đến đúng chỗ rồi anh ạ! - Chị phá tan im lặng - Biết mô tôi sẽ gặp quanh đây vòm cổng cũ có câu thơ xanh mực rêu của Cao Bá Quát hoặc cội mai cố tri của mẹ. Mẹ tôi bảo: “Cội mai ấy sát bên nhà, hắt bóng vào phòng ông ngoại. Ở đó, bốn mùa, ông theo dõi từng biến chuyển tồn sinh của nó. Ông gọi nó là huynh vì nó có từ buổi đầu lập Mai gia trang. Năm nào đến mùa trảy lá, cội lão nhất cũng dành cho vị cao tuổi nhất của Mai gia trang. Ông vừa trịnh trọng trảy lá vừa lầm thầm xuýt xoa: “Huynh chịu khó để đệ vặt lá cho huynh ra hoa”. Ông thấu nỗi đau mà loài cây ấy phải trải để khai hoa nở nhụy cái đẹp. Hàng năm Mai gia trang có hai ngày hội: ngày - xanh - đất tức ngày trảy lá và ngày - vàng - cây là ngày hoa nở rộ nhưng mẹ thích ngày - xanh - đất hơn. Ngày ấy toàn thể Mai gia trang đều phải ra vườn, hàng xóm cũng tới giúp, 50 cội mai trút hết lá xuống vườn, phủ xanh đất, trơ những bộ xương mai kiều diễm. Mỗi cội mỗi cốt cách: cội xù xì mốc trắng, cội xanh mượt màu rêu, cội mảnh khảnh yểu điệu, cội thanh tân đài các, cội đường bệ trầm tư... Cội mai già bên cửa sổ vượt trội hơn cả. Nó đứng đấy, vươn cái dáng do đất trời và thời gian chạm khắc, gầy guộc mà vững chãi, thách thức và đón đợi...”.

    Giọng chị bỗng chùng xuống, trĩu nặng: “Ông mất vào mùa mai cuối cùng của Mai gia trang. Mẹ tôi bảo năm ấy, dường như linh cảm được đẹp lần cuối cùng, cả vườn mai bừng trổ hết hương sắc. Hoa nối hoa, nụ nối nụ, cây nối cây... Cả một vùng trời chói lọi bởi cái màu vàng bát ngát ấy của Mai gia trang. Cội mai già toàn thân như tỏa ánh xanh bởi những chùm nụ căng mẩy, ngời ngợi màu ngọc bích. Ông đã ngã bệnh nằm một chỗ suốt mùa đông ấy, thế nhưng những ngày cuối tháng chạp đòi mở cửa sổ suốt ngày để chỗ mai nở. Tựa tấm thân mỏng như phiến lá bên chồng gối kê cao, ông đăm đắm ngóng cội mai già cho đến khi nó hé nụ cười đầu tiên, nụ cười huynh - đệ ấm áp như màu nắng tháng chạp. Ông “đi” thanh thản, cội mai già trong mắt, mãi mãi đẹp ở khoảnh - khắc - vĩnh - cửu ấy!

    - Chị kể hay thật làm tôi cũng ngỡ như thấy trước mắt.

    - Không phải tôi mà mẹ tôi. Mẹ kể đến chục lần, lần sau hay hơn lần trước. Khi da diết với một điều gì, người ta đột xuất có “khả năng” văn sĩ để với cho tới, trút cho cạn nỗi niềm sâu nặng trong lòng phải không anh? - Chị cười giòn tan, tiếng cười rung cả đóa mai vàng tôi vừa chợt thấy. - Rồi răng nữa chị?

    - Rứa chơ răng! - Chị trêu tội bằng cái giọng Huế đặc như để nén tiếng thở dài - Chôn ông xong, các ông con đo đạc, giăng dây, chuẩn bị xé Mai gia trang từng mảnh chia nhau bán!

    Còn mai?

    - Chặt - Chị chợt rùng mình.

    - Mẹ tôi bảo mẹ tôi không bao giờ quên khoảnh khắc tàn sát vườn mai ấy. Thuê cả 5 người đốn cật lực trong suốt một tuần mới phá xong vườn mai lập từ thời cụ tổ. Cụ vốn là người yêu mai, về quan chỉ bạn cùng mai lúc chết trối độc một chữ “mai”. Đời con rồi đời cháu hiểu ý nghĩa nhìn mai mà sống, “học cái đức lớn trong hồn hoa nho nhỏ”. Nhưng đến đời các cậu tôi thì hết. Các cậu lớn lên từ Mai gia trang nhưng lại theo Tây học. Khi thành đạt trở về, bóng họ cứ dềnh ra, to lớn, còn bóng ông thì bé lại, lom khom thui thủi trong vườn mai. Họ thấy ở Mai gia trang cái gì cũng gò bó, cổ hủ lạc hậu. Họ ghét cả loài hoa ám ảnh họ tộc đã mấy đời. Bởi vậy khi ông nằm xuống, số phận vườn mai đã được quyết định... Chỉ tội nó không sống trọn mùa xuân cuối cùng. Những cây rựa sắc lẻm huơ lên, hoa mai như đàn bướm bị xé xác, lả tả rơi, nghìn nghịt phủ kín vườn bằng cái sắc vàng tươi rói, hơn hớn đến đau lòng. Nước mắt hoàng mai tuôn mấy ngày ròng chưa cạn... Một người hàng xóm vốn cũng rất yêu mai, chịu không nổi cảnh ấy, bỏ tiền mua rẻo đất có cội lão mai đẹp nhất Mai gia trang, cội mà mẹ tôi tin vẫn còn sống và chúng ta đang đi tìm. Con trai ông ấy là bạn ấu thời của mẹ tôi. Mẹ gọi là anh cu Lực. Mỗi lần nhắc đến đó mẹ lại lấp lửng rồi im lặng. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra nó, cội mại lưu lạc nhưng chỉ còn... cái gốc, trên “mọc” một người đàn ông đang ngồi rít thuốc.

    - Cho tôi hỏi... phải nhà ông Lục đây không?

    - Phải, nhưng ông già tui chuyển hộ khẩu ra nghĩa địa rồi, có chi không? Người đàn ông xoay người nhìn hai vị khách lạ nhưng vẫn không rời “cái ghế” có vô số chân bò tứ tán khắp sân. Chị nhìn nó lắp bắp:

    - Gốc... một... cội mai... phải không?

    - Răng biết? Chủ nhà ngạc nhiên.

    - Một cội mai già, tuổi cả thế kỷ rưỡi.

    - Già lắm... mấy đời rồi!

    - Lại rất đẹp, rất hiếm.

    - Y chang giọng cha tui... Cái chị đẹp, quý hiếm, dành cho hắn cả. Nhưng ngó tề! Chặt cụt phần trên rồi mà phần dưới tỉnh bơ, rễ bò tứ tán, tới tận thềm, chui dưới nền nhà. Cái thứ sống dai dách, càng già càng bám khoẻ. Sống lâu thành tinh rồi. Đồ phá hoại, đồ xui xẻo. Vì hắn mà ông già tui tâm thần. Chừ chặt rồi, bới rễ cũng mệt, hỏng luôn cả vạt sân tráng xi măng. Để đó, ai mua bán quách. Đất này mai ám, làm ăn không ra.

    Để tôi mua cho - chị hớt ngang, không giấu nỗi vui mừng.

    Người đàn ông đứng dậy, tò mò nhìn người đàn bà lịch sự như từ trên trời rơi xuống rồi quét tia nhìn tinh quái đến gốc mai cụt đầu, căn nhà lụp xụp, mảnh sân lồi lõm, đáp gọn lỏn:

    - 12 cây. Chắc giá.

    - Được.

    - Không đổi ý. Đặt tiền cọc ngay.

    - Nhưng anh mời tôi vào nhà đã chứ. Tôi muốn thắp cho ông cụ nén hương. Xưa ông với mẹ tôi là chỗ quen biết, bạn thời thơ ấu.

    - Rứa thì bà cũng gốc gác vùng ni?

    - Vâng.

    Chủ nhà vồn vã hẳn, mời khách vào nhà, lăng xăng pha nước. Trên chiếc bàn thờ lạnh lẽo, một người đàn ông đang nhìn chị. Ông ta có gương mặt chơn chất dễ mến, không già như mẹ. Đằng sau khung ảnh, ông ta ở ngoài - thời - gian. Chị chưa hình dung vị trí ông ta trong cuộc đời mẹ vì bao giờ mẹ cũng “khóa” ngay chỗ đó, quẳng chìa khóa tận đáy ký ức.

    - Ông cụ mất lâu chưa anh? - Chị gợi chuyện.

    - Chưa giáp năm.

    - Còn cội mai mới đốn?

    - 50 ngày ổng xong tui chặt. Khi ổng còn sống, đố ai đụng vào nó, ổng phang chết. “Bồ” ổng đấy! Những năm cuối đời, ổng không được minh mẫn. Cái đáng nhớ thì quên, cái đáng quên thì nhớ. Con gọi là bác, vợ gọi là chị, cây gọi là em đến nỗi bà già tui phát ghen luôn.

    - Với cội mai hả? - Chị bật cười.

    - Tại ổng cứ em em, anh anh ngọt xớt với nó. Tui bảo mạ ghen làm chi cho mệt, cội mai già khú đế chứ có phải mụ nạ dòng hàng xóm mô mà! Bà già tui tìm đủ cách yểm cây mai mà hắn không chết đó chứ! Đóng đinh, hơ lửa, chặt lén đủ cả rứa mà hắn cứ sống nhăn. Ông già tui thì cứ mỗi mùa mai dõi theo từng nách lá, ngóng từng nụ, đếm từng hoa... Mấy mươi năm, đêm 30 tết nào ổng cũng ra sân, quờ quạng mò mẫm trong bóng tối để ngắt cho được một đóa mai 6 cánh. Nếu được ông reo to: “Trúng phóc một đóa 6 cánh rồi. Mai phù hộ anh mà!”. Má tui lại đùng đùng nổi giận chạy ra lôi ổng vào... Đóa mai 6 cánh đó ổng ép rồi cất vào hộp. Chị đợi tui chút.

    Chủ nhà vào trong lấy ra một hộp thiếc. Trong hộp, trên miếng nhung lót là những đóa mai 6 cánh nằm kề bên nhau gần kín bề mặt hộp thiếc. Chị ngạc nhiên thấy bên cạnh những đóa hoa thật khô quắt, mỏng tang, phai nhạt lác đác điểm những đóa mai giấy màu vàng. Chúng không phai tàn. Chủ nhà giải thích:

    - Đó là những năm cha tui không đón giao thừa bên mụ mai. Ông bận đi xa. Khi trở về, ông cắt những đóa mai 6 cánh bằng giấy đặt vào để mùa mai vắng mặt ấy vẫn có mặt trong cái hộp lưu trữ thời gian của ông. Hoa thật, hoa giả, cả thảy 53 đóa.

    - Anh đếm à?

    - Chị không thấy chúng nằm theo hàng à? Mỗi hàng 10 đóa. Có 5 hàng và 3 hoa lẻ. Vị chi 53 mùa mai nở.

    Chị lấy tay mân mê một đóa ở góc hộp. Lập tức đóa hoa rã thành bụi dưới tay chị. Chị thụt tay lại lắp bắp:

    - Mẹ tôi... Mẹ tôi cũng có một đoá hoa mai khô y hệt đóa này! Một đoá thôi, cất trong cái hộp nhỏ khảm xà cừ. Khi mẹ mất, tưởng gì quý lắm tôi mở ra xem, chạm vào thì rã thành bụi như thế này!

    - Mấy người già lẩm cẩm lắm! Thôi trở lại chuyện mình đi. - Có gì mà trở lại trở đi. Anh hô mấy, tôi đồng ý mấy. Nhà, anh có thể dỡ lấy vật liệu nhưng gốc cây mai thì để nguyên đừng đào xới chi hết. Còn cái hộp này - chị ngập ngừng - nếu anh không giữ thì... cho tôi xin!

    - Chị lấy đi! Tui giữ làm chi đồ ba láp đó. Tui khác ông già tui, cái gì đáng đồng tiền bát gạo mới cất.

    - Cám ơn anh.

    Chị bỏ cái hộp vào túi xách và tôi có cảm tưởng nó trở nên nặng trĩu bởi 53 mùa thương nhớ.

    ***

    Mấy năm sau, tôi có dịp trở lại vùng đó. Trước thềm thiên niên kỷ mới, “đất núi” cũng chuyển mình. Khó nhận ra nơi tôi và chị lang thang hai ngày trời để đi tìm dĩ vãng. Khu nghĩa địa nhỏ nơi ông lão cô đơn ngồi chơi trên nấm mồ xây sẵn cho mình cũng đã biến mất. Một công trình xây dựng quy mô đồ sộ sẽ trình thế kỷ mới một làng đại học xứng đáng với tầm cỡ của một cố đô văn hóa.

    Và nó chợt hiện ra trong tầm mắt tôi, giữa tiếng reo phát hiện của mấy du khách theo cùng. Nó tách khỏi khu vực quy hoạch xây dựng bởi một con đường nhỏ, mảnh mai mà kiện định vạch một lằn ranh giữa hai thế giới. Tôi nhận ra nó ngay bởi cái gốc sần sùi rêu bám, mặt trên nhẵn thín bởi dấu đẵn ngọt và một đám rễ chằng chịt bên dưới đã bám vào đâu là bám cho đến chết. Có điều, từ cái gốc nhẵn thín câm lặng kia lại trồi lên một mầm sống mới, một nhánh mai non tơ mảnh khảnh, uống nguồn sống từ cái cội già nua sần sùi mốc trắng kia, rạo rực vươn lên, ẻo lả chia ra, khoe với nắng xuân mấy nụ cười diễm tuyệt. Cội mai cụt đầu thành cái bình cắm một nhành xuân tuyệt tác. Những du khách đi cùng giở máy ảnh bấm lia lịa như để chộp lấy một hình ảnh tương phản và rất “đời”, một sự hóa thân nhẹ nhàng mà mãnh liệt. Chị hiện ra từ một căn nhà nhỏ làm bằng tre và gỗ xinh như căn nhà đồ chơi. Chị khoe với tôi lần này chị về dạy văn học Pháp cho sinh viên khoa Pháp ngữ để có cơ hội nghiên cứu văn chương Việt. Chị yêu cả hai nền văn hóa nuôi dưỡng tâm hồn chị. Khoe xong chị trỏ vào gốc mai và bảo:

    - Nó đấy! anh còn nhớ nó không?

    - Nhớ chứ! Giờ thì tôi hiểu tại sao chị cố mua cho bằng được cái gốc của “cội mai lưu lạc” ấy.

    - Bởi vì mẹ tôi và cả tôi nữa đều tin ở sức sống mãnh liệt của nó. Anh thấy không, nhánh mai con đã cứu vãn danh dự cho “hiệp sĩ cụt đầu”, vẫn trào dâng sự sống!

    - Thế chị có mơ gầy lại một Mai gia trang không?

    - Không bao giờ anh ạ! Mỗi thời mỗi khác. Để đất làm những thứ hữu ích hơn nhiều - chị trỏ tay về khu đất đang xây dựng - nhưng tôi trân trọng kỷ niệm. Mọi thứ đều có cội nguồn gốc rễ. Mẹ tôi đã dạy tôi điều đó. Dù mẹ có ở chân trời góc bể nào, tâm hồn mẹ cũng mọc rễ ở đây. Cha tôi có thể tách mẹ tôi khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi trái tim bà... Tôi đã đem tro bụi mẹ về. Căn nhà be bé xinh xinh giữa hoa và lá đó là nơi thư giãn tinh thần và cất giữ kỷ niệm. Đôi khi tôi nghe tiếng mẹ cười, tiếng cười thời con gái, trong vắt. Một người bà con của tôi ở đó trông nhà, hương khói cho những người đã khuất. Còn tôi đi đi về về... Ngày tôi được về hẳn, nhánh mai con ấy chắc đã thành cội rồi anh nhỉ! *

    [1] Một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai.

    [2] Ông - Người Huế thường gọi là “ôn”.
     
    meetdak, hungbc1010 and vuivui2013 like this.
  20. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    TÊN TỬ TỘI

    Truyện ngắn của Marcel Aymé (Pháp)
    Lê Vy dịch từ nguyên tác “Dermuche”


    Marcel Aymé, nhà văn Pháp, sinh ngày 29 - 3-1902 tại Joigny (Yonne). Trước khi viết văn, ông đã trải qua nhiều nghề: viên chức ngân hàng, nhân viên bảo hiểm, phóng viên... Đến 1925, sau một cơn bệnh nặng, ông chuyển qua viết văn, viết kịch. Với giọng văn lúc thục, lúc hư, lúc châm biếm, ông đã tạo cho mình một phong cách rất riêng. Ông mất tại Paris ngày 14-10-1967. Một số tác phẩm tiêu biểu: Aller - Retour, La Jument verte, La Table aux crevés, La Vouivre, Le Boeuf clandestin, La Tête des autres,...


    Để lấy được cái máy hát mà hắn thèm muốn tử bấy lâu nay, hắn đang tay giết cả một gia đình ba người. Biện lý cuộc (1) chẳng cần phải đanh thép buộc tội, lời bào chữa hùng hồn của luật sư cũng chẳng tác dụng; Hội đồng xét xử nhanh chóng đi đến thống nhất kêu án tử hình, và công chúng trong cũng như ngoài phòng xử, tất cả đều đồng tình với bản án, chẳng một ai dị nghị điều gì. Đôi vai kềnh càng, cổ to như cổ bò mộng, tên tử tội có khuôn mặt bè bè, cái cằm bạnh, cái trán chợt, đôi mắt him híp khờ đặc. Trước cái tướng mạo thô lỗ đó giá như có còn một nghi vấn nào đó về tội trạng của hắn, bồi thẩm đoàn thấy cũng chẳng cần phải động tâm cân nhắc. Suốt phiên xử hắn đứng bất động, dửng dưng, dường như chẳng cần biết tòa đang xét xử cái gì, xét xử ai...

    - Bị cáo Dermuche - ông chánh án hỏi, - bị cáo có thấy hối hận về những gì mà bị cáo đã làm hay không?

    - Dạ... có, ờ mà... không, thưa ông- Detmuche đáp. - Tôi vậy... mà đâu phải vậy, thưa ông!

    - Bị cáo hãy nói cho rõ ràng: Bị cáo có thấy lương tâm cắn rứt hay không?

    - Ông nói cái gì cắn rứt vậy, thưa ông?

    - Bị cáo không hiểu lương tâm là cái gì à? Nghĩa là... khi nghĩ tới các nạn nhân, bị cáo có cảm thấy cắn rứt trong lòng hay không?

    - Dạ... cám ơn ông hỏi thăm; tôi đâu thấy cái gì cắn đâu...

    Duy nhất chỉ một lần trong suốt phiên xử, can phạm đã tỏ ra xúc động, đó là khi ông Biện lý kêu đem tang vật ra. Nhoài mình ra trước vành móng ngựa, hắn nhìn chằm chặp vào đó và khi thư ký phiên tòa đứng lên quay máy, một điệu nhạc êm dịu vang lên, khuôn mặt bè bè đần độn của hắn giãn ra và hắn nhoẻn miệng cười.

    Trong xà lim tử tội, hắn thản nhiên đợi ngày ra pháp trường, chẳng lo lắng gì về điều sắp xảy đến, cũng chẳng nói gì với mấy người giám thị xà lim. Thật ra thì hắn cũng chẳng biết nói gì với họ, chỉ khi nào họ hỏi hắn mới trả lời. Về phần hắn, thảng hoặc lắm mới nghe hắn ấp úng mấy tiếng hỏi thăm về chiếc máy kỳ diệu, cái đã dẫn hắn tới chỗ giết người. Đầu óc hắn rất chậm lụt, và điều duy nhất làm hắn bực mình là hắn không biết làm cách nào để lấy lại cho được cái máy đã cuốn hút hắn tới ngôi biệt thự hiền hòa ở Noget - sur - Marne tối tháng chín đó. Trong biệt thự chỉ có ba người, hai cô cháu gái già cùng với một ông cậu già thường đính cuống Huân chương Bắc đẩu bội tinh trên ve áo, sống tách biệt với thế giới bên ngoài. Mỗi chủ nhật, sau bữa ăn trưa, cô chị vặn máy hát. Những lúc trời trong, họ thưởng để ngỏ cửa sổ phòng ăn, và từ suốt ba năm qua, cứ đến những trưa chủ nhật trong mùa hè là hắn lại mê man lần theo tiếng nhạc đến sát chân tường dưới khung cửa sổ ấy. Tuần này sang tuần khác, hắn cố nhớ hết những âm điệu đó mà không sao nhớ nổi. Sang thu, để ông cậu già khỏi bị lạnh, các cô cháu gái đóng kín cửa sổ, và tiếng nhạc chỉ còn dành cho những người sống cách biệt trong nhà. Đã ba năm liền, suốt nhiều tháng dai dẳng, hắn sống thiếu tiếng nhạc, thiếu cái cảm giác làm cho lòng hắn đê mê. Ngày qua ngày, từng chút, từng chút một, các giai điệu rời bỏ hắn, và đến cuối đông thì trong lòng hắn chẳng còn lại cái gì ngoài nỗi khát khao cháy bỏng. Đến đầu thu năm thứ tư, không còn chịu đựng nổi với cái cảm giác sẽ phải chờ đợi qua nhiều tháng ròng, hắn đã phá cửa để vào bên trong biệt thự. Sáng hôm sau, cảnh sát bắt gặp hắn ở đó, đang nghe nhạc cùng với ba xác chết.

    Trong một tháng bị giam giữ, những âm điệu du dương đó vẫn vang vang trong lòng hắn, nhưng đến lúc tòa xử, hắn chẳng còn nhớ được gì. Giờ đây, nằm khoèo tròng xà lim, hắn cố nhớ lại những âm thanh ngắt quãng mà hắn nghe được tại phiên tòa, nhưng ngày qua ngày, những âm thanh đó lại tiếp tục rời bỏ hắn. Suốt từ sáng đến tối, tên tử tội cứ lẩm nhẩm: Tum, ti tum, ti tum...

    Đến thăm Dermuche, cha tuyên úy giáo phận nhà tù nhận thấy hắn cũng lành tính. Phải chi đầu óc sáng sủa hơn một chút, hẳn hắn sẽ cảm nhận được những lời răn nhủ của cha và may ra, có thể nhờ đó mà cảm thấy khá hơn. Như một khúc cây, hắn lẳng lặng nghe, chẳng nói chẳng rằng, cũng chẳng tỏ ra vui gì hơn khi cha nói là linh hồn hắn sẽ được cứu rỗi; ngay cả chuyện hắn có linh hồn hay không, hắn cũng không hỏi tới. Tuy vậy, đến một ngày trong tháng mười hai, khi kể chuyện Đức Mẹ Đồng trinh, chuyện các thiên thần, cha tuyên úy thấy hình như trong đôi mắt tim híp, đần đần của hắn thoáng long lanh một tia sáng rất mơ hồ, mơ hồ đến nỗi cha cũng không dám chắc là mình có thật sự nhìn thấy hay không. Cuối buổi nói chuyện, thật bất ngờ, hắn mở miệng: “Vậy... Chúa Hài đồng... còn sống chớ?” Cha tuyên úy đắn đo một chút rồi giải thích là hồi xưa, Chúa Hài đồng từng sống, sống cho đến khi bị đóng đinh câu rút trên thập tự giá lúc Chúa ba mươi ba tuổi. Nói với hắn, cha thấy không thể nào nói theo lối kể chuyện thông thường; Dermuche đần độn đến mức thật khó mà nói cho hắn hiểu ra được thế nào là chuyện thực, thế nào là chuyện đời xưa. May ra thì chuyện về Chúa Hài đồng vừa với tầm cảm nhận của hắn, và nhờ đó mà có thể rọi sáng cho tâm linh hắn được chút nào chăng? Cha kể cho hắn nghe chuyện Đức Chúa Con chọn giáng sinh trong chuồng chiên như thế nào, nằm trong máng cỏ đặt giữa một con bò và một con lừa ra sao...

    “Dermuche - Cha tuyên úy nói, - con thấy đó, Chúa rất yêu người nghèo và đã đến để cứu giúp họ. Chúa cũng có thể chọn sinh ra trong nhà tù, giữa những con người bất hạnh nhất...”

    “Vâng, thưa cha, con biết rồi - Hắn nói; - nói gọn lại là Chúa có thể chọn sinh ra trong xà lim đang nhốt con chớ không muốn được sinh ra trong ngôi biệt thự”.

    Cha gật đầu tỏ ý hài lòng; Dermuche coi vậy mà lập luận nghe cũng được, có điều là hắn chỉ nghĩ đến trường hợp riêng của hắn và nhận thức đó cũng chưa đủ để dẫn dắt hắn tới chỗ ăn năn sám hối; do vậy, cũng với lối kể chuyện lửng lơ hư mà thực, thực mà hư, nửa xưa nửa nay đó, cha tiếp tục kể những chuyện về các pháp sư, về chuyện giết chóc những người vô tội, về chuyện trốn chạy, và cuối cùng là chuyện Chúa Hài đồng, lúc ấy đã có râu, bị đóng đinh trên thập giá, giữa hai tên trộm, chịu hy sinh để mở cửa Thiên đàng cho loài người.

    “Đâu, con nghĩ xem, Dermuche! Linh hồn của tên ăn trộm đã hối cải có phải là linh hồn đầu tiên được nhận vào cửa Thiên đàng hay không, và đó có phải là do nó là kẻ càn quấy hay là do Chúa muốn chỉ cho chúng ta thấy là Người sẵn lòng tha thứ mọi tội lỗi? Đối với Người, ngay cả những tội nặng nhất cũng không hơn gì những chuyện quấy nhỏ nhặt trong đời...”

    Cha càng kể, Dermuche càng tỏ ra ù ù cạc cạc; đối với hắn, chuyện tên trộm cải hối cũng mù mờ không khác gì chuyện phép lạ làm cho bánh mì, làm cho cá hiện ra. Hắn hỏi: “Vậy rồi Chúa Hài đồng có về lại máng cỏ không?”

    Hắn chỉ nhớ có mỗi Chúa Hài đồng. Cha tuyên úy rời xà lim, thầm nghĩ: hiểu biết của tên sát nhân này không hơn một đứa trẻ. Cha còn tự hỏi, không biết Dermuche có phải gánh chịu trách nhiệm về hành vi tội ác của hắn hay không; cha còn cầu nguyện Chúa gia ơn cho hắn: trong cái thân xác ô dề cục mịch ấy là cả một tâm hồn trẻ thơ... Hắn giết ba con người già lão ấy không phải vì ác tâm, chẳng qua cũng giống như đứa con nít vặn tay, tháo chân hay cắt con búp bê ra thành từng khúc. Một đứa trẻ không ý thức được sức mạnh của nó, một đứa trẻ bất hạnh không hơn không kém, bằng chứng là nó chỉ tin có mỗi Chúa Hài đồng...

    Vài ngày sau, đến thăm Dermuche, lúc kêu người giám thị mở cửa xà lim, cha tuyên úy hỏi: “Hắn hát cái gì vậy?”

    Giọng vịt đực của Dermuche ồ ề nghe như tiếng chuông rè, lặp đi lặp lại không ngừng: Tum, ti tum, ti tum...

    Người giám thị xà lim nói: “Chẳng biết cái gì mà cứ tum, tum, tum tối ngày; dở cũng không đến nỗi dở, mà êm tai thì cũng chẳng êm tai chút nào”.

    Lòng vẫn thản nhiên, vô tư, điều ấy cho thấy kẻ phạm tội chưa biết kính sợ Chúa; cha tuyên úy càng bối rối hơn khi nhận thấy Dermuche tươi tỉnh hơn bình thưởng, bộ mặt khờ khạo của hắn trông sáng sủa hẳn ra, và dưới đôi mí mắt tim híp, ánh lên nét tươi tắn; đã vậy, hắn còn tỏ ra háo chuyện.

    - Thưa cha - hắn hỏi, - bữa nay ở bên ngoài trời ra sao vậy cha?

    - Bên ngoài tuyết đang rơi, con à!

    - Cũng không sao; nó cóc có sợ tuyết, tuyết không cản được nó đâu...

    Một lần nữa, cha tuyên úy lại nói về lòng nhân từ của Chúa và giảng giải cho hắn về lòng ăn năn sám hối, nhưng kẻ tử tội đã ngắt lời cha để hỏi về Đức Chúa Hài đồng, làm cho mọi cố gắng của cha tuyên úy đều trở thành công cốc:

    - Chúa Hài đồng có biết hết mọi người không vậy cha? Chúa Hài đồng là chủ Thiên đường phải không cha? Có phải cha nói là Chúa Hài đồng cũng thích nhạc phải không cha?

    Rốt cục cha tuyên úy cũng không sao nói thêm được gì. Khi cha quay trở ra, Dermuche nhét vào tay cha một mảnh giấy gấp làm tư; hắn mỉm cười nói:

    - Đây là thư con gởi Chúa Hài đồng.

    Cha tuyên úy cầm tờ giấy; mấy phút sau, cha mở ra xem.

    Thư viết:

    “Chúa Hài đồng thân mến, xin Chúa làm ơn. Tôi là Dermuche, theo đạo Chúa từ hồi nhỏ. Tôi biết là Chúa không để ý chuyện tôi làm với mấy người già cả ở Nogent. Chắc Chúa cũng không muốn chọn sinh trong nhà những người đó. Tôi không hỏi xin cái gì ở trên đời đâu, tôi sắp phải chết rồi. Cái tôi muốn hỏi là khi lên Thiên đường, tôi có được đem cái máy hát theo không? Cám ơn trước. Chúc Chúa may mắn. Dermuche”.

    Cha tuyên úy hết sức bực bội, không biết làm cách nào cho cái tên tử tội ấy ăn năn sám hối cho được.

    Cha thầm nghĩ: Thì ra con người ngây thơ khờ khạo đó hiểu biết không quá một đứa trẻ sơ sinh. Lòng tin vào Chúa Hài đồng đủ chứng tỏ đầu óc hắn non nớt như đầu óc một đứa trẻ, nhưng đến Ngày Phán xét, nếu như hắn vẫn còn mang trong lòng ba người bị hắn giết mà không hề có dấu vết gì của sự ăn năn thì ngay đến Chúa cũng không làm gì được, cho dù cái linh hồn bé nhỏ ấy có trong trắng như nước nguồn đi chăng nữa thì cũng vậy!

    Tối đó khi đến nhà nguyện dành cho tù nhân, sau khi cầu nguyện cho Dermuche, cha tuyên úy đặt bức thư của hắn vào hình tượng chiếc máng cỏ của Chúa Hài đồng.

    Ngày hai mươi bốn tháng mười hai, đúng vào ngày lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, ngay từ lúc trời còn chưa rạng, một đoàn người ăn mặc chỉnh tề cùng với các giám thị đi đến xà lim tử tội. Mắt vẫn còn đói ngủ, bụng lưng lửng, nao nao, miệng cứ chực há ra ngáp, đến cách chiếc giường vài bước, họ dừng cả lại, và trong cảnh tranh tối tranh sáng, họ căng mắt nhìn vào cái dáng người còn quấn kín trong chắn. Tấm chăn dày khẽ lay động, từ trong đó vọng ra tiếng khóc yếu ớt.

    Ông Chánh biện lý cảm thấy lạnh dọc sống lưng, ông Quản đốc nhà giam nắn lại nút thắt chiếc cà vạt đen và bước tới trước, vuốt lại ống tay áo rồi chọn tư thế thích hợp: đầu nghiêng tới trước, vai xuôi xuống, hai bàn tay bắt chéo vào nhau thả trước bụng; cố tạo giọng diễn cảm, ông nói:

    - Dermuche, anh phải thật can đảm lên mới được! Tôi cũng rất đau lòng khi phải nói với anh là đơn xin ân xá của anh đã bị bác rồi...

    Đáp lời ông vẫn là tiếng khóc dai dẳng, to hơn lúc nãy nhưng cứ như người chết rồi mà chưa chôn, Dermuche vẫn không động đậy; tấm chăn dày vẫn lay dộng nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy hắn sắp nhổm dậy.

    - Bình tĩnh nào, Dermuche, đừng bắt chúng tôi phải đợi chứ - ông Quản đốc nói. Thông cảm với chúng tôi một chút đi, một lần này thôi mà!

    Một viên giám thị bước tới cúi nhìn xuống giường, nhưng rồi anh ta bật thẳng người lên, giương ánh mắt sửng sốt ngó ông Quản đốc.

    - Sao, cái gì vậy?

    - Thưa... tôi cũng không biết nữa. Chăn động đậy, mà sao...

    Từ dưới tấm chăn, một tràng tiếng khóc ré lên. Viên giám thị bất giác kéo tấm chăn ra khỏi giường rồi kêu rú lên. Mấy viên giám thị khác vừa bước trờ tới cũng ớ lên thảng thốt. Trên giường, thay vào chỗ của Dermuche là một đứa bé mới vài tháng tuổi; có lẽ mừng vì thấy có ánh sáng, nó toét miệng ra cười, giương ánh mắt long lanh nhìn mọi người.

    - Thế này là thế nào? - Xoay sang viên giám thị trưởng, ông Quản đốc giằn từng tiếng một: - Các anh để tên tù trốn thoát rồi phải không?

    - Không thể vậy được, thưa ông. Tôi vừa đi tuần cách đây mới bốn mươi lăm phút; lúc đó tôi thấy Dermuche vẫn còn nằm trên giường...

    Giận tái mặt, không thèm nghe những lời phân trần của thuộc cấp, ông Quản đốc đe sẽ trừng trị họ thích đáng, trong khi đó thì cha tuyên uý đã quỳ xuống tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, tạ ơn cả Trời, Đất, Thánh, Thần, cả Đức Chúa Con... mà chẳng ai để ý gì.

    Cúi nhìn đứa bé, ông Quản đốc vò đầu bứt tai:

    - Trời hỡi trời, xuống mà coi đây nè... ơ, mà sao trên ngực thằng bé lại có vết chàm y hệt vết chàm trên ngực Dermuche thế này?!

    Mấy người kia xúm lại coi. Hai bên ngực đứa bé có hai vết chàm, vết bên này giống hình đầu một người đàn bà, vết bên kia giống hình đầu chó. Các giám thị đều đồng thanh khẳng định, trên ngực Dermuche cũng có hai vết chàm y hệt như vậy, cả kích cỡ cũng tương đương. Mọi người nín lặng. Mất một lúc, ông Chánh biện lý Leboeut đưa mắt nhìn ông luật sư Bridon rồi dè dặt lên tiếng:

    - Không biết tôi có lầm không chứ theo tôi, nếu có thể đem so một đứa bé ở lứa tuổi đó với một người ba mươi tuổi thì phải nói là thằng bé này giống hệt Dermuche. Xem này, cái đầu to, khuôn mặt trèn trẹt, trán thấp, đôi mắt nhỏ hum húp và cả cái sống mũi gãy nữa... Các ông đồng ý với tôi chứ?

    Ông Bridon đắn đo:

    - Quả là giống thật.

    - Dermuche có một cái bớt màu nâu ở phía sau đùi. -Viên giám thị trưởng rụt rè lên tiếng.

    Mọi người giở đùi đứa bé lên và nhìn thấy vết bớt màu nâu.

    Ông Quản đốc ra lệnh:

    - Lấy mẫu vân tay của phạm nhân đem lại đây cho tôi!

    Viên giám thị trưởng chạy vội đi, và trong khi chờ ông ta quay lại thì những người còn lại, hầu như chẳng còn nghi ngờ gì nữa, xôn xao bàn tán cố tìm hiểu xem tại sao Dermuche lại biến hình ra như vậy. Chỉ có ông Quản đốc nhà giam là tức tối; ông im lặng bước tới bước lui trong xà lim. Lúc đứa bé khóc ré lên vì nghe nhiều giọng nói lạ, ông bước lại cạnh giường, nói, giọng đe dọa:

    - Chờ đấy, thằng nhóc! Lát nữa thôi, tha hồ mà khóc.

    Ngồi xuống bên cạnh đứa bé, ông Leboeut soi mói nhìn nó rồi hỏi, giọng thăm dò:

    - Ông có thật sự tin rằng đây đúng là kẻ giết người không đó?

    - May ra... Dù sao thì lát nữa đây chúng ta cũng sẽ biết ngay thôi. - ông Quản đốc đáp.

    Lòng vẫn còn bàng hoàng trước cái phép lạ kỳ diệu đó, cha tuyên úy lại tiếp tục quỳ xuống khấn tạ ơn Chúa Trời; cha đưa ánh mắt chan chứa yêu thương nhìn đứa bé thánh thiện đang nằm giữa ông Leboeut vả ông Quản đốc nhà giam, tuy nhiên cha cũng có đôi chút băn khoăn, không biết sự việc sẽ tiếp diễn ra sao; với đức tin, cha thầm nhủ: rồi Chúa Hài đồng sẽ sắp đặt mọi chuyện.

    Việc so sánh các dấu vân tay xác nhận sự biến hình dị thường đó. Ông Quản đốc xoa tay nhẹ nhõm:

    - Thiệt là mất thời giờ vô ích; bây giờ thì chúng ta tiếp tục được rồi. Nào, đứng dậy di, Dermuche, đứng dậy đi, mau lên!

    Trong xà lim có tiếng xầm xì. Giọng phẫn nộ, ông luật sư Bridon kêu lên:

    - Đem hành hình một đứa trẻ con còn ẵm ngửa như thế này à? Ông cho là ông được phép làm cái chuyên quái gở, ghê tởm đó à? Cho dù tội trạng của Dermuche đã được xác định, cho dù hắn đã bị kết án tử hình, thì đối với một đứa bé sơ sinh, liệu chúng ta có cần phải biện hộ cho sự vô tội của nó hay không?...

    - Tôi không thể đi sâu vào các tình tiết đó được - ông Quản đốc lạnh lùng đáp. - Người này là Dermuche hay không phải là Dermuche? Hắn có giết ba người ở Nogent - sur -Mame không? Có phải đúng là hắn đã bị kết án tử hình rồi hay không? Trước luật pháp mọi người đều như nhau, mà tôi thì tôi không muốn có sự xáo trộn. Đoạn đầu đài đã dựng, máy chém lắp đặt sẵn cả tiếng đồng hồ rồi. Đến lúc này mà còn ở đây tranh cãi với nhau về chuyện một đứa bé sơ sinh là có tội hay là vô tội, đúng là vẽ chuyện! Cứ cái đà này thì ai cũng có thể sổng lưới pháp luật, chỉ cần biến thành đứa con nít là xong; sao dễ qua vậy?!

    Ông luật sư âu yếm nhẹ tay kéo chăn đắp trở lại lên mình thân chủ của mình. Thấy ấm trở lại, thằng bé nhoẻn cười, nói u ơ. Ánh mắt giễu cợt, ông Quản đốc nhà giam đứng nhìn, trề môi: diễn kịch không phải chỗ!

    - Rởm! - ông ta nói: - ông không thấy là từ đầu chí cuối nó cứ trơ trơ ra như vậy hay sao?

    - Thưa ông Quản đốc - cha tuyên úy đỡ lời, - hẳn ông cũng thấy là Chúa đã để tay vào việc này?

    - Cũng có thể, nhưng với tôi thì điều đó có ý nghĩa gì chứ? Công ăn việc làm, phải đâu do Chúa tạo ra cho tôi... Ai mới là người nâng đỡ cất nhắc tôi nào? Tôi đã được đào tạo, và tôi không muốn từ bỏ công việc của mình. - Quay sang ông Chánh biện lý, ông Quản đốc nói tiếp: - ông thấy tôi nói vậy có phải không?

    Nghĩ ngợi hồi lâu ông Leboeut mới trả lời:

    - Tất nhiên, việc ông, ông làm, đúng thôi. Để chọ một tên sát nhân được phép làm lại cuộc đời thay vì phải trả giá cho hành vi của hắn, điều đó thật hết sức phi lý. Tuy nhiên, hành hình một đứa con nít cũng là điều rất tế nhị... Theo tôi, hay hơn cả là ông nên hỏi ý kiến cấp trên...

    Ông Quản đốc nóng nảy:

    - Tôi biết họ quá đi chứ... Đặt họ vào tình thế khó xử, tránh sao cho khỏi rầy rà... Mà thôi, để tôi điện thoại xin ý kiến họ thử xem sao...

    Các quan chức cao cấp có thẩm quyền giờ này chưa đến văn phòng, ông Quản đốc phải quay số điện thoại đến nhà họ. Chưa bảnh mắt đã bị quấy rầy, họ tỏ ra bực bội. Đối với họ, chuyện Dermuche biến hình nghe như chuyện xảo trá, như thể người ta muốn lừa bịp ngay đến cả họ, bởi vậy họ tỏ ra vô cùng giận dữ. Mặc dù vậy, có thể nào phủ nhận sự kiện tử tội lúc này đã là một đứa con nít đang còn ẵm ngửa?! Hoạn lộ thì dài mà đời thì cứ như bóng câu qua cửa sổ; rủi bị nghi là non yếu thì bước đường thăng tiến của họ sẽ ra sao?! Họ trao đổi với nhau, thống nhất nhận định: “... Rất có thể là dưới sức nặng của lòng ăn năn, tên sát nhân đã rúm người lại; mặc dầu vậy, dù cho có bất cứ chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì cũng không được phép làm lệch cán Công lý”.

    Thế là tử tội được đưa ra làm vệ sinh, cạo sạch sẽ phần mềm sau gáy rồi được bọc lại trong tấm vải trải giường; tiếp đó cha tuyên úy tiến hành nghi thức rửa tội cho nó, xong, cha bồng nó đến bên chiếc máy chém dựng trong sân nhà tù.

    Lúc mọi người quay về, cha tuyên úy nói với ông luật sư về đức tin của Dermuche qua bức thư hắn gởi cho Chúa Hài đồng:

    “Chúa không thể để cho một kẻ sát nhân không có lòng ăn năn hối cải được vào cửa Thiên đường; tuy vậy Dermuche đã đặt hy vọng vào Người, đã tin yêu Đức Chúa Hài đồng, do vậy Chúa đã xóa cuộc sống tội nghiệt của hắn và đưa hắn trở lại tuổi ngây thơ vô tội”.

    “Nhưng - ánh mắt ông luật sư tỏ ra đăm chiêu, - nếu như cuộc sống tội nghiệt đã được xóa, tức là Dermuche không phạm tội... Nếu quả thật như vậy thì những con người sống lặng lẽ trong ngôi biệt thự ở Nogent - sur - Marne hẳn là chưa bị giết?”.

    Để biết rõ thực hư, ông luật sư lập tức đến Nogent - sur - Marne, hỏi thăm đường đến ngôi biệt thự nơi xảy ra án mạng nhưng không một ai nghe nói đến án mạng gì. Tuy vậy, chẳng mấy khó khăn, ông đã tìm ra được ngôi nhà nơi Quý cô Bridaine đang sống cùng ông cậu yếu chịu lạnh. Mới đầu, ba con người già cả đó còn tỏ ra nghi kỵ, nhưng khi đã được giải thích rõ ràng, họ liền kêu ca với ông luật sư là hồi khuya, không biết kẻ nào đã lẻn vào lấy trộm mất chiếc máy hát họ đặt trên bàn ăn.

    (Theo Edward and Elizabeth Huberman: “Fifty Great European Short Stories”, Bantam Books, 1971)




    (1) Cơ quan giữ quyền công tố, như Viện kiểm sát của ta
     
    meetdak, amylee, hungbc1010 and 2 others like this.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này