Đang dịch The Blackbird- TIM WEAVER

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi 72thudo, 1/4/24.

  1. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    The Blackbird

    TIM WEAVER



    Đáng lẽ họ phải chết.

    Mọi người luôn nói với tôi như thế trong những ngày trước khi tôi trực tiếp xuống hiện trường. Tôi đã nói chuyện với gia đình và bạn bè, với các bác sĩ và các nhân viên đội cứu hỏa, những người thực sự có mặt ở đó vào đêm xảy ratai nạn, và tất cả họ đều nói giống nhau: không cách nào Cate và Aiden Gascoigne có thể sống sót sau một vụ tai nạn xe như thế.

    Vào buổi sáng, tôi dự định lái xe xuống quan sát những gì còn sót lại của hiện trường, tôi dậy sớm và ăn sáng, dùng laptop để liên tục nhích qua nhích lại từng cm dọc theo con đường xảy ra tai nạn. Con đường nằm ở rìa phía đông của rặng đồi Surrey và là một đoạn dốc với hai làn đường, có cây cối ở cả hai bên, với một khe núi ở bên phía tây – cũng là phía bên phải của vợ chồng Gascoignes khi họ đi xuống đồi – và từ trong xe họ sẽ không nhìn thấy khe núi này . Từ trên xuống dưới, con đường dài chưa đầy một dặm, một đầu là ngã ba đường M25 và đầu kia là một ngôi làng tên là Gatton. Trên đường đi có hai khúc cua nhỏ, con đường có chất lượng tốt, và cái đêm mà nhà Gascoignes lao xuống khe núi sâu 30 mét, là một đêm đầu tháng Giêng tạnh ráo. Không sương mù, không băng giá, không một giọt mưa.

    Vì vậy, thời tiết không phải là nguyên nhân gây ra tai nạn.

    Và cũng không phải do địa hình hay chất lượng của con đường.

    Xe của họ là xe Land Rover Discovery màu đen, hai tuổi. Hồ sơ lý lịch xe không có vấn đề và xe chỉ mới sử dụng nên mọi thứ - bao gồm cả vỏ xe - đã được kiểm tra vài ngày trước đó. Tuy nhiên, ba phút sau khi rời khỏi đường M25 và chỉ mười giây sau khi một camera giám sát ở giữa con dốc Gatton Hill ghi được hình ảnh cuả hai người họ trên phim thì dường như chẳng có lý do gì mà Aiden Gascoigne tự nhiên mất lái và chiếc Land Rover chúi mũi lao thẳng xuống vực.

    Những bức ảnh hiện trường vụ tai nạn, do các nhân viên pháp y chụp, chắc chắn là tốt hơn là không có gì, nhưng hình vẽ hiện trường lại không rõ ràng như lẽ ra phải có. Vụ tai nạn xảy ra vào lúc chạng vạng tối nên nhiều bức ảnh quá mờ, ngay cả khi tôi điều chỉnh độ sáng, hoặc ngược lạibị quá sáng bởi đèn flash hoặc do hệ thống đèn chiếu gắn trên xe cẩu. Những bức ảnh khác trong hồ sơ là những bức ảnh đã được ghim trên một tấm bảng trong văn phòng Cảnh sát Thung lũng Thames. Nhìn chung, những tấm ảnh này có chất lượng tốt hơn, nhưng vào thời điểm vụ án được đóng lại – mà vẫn chưa được giải quyết – thì các bức ảnh được gỡ xuống rồi gói lại trong một cái lưới buộc tóc. Các tấm ảnh đầy những nếp nhăn và vết ố màu cà phê nhạt.

    Tuy nhiên, có một tấm rất rõ ràng.

    Một nhân viên điều tra đã chụp bức ảnh này từ sườn khe núi, cách vị trí va chạm khoảng bảy , tám mét. Họ đã cố gắng leo một đoạn đường dốc để có thể nhìn rõ hơnđống đổ nát. Trên đường đi có một vài cái cây trụi lá mùa đông và những đốm sương giá rất nhẹ dưới chân núi, nhưng xung quanh chiếc Land Rover thì không. Xung quanh xe là một vòng tròn đen xì của cỏ, dương xỉ và những cành cây bị thiêu rụi bởi ngọn lửa bùng phát từ động cơ và xé toạc chiếc xe.

    Chiếc Land Rover bị lật ngửa, không còn là một chiếc xe. Nó đã biến thành một đống kim loại rách nát, phần phía trước ép sát vào bảng điều khiển, tất cả cửa kính đều bị vỡ. Các nhà điều tra đã vẽ minh họa đoạn đường trượt xuống của chiếc xe , kể cả các điểm va chạm trên sườn núi, nhưng cuối cùng thì có lẽ điều đó không còn quan trọng nữa. Thiệt hại có thể thấy rõ chỉ từ một bức ảnh duy nhất, mức độ nghiêm trọng và tàn bạo của nó, và chiếc Land Rover đã quay lộn bao nhiêu vòng, bộ phận nào của khung xe bị va vào đá, trần xe bẹp dí xuống đáy thì lẽ ra chỉ có một kết cục duy nhất dành cho người chồng lái xe và người vợ ngồi bên.

    Lẽ ra họ phải chết.

    Nhưng đó chính là vấn đề. Đó là lý do tại sao những bức ảnh chụp chiếc Land Rover bị nghiền nát, cháy thành than đã được ghim rất lâu trên một tấm bảng ở phòng Cảnh sát Thung lũng Thames. Đó là lý do tại sao giới truyền thông đã gắn tên cho nó là 'Bí ẩn ở đồi Gatton' và tại sao đoạn phimvề vợ chồng Gascoignes do camera ghi lại đã có hơn ba triệu lượt view trên YouTube. Mọi người đều nghĩ rằng lẽ ra họ phải chết, rằng lẽ ra họ đã bị nghiền nát hoặc bị bẻ làm đôi ; lẽ ra tai nạn phải cắt lìa chân tay của họ. Đáng lẽ phải biến cơ thể họ thành tro bụi.

    Nhưng không.

    Bởi vì, 10 phút sau khi tai nạn xảy ra, khi các nhân viên đội cứu hộ xuống tới đáy vực, trong chiếc Land Rover đã xảy ra một chuyện gì đó sai sai.

    Nó hoàn toàn trống không.

    Vợ chồng nhà Gascoignes đã biến mất.



    Người dịch : PHẠM TỪ



    Ở bên Anh, giao thông theo hướng bên trái. Vợ chồng Gascoignes đi xuống dốc , theo hướng Bắc-Nam, đầu dốc là cao tốc M25 cuối dốc là làng Gatton.
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/4/24
    amylee, machine and hathao like this.
  2. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Em đang chờ kết quả dịch của bác để thưởng thức 8->8->8->. Không biết "Trym đen", "Trym trắng" gì ở đây nó ám chỉ điều gì vậy bác nhỉ? :bz:bz:bz
     
  3. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    Chưa xem hết truyện nên không biết thuộc loại Trym gì. Để tạm vậy tính sau.
    TIM WEAVVER là nhà văn Anh, sinh năm 1977. Tác giả của của 13 bộ truyện vê thám tử David Raker (cho đến hôm nay). Bộ TRYM này là bộ thứ 12.
     
  4. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Đoạn dịch trên của bác khá hay bác ạ (đọc thấy mượt và có khí chất của trinh thám), mới đọc mà thấy hấp dẫn muốn đọc nốt rồi. Bác tính làm thành epub luôn hay là dịch và đưa lên từng chương?
     
  5. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    @vinaguy Tôi dịch rất chậm. Truyện gồm 7 phần, 77 chương, hơn 100 000 chữ.
    Với lại, là cuộc chơi vui vẻ .
    Nên triển vọng cũng chỉ là đổ một lít xăng vào bình xe Honda với ý đồ thực hiện chuyến đi xuyên Việt.
    Cảm ơn lời động viên của Bạn
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/4/24
  6. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Nếu bác không ngại thì có thể cho em nghía qua nguyên tác được không? Lỡ đâu em nổi điên, dịch cà bụp cà xẹc lại chung với bác được vài chương cũng nên á chớ (Em đưa cho Google nó nhai ạ) \:D/\:D/\:D/ :D:D:D
     
  7. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    @vinaguy Gửi sách cho Bạn như thế nào? Cho email của Bạn
    thay nhau dịch từng chương , tôi 1 thì Bạn 2 cứ thế nha
     
  8. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Bác inbox cho em ở đây nè... cứ nhắp vào nick em rồi gửi vào inbox cho em ở đây thôi là được... :)

    P/S: Em mới inbox trước cho bác rồi đó. Bác mở inbox của bác ra cứ thế nói chuyện với em thôi
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/4/24
  9. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    Tôi gần xong chương 1. @vinaguy chương 2 đi
     
  10. 72thudo

    72thudo Lớp 3

    Phần Một
    vụ tai nạn


    1


    Dinh cơ của gia đình họ nằm bên bờ sông Thames, thuộc quận Runnymede.

    Nó cách đường cao tốc nửa dặm, cách sân bay Heathrow chưa đầy ba dặm, nhưng bạn tưởng nhưmình đang ở một vùng nông thôn nào đó, và London chỉ là một ký ức xa xôi. Thời tiết đã góp phần cho trí tưởng tượng: đó là ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Bảy, trời nóng kinh khủng dù mới sớm mai, và những chiếc thuyền uể oải câm lặng trôitrên sông. Chỉ nghe thấy tiếng chim hót và tiếng trẻ con đùa rỡn bên bãi cỏ ven sông trên đường chúng đến trường.

    Tôi ra khỏi xe và quan sát , đó là một biệt thự kiểu Tudor có gara đôi và hai cánh cổng hoa văn bằng sắt màu đen ở phía trước. Cổng để hé mở và một con chó săn già nằm giữa lối đi rải sỏi, đang thở hổn hển dưới nắng. Ngay khi tôi bước đến cổng, mắt nó chằm chằm nhìn tôi.

    “Nào,” tôi nói và khom mình xuống.

    Đó là một con chó cái. Cô nàng nhìn tôi giây lát, rõ ràng đang tự hỏi liệu tôi có đáng một công đứng dậy không, và sau khi định giá xong nó nhỏm dậy, một chân cứng đơ và tập tễnh chạy về phía tôi. Tôi đưa tay vuốt đầu rồigãi dọc theo sườn nó, và cô nàng dụi mõm vào đùi tôi.

    “Nó chưa bao giờ đáng mặt là một con chó giữ nhà.” Tôi ngước lên. Một người ông già gần bảy mươi tuổi bước xuống con đường dẫn vào nhà và đi về phía tôi, nở nụ cười nửa miệng. “Nhưng chúng ta vẫn yêu mi, phải không Jess?” Ông ăn mặc lịch sự trong chiếc áo sơ mi màu xanh lơ cài nút và quần vải coton chinos màu kem. “Tôi chắc rằng anh đã đoán biết,” ông nói, “tôi là Martin Clark.”

    Ông chìa tay ra cho tôi.

    “David Raker,” tôi nói và đứng thẳng dậy. ‘Và tôi chắc rằng ông cũng đã đoán biết.’

    Chúng tôi bắt tay nhau.

    ‘Cảm ơn vì đã đến, anh Raker.’

    ‘Xin gọi là David.’

    Ôngấy gật đầu. ‘Gọi tôi là Martin.’

    Tôi vuốt Jess một lần nữa và lại liếc nhìn ra phía sông. Nằm giữa ngôi biệt thự và mặt nước kề bên là một thảm cỏ dài, một rặng sồi và một bến thuyền cũ kỹ, ọp ẹp đang neo một chiếc thuyền nhẹ nhàng nhấp nhô. “Tuyệt vời,” tôi nói.

    Ôngmỉm cười. 'Chúng tôi luôn yêu quý nó.'

    'Ông đã ở đây bao lâu?'

    ‘Chúng tôi từ Islington chuyển đến đây khi các cô gái vẫn còn nhỏ. Đó là một ngôi nhà hạnh phúc… trong một thời gian dài…” Có điều gì đó thoáng qua trên nét mặt ông. Nhưng không còn nữa. Ông hắng giọng, gượng cười. “Chúng tôi thường xuyên đưa các con dạo chơi trên sông.” Ông chỉ vào chiếc thuyền nằm đó.

    “Chắc họ rất thích,” tôi nói.

    'Chúng đã rất thích. Tất cả chúng tôi đã rất thích. Bây giờ nước cạn đi khá nhiều nên bạn không thể đi xa, nhưng hồi đó bốn chúng tôi thường chèo nhiều dặm trên sông.’ Bốn người họ. Ông, bà Sue vợ ông và hai cô con gái: Georgia, cô con cả lớn hơn hai tuổi và Catherine.

    Thường gọi là Cate.

    ‘Ta vào trong nhà, anh David?’

    Tôi theo Martin vào nhà, Jess lê bước theo sau. Ngay bên trong là một tiền sảnh có cầu thang trung tâm. Cầu thang gỗ và kính, xoắn lượn nhẹ nhàng dẫn lên chiếu nghỉ tầng một. Bao quanh cầu thang là năm cánh cửa như những nan hoa của chiếc bánh xe. Từ nơi tôi đứng, có thể nhìn thấy phòng khách, nhà bếp và văn phòng. Ánh sáng tràn ngập từ mọi hướng nhờ những cửa sổ trên cao .

    Ôngđưa tôi vào phòng khách, rồi dẫn ra một cái sân rộng xây cao trên khu vườn. Khu vườn gọn gàng sạch sẽ được bao quanh bởi những bụi nguyệt quế được cắt tỉa hoàn hảo. Nó càng làm tăng thêm cảm giác hoang vắng xa xôi. Ngay cả tiếng ầm ì đơn điệu của những máy bay cất cánh từ sân bay Heathrow cũng không thể làm mờ đi ấn tượng đó.

    Một người phụ nữđang đợi chúng tôi ở ngoài sân, bà đứng bên bộ bàn ghế màu xám, tay đặt trước bụng. Bà có vẻ lo lắng, hoặc sợ hãi, hoặc cả hai.

    'Bà Clark?'

    Bà cười. ‘Vâng, làm ơn gọi tôi là Sue.’

    ‘Tôi là David.’

    Chúng tôi bắt tay nhau. Tay bà lạnh và ẩm.

    “Anh muốn uống gì, David?”

    ‘Thứ gì lạnh thì tốt, cảm ơn bà.’

    Bà Sue biến mất vào nhà và ông Martin chỉ cho tôi một chiếc ghế ở hiên nhà. Phía trên đầu có một mái che đi động, điều chỉnh bóng râm vào nơi mà gia đình Clarks muốn. Đó là một thiết kế thông minh, mắc tiền. Nhưng cái này, cùng ngôi nhà cổ kính và khu vườn không tì vết, tất cả chỉ như là những ảo ảnh. Mọi thứ ở đây bề ngoài hoàn mỹ nhưng bên trong thì ngổn ngang nhưsau một cơn bão. Ngôi nhà, khu vườn, tất cả như đã rơi vào quên lãng.

    “Tôi hy vọng anh không phiền,” Martin nói, “nhưng tôi đã đọc một ít về anh. Tôi đã xem qua một số vụ anh đã giải quyết. Có vẻ như đôi khi cũng khá khó khăn, nguy hiểm”

    ‘Đôi khi. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy.”

    ‘Tôi cho rằng có đủ mọi lý do để người ta mất tích.’

    ‘Không có hai trường hợp nào giống hệt nhau.’

    ‘Có bao giờ anh có linh cảm hay trực giác mách bảo không?’

    “Về khả năng phá án?”

    Ông gật đầu. 'Anh có bao giờ ngồi xuống như lúc này và nghe câu chuyện của gia đình rồi tự nhủ: 'Vụ này sẽ thực sự rất khó khăn đây'?'

    Tôi cân nhắc về câu hỏi của ông Martin. Trong các vụ mất tích, đặc biệt là những vụ bỏ trốn, thì cácđối tượng không biến mấtmà đơn giản là đào thoát. Đó là những trường hợp ở các trung tâm xã hội hoặc các gia đình nhận nuôi. Đôi khi, bạn có thể nhận được công việc từ gia đình có thiếu niên bỏ nhà trốn đi. Những vụ tìm kiếm loại này thường tuân theo một khuôn mẫu nhất định, tuân theo những công đoạn lặp đi lặp lại, trong những trường hợp này, ngay từ đầu tôi đã cóphương án tìm kiếm.

    Nhưng không phải lúc nào cũng vậy.

    Đôi khi bạn gặp phải trường hợp không theo khuôn mẫu quen thuộc, ở đó đáp án hoặc không đáng tin hoặc không tồn tại. Và trong hầu hết các cuộc điều tra mà tôi không thể trực giác được thì chắc chắn có một kẻ nói dối ở bên trong.

    Những kẻ nói dối là nguyên nhân làm cho các vụ án không thể đoán trước được.

    Những kẻ nói dối đã giết bạn.

    Nhìn Martin, tôi nói, 'Đôi khi có thể linh cảm rằng một vụ án sẽ đi về đâu, vâng - nhưng mỗi trường hợp mỗi khác nhau. Tôi cố gắng không vội vàng xét đoán. Và ngay cả khi vụ việcthật sự hóc buá, thì cũng không có nghĩa là tôi sẽ không giải quyết được.'

    Đó là một nỗ lực để trấn an ông vì nguyên cớ cho câu hỏi của ông rất rõ ràng: trong hai năm rưỡi qua,ông đối mặt với thất bại và thất bại, với các đường hầm không lối thoát, bị dằn vặt bởi những câu hỏi không lời giải đáp, và giờ đây ông không dám tin là ông đã có lựa chọn đúng. Điều gì sẽ xảy ra nếu cuộc tìm kiếm của tôi chỉ khiến gia đình ông đau khổthêm?

    Nếu tôi không bao giờ tìm thấy Cate và Aiden Gascoigne thì sao?

    “Tôi cho rằng anh đã biết đôi chút về họ rồi phải không?” ôngấy hỏi.

    ‘Chỉ thông qua những gì ông đã nói với tôi qua điện thoại và những gì viết trong các biên bản.’

    Ông đặt một bàn tay lên chiếc bàn giữa hai chúng tôi và nhìn ra vườn. ‘Các biên bản khá chính xác. Tôi đã đọc từng cái một, cố gắng tìm ra câu trả lời , một lời giải thích về việc Cate và Aiden có thể biến đi đâu. Những gì giới truyền thông đưa ra trùng khớp với những gì cảnh sát đã nói với chúng tôi.”

    Ôngấy nhìn tôi, một ánh thoáng qua khuôn mặt ông.

    Chiếc xe trống rỗng.

    “Theo tôi hiểu,” tôi nói, “ thì Cate và Aiden đang đi đến nhàmấy người bạn ở Reigate. Một camera xác nhận họ đã rời khỏi đường M25 ở lối rẽ vào Gatton Hill. Từ đó, họ vòng qua bùng binh,xuống dốc Gatton Hill, và đi được nửa đường thì một camera khác đã ghi hình họ một lần nữa.’

    'Đúng rồi.'

    ‘Mười giây sau, có chuyện gì đó đã xảy ra.’

    Chúng tôi nhìn nhau. Một chuyện gì đó đã xảy ra.Đó là một kiểu nói giảm: một sự cố, mà không phải một sự kiện bi thảm bất ngờ khi một chiếc ô tô lao thẳng xuống một khe núi sâu 30 mét.

    “Không ai chứng kiến lúcxe của họ rời khỏi con đường?”

    'Không. Những nhân chứng đầu tiên đến sau khi tai nạn đã xảy ra.”

    Cô sinh viên Zoe Simmons từ đường cao tốc M25 đi xuống phía nam. Cô khai với cảnh sát rằng cô nhìn thấy vết lốp xe trên đường và một mảnh cản xe của chiếc Land Rover; khi cô bắt đầu giảm tốc độ chiếc Suzuki của mình thì cô phát hiện ra dấu vết vị trí chiếc xe ra khỏi mặt đường. Nhân chứng kia, người lái xe đi về phía bắc – là bà già đã nghỉ hưu Audrey Calvert, 61 tuổi.Trước khi cô sinh viên Simmons nhìn thấy vết bánh xe và cản trướccủa xe, bà Calvert đã giảm tốc độ chiếc Fiat 500 của mình bởi vì lúc đó bà đi lên ngược dốc . Bà đi bên lề đường phía tây nên nhìn rõ vách núi, xuống đến đáy vực.

    Ở dưới đó, bà có thể nhìn thấy một chiếc xe.

    Chiếc xe nằm lật ngửa.

    Cả hai người bà và cô Simmons đều dừng xe, gọi 999Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và khoảng hai phút sau khi họ đi lên đến nơi vết lốp xe để lại trên mặt đường: một khoảng lá cây đã bị xé toạc, giúp cả hai có thể nhìn xuống sườn dốc của khe núi.

    Ngay lúc đó, chiếc Land Rover bốc cháy.

    Tôi đã yêu cầu một bản sao biên bản điều tra của cảnh sát từ một cộng tác viên của tôi ở Met, vì vậy trong 24 giờ tới tôi sẽ xác nhận chắc chắn tất cả những điều này. Nhưng những chi tiết được giới truyền thông đưa tin có vẻ khá chính xác; Khi tôi tiếp tục ôn lại những sự kiện ngày hôm đó với Martin, về cơ bản ôngấy đã lặp lại những gì tôi đã biết.

    “Các nhân chứng không hề nhìn thấy Cate và Aiden ra khỏi xe?”

    “Không,” Martin nói.

    Theo giới truyền thông, trong 9 phút, các nhân chứng không hề rời mắt khỏi chiếc xe và không lúc nào họ nhìn thấy vợ chồng Gascoignes rời khỏi xe. Cả hai người phụ nữ đều rất buồn vì họ tin rằng Cate và Aiden vẫn còn ở bên trong và họ đều không thể làm gì được. Xuống khe núithì quá nguy hiểm nên họ chỉ đứng đó nhìn chiếc xe cháy rụi.

    Nhưng đó chính là vấn đề.

    Vợ chồng Gascoignes không có ở bên trong.

    “Chúng ta chỉ cần biết chuyện gì đã xảy ra,” Martin lặng lẽ nói.

    'Tôi biết.'

    “Nếu con gái tôi… nếu con tôi…” Ông dừng lại.
    Chết.

    Khi Sue quay trở lại sân sau, bà nhìn chồng mình và chiếc khay bà đang cầm lắc lư trong tay. Bà đặt nó xuống và đi đến bên ông, như thể bị hút vào ông, vào nỗi thống khổ của ông, rồi cả hai đều bị mắc kẹt trong đó, những con bướm đêm chập chờn trong đêm đen vô tận.

    “Tôi sẽ tìm ra chuyện gì đã xảy ra với cô ấy,” tôi nói.

    Mình không nên hứa hẹn.

    Nhưng đã quá trễ rồi.

    Nỗi đau của họ đã trở thành của tôi.

    “Tôi sẽ tìm ra chuyện gì đã xảy ra với Cate và Aiden.”






    Người dịch : PHẠM TỪ



    Cô sinh viên đi cùng chiều với vợ chồng Gascoignes(người dịch)

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link999 là số điện thoại khẩn cấp ở Anh
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/4/24
    vinaguy thích bài này.
  11. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Bác @72thudo và em đã chung nhau dịch cuốn truyện này. Tuy nhiên, mới bắt đầu dịch em không hiểu tuyến nhân vật nên đã dịch lại toàn bộ từ đầu. Giờ được sự đồng ý của bác @72thudo thì bọn em sẽ ấp lên lần lượt các chương. Chương mở đầu và chương 1 bác @72thudo đã lên rồi, nhưng em cũng đã dịch nên em cũng sẽ lên luôn cho nó cùng tông với các chương tiếp theo nhé các bác.
    LƯU Ý: Em không phải là dân chuyên ngữ và không phải dịch giả nhé. Em chỉ dịch vì em thích (Khi em xem phần mở đầu của bác 72thudo mà thôi). Nên quá trình dịch có sai sót gì mong các bác cao thủ trên đây chỉ dẫn giúp để em học hỏi kinh nghiệm ạ. Gửi đến @Nga Hoang@Anan Két, Các bác lội vào đây và cho em nhận xét với nhé.
    upload_2024-4-8_10-14-24.png
    About the Author

    Giới thiệu về tác giả

    Tim Weaver is the Sunday Times bestselling author of twelve thrillers, including You Were Gone and No One Home. He has been nominated for a National Book Award, twice selected for the Richard and Judy Book Club, and shortlisted for the Ian Fleming Steel Dagger. He is the host and producer of the chart-topping Missing podcast and is currently developing an original TV series with the team behind Line of Duty. A former journalist and magazine editor, he lives near Bath with his wife and daughter.

    Tim Weaver là tác giả sách bán chạy nhất của tờ Sunday Times với 12 truyện kinh dị, trong đó có Anh Đã Đi Rồi Không Có Ai Ở Nhà. Ông đã được đề cử cho Giải thưởng Sách Quốc gia, hai lần được chọn vào Câu lạc bộ Sách Richard và Judy, và lọt vào danh sách rút gọn cho Con dao thép Ian Fleming. Anh là người dẫn chương trình và nhà sản xuất của podcast Mất Tích đứng đầu bảng xếp hạng và hiện đang phát triển một loạt phim truyền hình nguyên bản, là nhóm hậu trường của Line of Duty. Từng là nhà báo và biên tập viên tạp chí, ông sống gần Bath cùng vợ và con gái.
    ***
    For Jo and John

    Dành tặng Jo và John

    ***

    They should have been dead.

    Đáng lẽ họ đã chết rồi.

    That was what people kept telling me in the days before I went out to see the scene for myself. I spoke to family and friends, to the medics and fire crews who were actually there on the night it happened, and they all said the same thing – there was no way Cate and Aiden Gascoigne should have been able to survive a crash like that.

    Đó là điều người ta vẫn nói với tôi những ngày trước khi tôi tận mắt chứng kiến hiện trường. Tôi đã nói chuyện với gia đình và bạn bè, với các bác sĩ và đội cứu hỏa, những người thực sự có mặt ở đó vào đêm sự việc xảy ra, và tất cả họ đều nói cùng một điều - không đời nào Cate và Aiden Gascoigne có thể sống sót sau một vụ tai nạn như thế.

    On the morning I was due to drive down to what was left of the scene, I got up early and, over breakfast, used my laptop to repeatedly inch back and forth along the road where it had happened. It was on the eastern edges of the Surrey Hills and the route I saw online was a sloped two-lane stretch of tarmac, hemmed in by trees on both sides, with a ravine to the west – the Gascoignes’ right as they travelled down the hill – although the ravine wouldn’t have been visible from their vehicle. Top to bottom, the road was less than a mile long, with a junction for the M25 at one end and a village called Gatton at the other. There were two minor bends en route, the road itself was in good condition, and the night the Gascoignes had plunged ninety feet into the ravine, it had been a dry evening in early January. No frost, no ice, not a hint of rain.

    Vào buổi sáng, tôi định lái xe xuống (xem) những gì còn sót lại ở hiện trường, tôi dậy sớm và dùng bữa sáng, dùng máy tính xách tay của mình để liên tục nhích qua lại từng inch (trên bản đồ), dọc theo con đường nơi sự việc đã xảy ra. Nó nằm ở rìa phía đông của Surrey Hills và tuyến đường tôi thấy trên mạng là một đoạn đường dốc trải nhựa có hai làn, được bao quanh bởi cây cối ở cả hai bên, với một khe núi ở phía tây – nằm phía bên tay phải của gia đình Gascoignes khi họ lái xe xuống đồi – tuy nhiên từ xe của họ sẽ không nhìn thấy khe núi. Từ trên xuống dưới, con đường dài chưa đầy một dặm, một đầu là ngã ba đường M25 và đầu kia là làng Gatton. Trên đường đi có hai khúc cua nhỏ, tình trạng con đường rất tốt, và cái đêm gia đình Gascoignes lao xuống khe núi sâu 90 feet, là một buổi tối khô ráo vào đầu tháng Giêng. Không có sương giá, không có băng tuyết, không có một chút mưa.

    So it wasn’t the weather that had caused the accident.

    Do đó, không phải vì thời tiết đã gây ra tai nạn.

    And it wasn’t the layout or the quality of the road either.

    Và cũng không phải là do thiết kế hay chất lượng của con đường.

    Their car had been a black Land Rover Discovery, two years old. The history on it showed no issues and it had only just been through its service, so everything – including the tyres – had been checked literally days beforehand. Yet three minutes after exiting the M25, and only ten seconds after a CCTV camera halfway down Gatton Hill captured the two of them on film – apparently untroubled inside the car – Aiden Gascoigne lost control of the vehicle and the Land Rover nose-dived off the road.

    Xe của họ là chiếc Land Rover Discovery màu đen, mới sản xuất được hai năm. Lai lịch của nó cho thấy không có vấn đề gì và nó chỉ mới được đưa vào sử dụng nên mọi thứ - bao gồm cả lốp xe - đã được kiểm tra theo đúng nghĩa đen vài ngày trước đó. Tuy nhiên, ba phút sau khi ra khỏi đường M25 và chỉ mười giây, sau khi được một camera gắn ở điểm giữa đường xuống Gatton Hill ghi lại cảnh hai người họ – dường như không gặp vấn đề gì khi ở trong xe – Aiden Gascoigne đã mất kiểm soát phương tiện và chiếc Land Rover chúi mũi ra khỏi con đường.

    The photographs of the scene in the casework, taken by forensic techs in the aftermath, were certainly better than nothing, but the portrait they painted wasn’t as lucid as it could have been. The crash had happened at dusk, so a lot of the shots were too dark, even when I adjusted the levels on them, or they were the opposite: bleached by a flash, or oversaturated because of the big mobile lights that had been craned in and erected in the gully. Other pictures in the file were physical prints that had been pinned to a board somewhere in an office at Thames Valley Police. Overall, they were better quality but, by the time the case wrapped up – still unresolved – and the pictures were scanned in and then taken down from those boards, they’d accumulated a mesh of hairs, creases and pale coffee-coloured water damage.

    Những bức ảnh chụp hiện trường trong báo cáo, do các kỹ thuật viên pháp y chụp lại, có còn hơn không, nhưng bức chân dung họ chụp không rõ ràng như thông thường. Sự cố xảy ra vào lúc chạng vạng nên nhiều bức ảnh quá tối, ngay cả khi tôi chỉnh sửa hết mức, hoặc ngược lại: bị trắng phớ bởi đèn flash hoặc quá đậm màu do đèn chiếu di động lớn đã được lắp vào cái cần và dựng lên trong khe núi. Những bức ảnh khác trong hồ sơ là những bản in đã được ghim trên một tấm bảng đâu đó trong văn phòng của Sở Cảnh sát Thung lũng Thames. Nhìn chung, chúng có chất lượng tốt hơn, nhưng vào thời điểm hồ sơ vụ việc được xếp cất – vẫn chưa được xử lý – và những bức ảnh này đã được scan rồi gỡ xuống từ những tấm bảng đó, chúng bị dính cả mớ tóc, bị gập nhăn và bị ố nhiều vết nước màu cà phê nhạt.

    There was, however, one clear shot.

    Tuy nhiên, có một tấm ảnh rõ ràng.

    It had been taken from the flank of the ravine, about twenty-five feet up from the crash, by an accident investigator. They had climbed part of the way up a sloping carpet of scree to try and get a better angle on the wreckage. There were a couple of trees in the way – both stripped to the bone by winter – and a very light spotting of frost at the foot of the chasm, although none around the Land Rover itself. Instead, there was only a pitch-black ring, the grass, ferns and overhanging branches all scorched by the fire that had started in the engine and ripped through the car.

    Tấm ảnh đã được một người điều tra tai nạn chụp từ sườn khe núi, phía trên vụ va chạm khoảng 25 feet. Họ đã leo lên một đoạn đường dốc đá dăm để cố gắng có được góc chụp rõ hơn trên đống đổ nát. Có vài thân cây trên lối đi – đều trơ trụi vào mùa đông – và có một đốm sương rất mỏng dưới chân vực sâu, nhưng xung quanh chiếc Land Rover thì không có. Thay vào đó chỉ là một vòng tròn đen thui, cỏ, dương xỉ và những cành cây nhô ra đều bị thiêu rụi bởi ngọn lửa bùng phát từ động cơ và chiếc xe bị xé toạc.

    The Land Rover – on its roof – barely looked like a car at all. It had been transformed into a ragged tangle of metal, the front concertinaed all the way into the dashboard, every single window smashed. Investigators had drawn an illustration of how they believed the descent had gone, the impact points on the slope of the ravine, but in the end, maybe it didn’t matter all that much. The damage was obvious from just a single photograph, its severity stark and brutal, and however many times the Land Rover had turned, whichever part of its chassis had crunched against the scree – however hard its roof had hit the floor of the gully at the end – there should only have been one outcome for the husband who’d been driving, and the wife beside him.

    Chiếc Land Rover – lật ngửa - trông chẳng còn giống chiếc ô tô chút nào nữa. Nó đã bị biến thành một đống kim loại rách nát, mặt trước bẹp dúm, dính chặt vào bảng điều khiển, mọi cửa sổ đều bị vỡ. Các nhà điều tra đã phác họa đường rơi xuống như thế nào theo cách họ nghĩ, các điểm va chạm trên sườn dốc của khe núi, nhưng cuối cùng, có lẽ tất cả những thứ đó cũng chẳng quan trọng gì nhiều. Hư hại có thể được thấy rõ chỉ từ một bức ảnh duy nhất về mức độ nghiêm trọng và tàn bạo của nó, và cho dù chiếc Land Rover đã lộn bao nhiêu vòng, bất kỳ bộ phận nào của khung gầm va bẹp trên mặt đá dăm - dù nóc xe có cứng tới đâu thì khi chạm đáy khe sâu có lẽ cũng chỉ có một kết quả duy nhất cho người chồng cầm lái và người vợ ngồi bên cạnh.

    They should have been dead.

    Đáng lẽ họ đã chết rồi.

    But that was the thing. That was why the photographs of the crushed, charred Land Rover had spent so long pinned to a board at Thames Valley Police. It was why the media began labelling it ‘The Mystery of Gatton Hill’ and why the CCTV footage of the Gascoignes had got over three million views on YouTube. Everyone knew they should have been dead, that the accident should have crushed them or broken them in half; it should have severed limbs, and arteries. It should have started turning their bodies to ash.

    Nhưng đó chính là vấn đề. Đó là lý do tại sao những bức ảnh chụp chiếc Land Rover bị nghiền nát, cháy thành than đã được ghim rất lâu trên một tấm bảng ở Sở Cảnh sát Thung lũng Thames. Đó là lý do tại sao giới truyền thông bắt đầu gắn nhãn cho nó là 'Bí ẩn ở đồi Gatton' và tại sao đoạn phim về gia đình Gascoignes mà camera an ninh ghi được lại có hơn ba triệu lượt xem trên YouTube. Mọi người đều biết rằng lẽ ra họ đã phải chết, rằng vụ tai nạn lẽ ra đã nghiền nát họ hoặc làm họ gãy đôi; lẽ ra họ phải bị cắt lìa tứ chi và động mạch. Đáng lẽ thi thể họ đã biến thành tro bụi rồi.

    But it didn’t.

    Nhưng những điều đó đã không xảy ra.

    Because when members of the emergency services got to the bottom of the ravine ten minutes after the crash, there was something wrong with the Land Rover.

    Bởi vì, khi các thành viên của dịch vụ cứu hộ xuống đáy khe núi mười phút sau vụ va chạm, đã có điểm bất thường đối với chiếc Land Rover.

    It was empty.

    Nó trống huơ trống hoác.

    The Gascoignes had vanished.

    Gia đình Gascoignes đã biến mất.
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/4/24
    72thudo thích bài này.
  12. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Part One

    Phần một


    THE CRASH

    VỤ VA CHẠM

    1
    The family lived near Runnymede, in a house on the banks of the Thames.

    Gia đình ấy sống gần Runnymede, trong một ngôi nhà bên bờ sông Thames.

    It was half a mile from the motorway, less than three from Heathrow Airport, but it was easy to imagine that you were in the countryside somewhere, and London was a distant memory. The weather helped: it was the first Monday in July, searingly hot even this early, and as boats glided lazily past me, there was almost no traffic noise at all. All I could hear was birdsong and the sound of kids on their way to school as they played in the long grass that lined the fringes of the river.

    Nó cách đường cao tốc nửa dặm, cách sân bay Heathrow chưa đầy ba dặm, nhưng thật dễ để tưởng tượng rằng ta như đang ở một vùng nông thôn nào đó, và London là một ký ức xa xôi. Thời tiết đã hỗ trợ điều đó: đó là ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Bảy, trời nóng như đổ lửa ngay cả khi còn sớm, và khi những chiếc thuyền biếng nhác lướt qua tôi, hầu như không có chút tiếng ồn giao thông nào cả. Tất cả những gì tôi có thể nghe thấy là tiếng chim hót và tiếng trẻ con trên đường đến trường khi chúng chơi đùa trên bãi cỏ dài ven sông.

    I got out of my car and took in the house itself, a mock-Tudor mansion with a double garage and a black wrought-iron gate at the front. The gate had been left ajar and, in the middle of the gravel driveway, an old retriever was lying down, panting in the sun. The second I arrived at the gate, its gaze pinged to me.

    Tôi ra khỏi xe và nhìn vào bên trong ngôi nhà, một biệt thự kiểu Tudor có gara đôi và cánh cổng sắt rèn màu đen ở phía trước. Cánh cổng vẫn hé mở và giữa lối đi rải sỏi, một con chó săn già (giống Retriever) đang nằm thở hổn hển dưới nắng. Ngay khi tôi đến cổng, ánh mắt của nó hướng về phía tôi.

    ‘Hey,’ I said, and got down on to my haunches.

    “Này,” tôi nói và ngồi xổm xuống.

    It was a girl. She eyed me for a second, clearly wondering if I was worth getting up for, and then she must have decided that I was because she hauled herself to her feet, one of her legs stiff, and trotted across to me. I ran a hand through her hair, along her flank, and she rested her muzzle against my thigh.

    Đó là một con chó cái. Nó nhìn tôi trong giây lát, rõ ràng đang tự hỏi liệu tôi có đáng cho nó đứng dậy không, và rồi nó chắc chắn đã quyết định rằng đứng dậy, một chân cứng đờ và chạy lon ton về phía tôi. Tôi đưa tay vuốt lông, dọc theo sườn nó, và nó tựa mõm vào đùi tôi.

    ‘She’s never been much of a guard dog.’ I looked up. A man in his late sixties was coming down the driveway towards me, a half-smile on his face. ‘But we still love her, don’t we, Jess?’ He was smartly dressed in a powder-blue button-down shirt and cream chinos. ‘I’m sure you’ve guessed this already,’ he said, ‘but I’m Martin Clark.’

    “Nó chưa bao giờ là con chó trông nhà.” Tôi ngước lên. Một người đàn ông khoảng hơn sáu mươi đang bước xuống ngõ đi về phía tôi, nở nụ cười nửa miệng. “Nhưng chúng tôi vẫn yêu nó, phải không, Jess?” Ông ta ăn mặc lịch sự trong chiếc áo sơ mi cài nút màu xanh lam và quần chinos màu kem. “Tôi chắc là anh đã đoán được tôi là ai rồi,” ông ấy nói, “nhưng tôi là Martin Clark.”

    He held out his hand to me.

    Ông chìa tay ra cho tôi.

    ‘David Raker,’ I said, standing. ‘But I’m sure you knew that too.’

    “Tôi là David Raker,” tôi nói và đứng dậy. ‘Nhưng tôi chắc chắn rằng ông cũng đã biết tên tôi.’

    We shook hands.

    Chúng tôi bắt tay nhau.

    ‘Thanks for coming, Mr Raker.’

    ‘Cảm ơn vì đã đến, anh Raker.’

    ‘David.’

    “Gọi tôi là David”.

    He nodded. ‘Martin.’

    Ông ta gật đầu. ‘Gọi tôi là Martin.’

    I gave Jess another stroke and glanced at the river again. All that lay between the Clarks and the water on this side of the house was a band of long grass, a knot of oak trees and an old, rickety jetty at which a rowing boat bobbed gently. “This is a beautiful spot,” I said.

    Tôi vuốt ve Jess một lần nữa và lại liếc nhìn dòng sông. Nằm giữa ngôi nhà của ông Clarks và mặt nước ở phía bên này của ngôi nhà là một dải cỏ dài, một cụm cây sồi và một cầu cảng cũ kỹ, ọp ẹp nơi có một chiếc thuyền chèo nhẹ nhàng nhấp nhô. “Đây là một nơi tuyệt đẹp,” tôi nói.

    He smiled. “We’ve always loved it.”

    Ông ấy đã mỉm cười. “Chúng tôi luôn yêu thích nó.”

    “How long have you been here?”

    “Ông đã ở đây bao lâu?”

    ‘We moved here from Islington when the girls were still young. It was a happy home for a long, long time…’ Something flickered in his expression. But not any more. He cleared his throat, forced a smile. ‘We used to take the girls out on the river a lot.’ He pointed to the rowing boat.

    “Chúng tôi chuyển đến đây từ Islington khi mấy đứa con gái vẫn còn bé. Đó là một ngôi nhà hạnh phúc trong một thời gian dài…” Có điều gì đó thoáng qua trên nét mặt ông. Nhưng không còn nữa. Ông hắng giọng, gượng cười. “Chúng tôi thường đưa các con gái đi chơi trên sông rất nhiều.” Ông chỉ vào chiếc thuyền chèo.

    ‘They must have loved it,’ I said.

    “Chắc chúng nó thích lắm,” tôi nói.

    ‘They did. We all did. It takes on a bit of water now, so you can’t go very far, but back then, the four of us used to row miles.’ The four of them. Him, his wife Sue, and his two daughters: Georgia, who was the eldest by two years, and Catherine.
    (Chỗ này em dịch chưa thông gì hết)

    “Chúng nó rất thích. Tất cả chúng tôi đều rất thích. Bây giờ nước dâng lên khá nhiều nên anh không thể ra xa được, nhưng hồi đó, bốn người chúng tôi thường chèo thuyền hàng dặm.” Bốn người họ. Ông ấy, vợ ông ấy là Sue và hai cô con gái: Georgia, con bé lớn hai tuổi và Catherine.

    Cate, for short.

    Gọi ngắn gọn là Cate.

    ‘Why don’t you come in, David?’

    “Sao anh không vào đi, David?”

    I followed Martin into the house, Jess plodding along behind us. Immediately inside was a foyer with a staircase in the centre. It was lovely, made from glass and timber, and gently spiralled up to the first-floor landing. Circling the staircase like the spokes of a wheel were five doors. I could see a living room, a kitchen and an office from where I was. There was light pouring in from all directions thanks to a series of windows high up on the walls of the foyer.

    Tôi theo Martin vào nhà, Jess lê bước theo sau chúng tôi. Ngay bên trong là một tiền sảnh có cầu thang ở giữa. Nó thật đáng yêu, được làm từ kính và gỗ, và có hình xoắn ốc nhẹ nhàng dẫn lên chiếu nghỉ ở tầng một. Bao quanh cầu thang như nan bánh xe là năm cánh cửa. Tôi có thể nhìn thấy phòng khách, nhà bếp và văn phòng từ nơi tôi đang đứng. Ánh sáng tràn vào từ mọi hướng nhờ dãy cửa sổ cao trên tường của tiền sảnh.

    He led me into the living room, which then opened out on to a deck elevated over a sloping garden. The garden was immaculate and hemmed in by perfectly sculpted laurel bushes. It only added to the sense of being somewhere remote. Even the soft drone of a plane, taking off from Heathrow, couldn’t tarnish the effect.

    Ông ấy dẫn tôi vào phòng khách, sau đó mở cửa ra sân hiên cao, hướng ra một khu vườn dốc. Khu vườn sạch không tì vết và được bao quanh bởi những bụi nguyệt quế được cắt tỉa hoàn hảo. Điều đó chỉ làm tăng thêm cảm giác như đang ở một nơi nào đó hẻo lánh. Ngay cả tiếng máy bay ồn ào cất cánh từ Heathrow cũng không thể làm mờ đi hiệu ứng đó.

    A woman was waiting for us out on the deck, standing to the side of some grey patio furniture, hands in front of her. She looked worried, or scared, or both.

    Một người phụ nữ đang đợi chúng tôi ở ngoài hiên, đứng bên cạnh một bộ bàn ghế màu xám, tay đưa ra phía trước. Bà ấy trông lo lắng, hoặc sợ hãi, hoặc cả hai.

    ‘Mrs Clark?’

    “Bà Clark?”

    She smiled. ‘Sue, please.’

    Bà ấy mỉm cười. “Làm ơn gọi là Sue.”

    ‘David.’

    “Gọi tôi là David.”

    We shook hands. Her skin was clammy.

    Chúng tôi bắt tay nhau. Da bà ấy ươn ướt.

    ‘Can I get you something to drink, David?’

    “Anh uống gì, David?”

    ‘Something cold would be lovely, thank you.’

    “Thứ gì đó lạnh sẽ rất tuyệt, cảm ơn bà.”

    Sue disappeared into the house and Martin gestured to one of the patio chairs. Above me, I saw that the deck had a cover, which appeared to be able to slide back and forth along its runners, depending on where the Clarks wanted their shade. It was another smart, expensive feature. But that, and the pristine house, and the flawless garden, were all just illusions. Everything here was near perfect on the surface but turbulent as a storm below. The house, the garden, it was all distraction.

    Sue biến mất vào nhà và Martin chỉ vào một trong những chiếc ghế ở hàng hiên. Nhìn lên phía trên, tôi thấy sân thượng có một tấm che, dường như nó có thể trượt qua lại dọc theo các rãnh dẫn hướng, tùy thuộc vào nơi mà gia đình Clarks muốn có bóng râm. Đó là một tính năng thông minh, đắt tiền khác. Ngoài điều đó, ngôi nhà nguyên sơ và khu vườn hoàn mỹ, tất cả chỉ là ảo ảnh. Mọi thứ ở đây bề ngoài gần như hoàn hảo nhưng bên dưới lại hỗn loạn như một cơn bão. Ngôi nhà, khu vườn, tất cả đều là giải trí.

    ‘I hope you don’t mind,’ Martin said, ‘but I did a little reading up about you. I saw some of the cases you’ve had. It seems like it can get pretty hairy at times.’

    “Tôi hy vọng anh không phiền,” Martin nói, “nhưng tôi đã đọc một chút về anh. Tôi đã xem một số vụ việc anh gặp phải. Có vẻ như đôi khi nó cũng khá kinh khủng.”

    ‘At times. But not always.’

    “Đôi khi thôi. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy.”

    ‘I suppose there are all sorts of reasons why people go missing.’

    “Tôi cho rằng có đủ loại lý do khiến người ta mất tích.”

    ‘No two cases are exactly the same.’

    “Không có hai vụ việc nào giống hệt nhau đâu.”

    ‘Do you ever get a gut feeling one way or another?’

    “Anh có bao giờ có linh cảm theo chiều hướng này hay chiều hướng khác không?”

    ‘About where a case is going to go?’

    “Về vụ việc sẽ đi đến đâu?”

    He nodded. ‘Do you ever sit down like this and hear the story from the family and then think to yourself, “This is going to be a difficult one to crack”?’

    Ông ta gật đầu. “Anh có bao giờ ngồi xuống và nghe câu chuyện từ một gia đình rồi tự nghĩ: ‘Đây sẽ là một vấn đề khó giải quyết'?”

    As Jess wandered out from the living room and slumped on to the decking, I turned Martin’s question over. In a disappearance, especially when it came to runaways, sometimes the object wasn’t to vanish, it was simply to break free. In those cases, I was usually employed by children’s homes, or councils, or foster families. Occasionally, you might get work from the biological family, but generally – by the time a teenager reached the stage when they were trying to escape – the biological family had long been erased from the picture. Those searches tended to stick to a rigid pattern, tended to involve doing the same things on repeat, so I suppose it was true that in those cases I’d get an idea right out of the gate of where things would go.

    Khi Jess bước ra khỏi phòng khách và ngồi phịch xuống sàn, tôi lật lại câu hỏi của Martin. Trong một vụ mất tích, đặc biệt là khi có người bỏ trốn, đôi khi người ta không biến mất mà chỉ đơn giản là để thoát ra. Trong những vụ việc đó, tôi thường được thuê bởi các gia đình, hội đồng hoặc gia đình nhận nuôi của bọn trẻ. Đôi khi, ta có thể nhận được công việc từ gia đình ruột thịt bọn trẻ, nhưng nhìn chung - vào thời điểm một thiếu niên đến giai đoạn cố gắng trốn thoát – hình ảnh gia đình ruột thịt đã bị xóa khỏi tâm trí nó từ lâu. Những cuộc tìm kiếm đó có xu hướng tuân theo một khuôn mẫu cứng nhắc, có xu hướng liên quan đến việc lặp đi lặp lại những điều tương tự, vì vậy tôi cho rằng đúng là trong những trường hợp đó, tôi sẽ nảy ra ý tưởng về việc mọi thứ sẽ đi đến đâu ngay khi ra khỏi cổng.

    But it wasn’t always like that.

    Nhưng nó không phải lúc nào cũng như vậy.

    Sometimes you caught a case where there was no pattern and no recognizable shape to it, where the answers appeared unreliable or non-existent. And in almost all the investigations that I’d never had a gut feeling about – and which had hurt me the most – there was always a liar at the centre.

    Đôi khi ta gặp phải trường hợp không có khuôn mẫu và hình dạng nào có thể nhận biết được, trong đó các câu trả lời có vẻ không đáng tin cậy hoặc không tồn tại. Và trong hầu hết các cuộc điều tra, tôi chưa bao giờ có cảm giác sâu sắc - và điều khiến tôi đau xót nhất - luôn có một kẻ nói dối ở những khâu quan trọng.

    Liars were why cases were unpredictable.

    Những kẻ nói dối là lý do tại sao các vụ việc lại không thể đoán trước được.

    Liars got you killed.

    Những kẻ nói dối đã giết ta.

    Looking at Martin, I said, ‘Sometimes you might get a feel for where a case is going to go, yes – but every case is different. I try not to prejudge them. And even if they are tricky to crack, it doesn’t mean I won’t.’

    Nhìn ông Martin, tôi nói, “Đôi khi ta có thể đoán được một vụ việc sẽ đi đến đâu, vâng - nhưng mỗi trường hợp đều khác nhau. Tôi cố gắng không phán xét chúng. Và ngay cả khi chúng khó nhằn, điều đó không có nghĩa là tôi sẽ không làm được.”

    It was an attempt to reassure him because the catalyst for the question was obvious: he’d spent the last two and a half years facing down nothing but failure, of being tortured with dead ends and unanswered questions, and now he wasn’t sure if he’d made the right choice. What if my search just brought them more suffering?

    Đó là một cố gắng để trấn an ông ấy vì chất xúc tác cho câu hỏi này rất rõ ràng: ông ấy đã dành hai năm rưỡi qua để đối mặt với không gì khác ngoài thất bại, bị hành hạ trong những ngõ cụt không lối thoát và những câu hỏi không lời giải đáp, và giờ ông ấy không chắc chắn được là mình đã lựa chọn đúng hay chưa. Điều gì sẽ xảy ra nếu cuộc tìm kiếm của tôi chỉ khiến họ thêm đau khổ?

    What if I never found Cate and Aiden Gascoigne?

    Nếu tôi không bao giờ tìm thấy Cate và Aiden Gascoigne thì sao?

    ‘I guess you know a little about them already?’ he asked.

    “Tôi đoán là anh đã biết đôi chút về chúng nó rồi phải không?” ông ấy hỏi.

    ‘Only through what you told me on the phone and what’s been reported.’

    “Chỉ thông qua những gì ông đã nói với tôi qua điện thoại và những gì đã được báo cáo.”

    He put a hand flat to the table that separated us and looked out at the garden. ‘The reports were pretty accurate. I probably read every single one of them – I suppose I was trying to find some sort of answer, some explanation of where Cate and Aiden might have gone. But what the media put out there matched what the police told us.’

    Ông ấy đặt một bàn tay lên chiếc bàn ngăn giữa hai chúng tôi và nhìn ra vườn. “Các báo cáo khá chính xác. Có lẽ tôi đã đọc từng cái một - tôi cho rằng tôi đang cố gắng tìm ra câu trả lời nào đó, lời giải thích nào đó về việc Cate và Aiden có thể đã đi đâu. Nhưng những gì giới truyền thông đưa ra trùng khớp với những gì cảnh sát đã nói với chúng ta.”

    He looked at me, a shimmer in his face.

    Ông ấy nhìn tôi, một ánh sáng lấp lánh hiện lên trên khuôn mặt ông.

    The car was empty.

    Chiếc xe trống rỗng.

    ‘So, as I understand it,’ I said, ‘Cate and Aiden were heading to some friends in Reigate. A CCTV camera confirmed they exited the M25 at the Gatton Hill turn-off. From there, they crossed the roundabout and connected to Gatton Hill itself, and halfway down that, another surveillance camera filmed them again.’

    “Vì vậy, theo tôi hiểu,” tôi nói, “Cate và Aiden đang đi đến chỗ một vài người bạn ở Reigate. Một camera ghi hình xác nhận họ đã ra khỏi đường M25 tại lối rẽ Gatton Hill. Từ đó, họ băng qua bùng binh và nối thẳng tới Gatton Hill, và đi được nửa đường, một camera giám sát khác đã ghi lại được hình ảnh của họ.”

    ‘That’s right.’

    “Đúng rồi.”

    ‘Ten seconds later, something happened.’

    “Mười giây sau, có điều gì đó đã xảy ra.”

    We looked at each other. Something happened. That made it sound minor: a mishap, not a sudden catastrophic event where a car plunged ninety feet into a gully.

    Chúng tôi nhìn nhau. Một điều gì đó đã xảy ra. Điều đó nghe có vẻ nhỏ nhặt: một tai nạn, không phải một sự kiện thảm khốc bất ngờ khi một chiếc ô tô lao thẳng xuống một rãnh sâu 90 feet.

    ‘No one saw them leave the road?’

    “Không ai thấy họ rời khỏi đường à?”

    ‘No. The first witnesses arrived after.’

    “Không. Những nhân chứng đầu tiên đã đến sau đó.”

    One, travelling south from the motorway, was a student called Zoe Simmons. She told police she saw tyre marks on the road and a piece of the Land Rover’s bumper; when she started to slow her Suzuki, she saw the spot where the car had exited the road. The other driver – heading north – was a 61-year-old retiree called Audrey Calvert. Even before Simmons had seen the tyre marks and the bumper, Calvert was already slowing her Fiat 500 because – for a few seconds, as she travelled up the hill – the layout of the road allowed her a brief, uninterrupted view down the slope of the ravine, into the foot of the gully.

    Một người đang đi về phía nam từ đường cao tốc là một sinh viên tên là Zoe Simmons. Cô ấy khai với cảnh sát rằng cô nhìn thấy vết lốp xe trên đường và một mảnh cản của chiếc Land Rover; Khi cô bắt đầu giảm tốc độ chiếc Suzuki của mình, cô nhìn thấy vị trí chiếc xe đã rẽ ra khỏi đường. Người lái xe còn lại – đi về phía bắc – là Audrey Calvert, 61 tuổi, đã nghỉ hưu. Ngay cả trước khi Simmons nhìn thấy vết bánh xe và cản trước, Calvert đã giảm tốc độ chiếc Fiat 500 của mình bởi vì – trong vài giây, khi bà ấy đi lên đồi – thiết kế của con đường cho phép bà có tầm nhìn thu gọn, không bị gián đoạn tầm nhìn xuống dốc của con đường và khe núi.

    There she could see a vehicle.

    Ở đó bà có thể nhìn thấy một chiếc xe.

    It was on its roof.

    Nó nằm lật ngửa.

    Both she and Simmons parked up, dialled 999 and, about two minutes after the crash, walked up to where the tyre marks bled off: some of the foliage had been torn, allowing them both to see down the slant of the ravine.

    Cả bà và Simmons đều đỗ xe, quay số 999 và khoảng hai phút sau vụ va chạm, họ đi bộ đến nơi vết lốp xe bị chà vết: một số tán lá đã bị xé toạc, giúp cả hai có thể nhìn xuống sườn dốc của khe núi.

    Soon after that, the Land Rover caught fire.

    Ngay sau đó, chiếc Land Rover bốc cháy.

    I’d requested a copy of the police investigation from a contact of mine in the Met, so I’d confirm all this for certain in the next twenty-four hours. But the details reported by the media did seem to be pretty accurate; as I continued to go back over the events of that day with Martin, he basically repeated what I already knew.

    Tôi đã yêu cầu một bản sao cuộc điều tra của cảnh sát từ một người quen của tôi ở Met, vì vậy tôi sẽ xác nhận chắc chắn tất cả những điều này trong 24 giờ tới. Nhưng những chi tiết được giới truyền thông đưa tin có vẻ khá chính xác; Khi tôi tiếp tục xem lại những sự kiện ngày hôm đó với Martin, về cơ bản ông ấy đã lặp lại những gì tôi đã biết.

    ‘The witnesses never saw Cate and Aiden get out of the car?’

    “Các nhân chứng chưa bao giờ nhìn thấy Cate và Aiden ra khỏi xe?”

    ‘No,’ Martin said.

    “Không,” Martin nói.

    According to the media, in nine minutes, the witnesses never took their eyes off the car and at no time did they see the Gascoignes leave the vehicle. Both women had been upset because they believed Cate and Aiden were still inside and there was nothing either of them could do. It was too dangerous to go down the slope, so they just stood there the entire time, watching the car cremate.

    Theo giới truyền thông, trong 9 phút, các nhân chứng không hề rời mắt khỏi chiếc xe và không lúc nào họ nhìn thấy gia đình Gascoignes rời xe cả. Cả hai người phụ nữ đều rất sốc vì họ tin rằng Cate và Aiden vẫn còn ở bên trong và cả hai người đều không thể làm gì được. Xuống dốc quá nguy hiểm nên họ chỉ đứng đó nhìn chiếc xe cháy rụi.

    But that was the thing.

    Nhưng đó chính là vấn đề.

    The Gascoignes weren’t inside.

    Gia đình Gascoignes không có ở bên trong xe.

    ‘We just need to know what happened,’ Martin said quietly.

    “Chúng ta chỉ cần biết chuyện gì đã xảy ra,” Martin thì thào nói.

    ‘I know.’

    “Tôi biết.”

    ‘If she’s … if she’s …’ He stopped.

    “Nếu con bé… nếu con bé…” Ông dừng lại.

    Dead.

    Chết

    As Sue came back out on to the deck, she saw her husband and the tray she was holding wobbled in her grip. She set it down and went to him, as if drawn to him, his torment, because they were both trapped in it, moths fluttering in endless darkness.

    Khi Sue quay trở lại mái hiên sân thượng, bà nhìn chồng và chiếc khay bà đang bưng lắc lư trong tay. Bà đặt nó xuống và đi đến bên ông, như thể bị thu hút bởi sự dằn vặt của ông, bởi vì cả hai đều bị mắc kẹt trong đó, như những con bướm đêm bay lượn vật vờ trong bóng tối vô tận.

    ‘I’ll find out what happened to her,’ I said.

    “Tôi sẽ tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với cô ấy,” tôi nói.

    You shouldn’t be making promises.

    Ta không nên hứa hẹn.

    But it was too late.

    Nhưng đã quá trễ rồi.

    Their pain had already become mine.

    Nỗi đau của họ đã trở thành của tôi.

    ‘I’ll find out what happened to Cate and Aiden.’

    “Tôi sẽ tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với Cate và Aiden.”
     
    Chỉnh sửa cuối: 8/4/24
    machine and 72thudo like this.
  13. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    2
    ‘The last time we saw her was a week before she disappeared.’

    “Lần cuối cùng chúng tôi gặp con bé là một tuần trước khi nó mất tích.”

    I had my notebook out on the table and my phone recording beside that. Martin and Sue had gathered themselves again, their tears gone for now, the two of them slipping on the same disguises they’d worn every day since Cate vanished – a show of strength that dissolved the moment they were alone again.

    Tôi để cuốn sổ tay của mình trên bàn và chiếc điện thoại ghi âm bên cạnh. Martin và Sue đã ngồi sát lại với nhau, nước mắt của họ giờ đã cạn, cả hai mặc đi mặc lại bộ trang phục mà họ đã mặc vào ngày Cate mất tích – một màn phô diễn lòng kiên cường nhưng sẽ sớm kết thúc khi họ chỉ còn lại một mình mà thôi.

    ‘So let’s go back to the 3rd of January,’ I said.

    “Vậy chúng ta hãy quay trở lại ngày 3 tháng Giêng,” tôi nói.

    Martin nodded. ‘Two years, six months and one day.’

    Martin gật đầu. “Hai năm, sáu tháng và một ngày.”

    He glanced at Sue, taking her hand, and she looked back at him: for them, this was a sentence, every day a mark on a cell wall.

    Ông liếc nhìn Sue, nắm lấy tay bà, và bà quay nhìn ông: đối với họ, đây là một câu nói, nhưng mỗi ngày như là một dấu vết khắc lên tường nhà.

    ‘You saw Cate and Aiden over Christmas?’

    “Ông đã gặp Cate và Aiden vào dịp Giáng sinh à?”

    ‘Right,’ Martin said. ‘They came to stay with us on Christmas Eve and were here all the way through until the Saturday, the 28th. Georgia was here too for Christmas Day with her boyfriend, Will, and our little granddaughter, Talia. It was so nice.’ He blinked a couple of times. ‘I mean, we just loved having them all.’

    “Đúng rồi,” Martin nói. “Chúng nó đến ở với chúng tôi vào đêm Giáng sinh và ở đây cho đến thứ Bảy, ngày 28. Georgia cũng đến đây vào ngày Giáng sinh cùng với bạn trai của nó, Will, và cháu gái nhỏ của chúng tôi, Talia. Thật vui.” Ông chớp mắt vài lần. “Ý tôi là, chúng tôi chỉ muốn tất cả chúng nó tới.”

    ‘Where did Cate and Aiden go after they left here?’

    “Cate và Aiden đã đi đâu sau khi họ rời khỏi đây?”

    ‘They went to some friends near Bristol for New Year.’

    “Chúng nó đến nhà một vài người bạn ở gần Bristol để đón năm mới.”

    I asked for the name of the friends, just in case. Cate and Aiden had returned safely to London on New Year’s Day, and Aiden had returned to work on the 2nd at the design agency in Soho where he was the creative director, so I didn’t expect that line of enquiry to be relevant. But these were all boxes that needed to be ticked.

    Tôi hỏi tên của những người bạn để phòng khi cần đến. Cate và Aiden đã trở về London an toàn vào ngày đầu năm mới, còn Aiden đã trở lại làm việc vào hai ngày sau đó tại công ty thiết kế ở Soho, nơi anh ta là giám đốc sáng tạo, vì vậy tôi không mong đợi cuộc điều tra đó có liên quan. Nhưng đây đều là những ô cần được đánh dấu.

    ‘Cate and Aiden lived in Twickenham, is that right?’

    “Cate và Aiden sống ở Twickenham, phải không nhỉ?”

    ‘Yes.’

    “Đúng rồi.”

    ‘How long had they been there?’

    “Họ đã ở đó bao lâu rồi nhỉ?”

    ‘Ooooh, what would you say, Sue?’

    “Ồ, em sẽ nói gì đây, Sue nhỉ?”

    ‘Seven years,’ she replied without hesitation, and then smiled, although it was a little sad, the pain flickering in and out. ‘Mart isn’t the only one who can remember dates,’ she added, trying to make light of the fact that this was yet more time, more events in her daughter’s life, she’d marked out on that same wall.

    “Bảy năm,” bà trả lời không chút do dự, rồi mỉm cười, mặc dù hơi buồn, nỗi đau chập chờn thoáng qua. “Mart không phải là người duy nhất có thể nhớ được ngày tháng,” bà nói thêm, cố gắng làm sáng tỏ sự thật rằng đây là thời gian còn lại, nhiều sự kiện hơn trong cuộc đời con gái bà, bà đã đánh dấu trên cùng chính một vách tường đó.

    ‘How long had they been together?’

    “Họ đã ở bên nhau bao lâu rồi?”

    ‘Almost nine years,’ Sue replied again, ‘five married.’

    “Gần chín năm,” Sue lại trả lời, “Nhưng kết hôn được năm năm.”

    ‘Where did they meet?’

    “Họ gặp nhau ở đâu?”

    ‘It was through some work Cate did at Aiden’s company,’ Martin said, picking things up again. ‘They were creating this campaign which needed some photography. Aiden found Cate online, they worked on that project together – and then Aiden asked her out.’

    “Đó là thông qua một số công việc mà Cate đã làm ở công ty của Aiden,” Martin nói, và nhặt vài món đồ lên lần nữa. “Công ty đang lập ra chiến dịch này và cần một vài nhiếp ảnh gia. Aiden tìm thấy Cate trên mạng, chúng nó cùng nhau thực hiện dự án đó – và sau đó Aiden đã mời con bé đi chơi.”

    ‘Cate was a full-time photographer, correct?’

    “Cate là một nhiếp ảnh gia toàn thời gian, đúng không?”

    ‘Yes. She made a really good career out of it.’

    “Đúng rồi. Nó đã tạo dựng được một sự nghiệp thực sự tốt nhờ công việc đó.”

    ‘What sort of stuff did she photograph?’

    “Cô ấy đã chụp những thứ gì?”

    ‘We have some pictures inside if you’d like to see them.’

    “Chúng tôi sẵn có một số bức ảnh đây nếu anh muốn xem.”

    ‘That would be great.’

    “Tuyệt vời.”

    Martin hauled himself out of his seat and headed back inside the house, and then Sue also got up, going to a sideboard in the living room, bringing back more photographs. Except none of these were professional shots, and none of them were taken by Cate. They were all taken by Martin and Sue.

    Martin nhấc mình ra khỏi ghế và quay đầu vào trong nhà, rồi Sue cũng đứng dậy, đi đến tủ búp phê trong phòng khách, mang ra thêm nhiều bức ảnh. Tuy nhiên, không có bức ảnh nào được chụp một cách chuyên nghiệp, và không có bức ảnh nào được Cate chụp. Tất cả chúng đều do Martin và Sue chụp.

    They were all of their daughter.

    Tất cả mớ hình đều là của con gái họ.

    I’d seen pictures of Cate already, of Aiden as well. They were a good-looking couple, both thirty-eight at the time they went missing: Cate was tall and fair-skinned with a beauty spot above the left arc of her lips; Aiden was athletic, shaven-headed, bearded, his eyes brown, his skin olive. I knew already that both his parents were dead, that he was an only child, and that his father had been Irish and his mother was from Turkey.

    Tôi đã xem ảnh của cả Cate và Aiden. Họ là một cặp đôi dễ coi, cả hai đều đã ba mươi tám tuổi vào thời điểm mất tích: Cate cao, nước da trắng với một nốt ruồi đẹp phía trên cung môi trái; Aiden là người lực lưỡng, đầu cạo trọc, có râu, mắt nâu, da màu ô liu. Tôi đã biết rằng cả cha lẫn mẹ anh ta đều đã chết, anh ta là con một, cha anh ta là người Ireland và mẹ là người Thổ Nhĩ Kỳ.

    I kept going through the pictures. They seemed to cover most of the nine years Cate and Aiden had been together, but there were also shots of Cate with her sister Georgia – she looked much more like Martin, whereas Cate was the spitting image of Sue.

    Tôi tiếp tục xem qua các bức ảnh. Chúng dường như thể hiện đầy đủ hầu hết cả chín năm Cate và Aiden đã ở bên nhau, nhưng cũng có những bức ảnh chụp Cate với chị gái Georgia - cô ấy trông giống Martin hơn nhiều, trong khi Cate là hình tượng của Sue.

    As Martin returned to the deck weighed down with albums and opened the first of them, he and Sue physically leaned in, drawing themselves closer to the portraits mounted inside. I studied the two of them: both appeared to be fit and healthy, their skin lightly tanned from the long spell of hot weather, their clothes smart, brand names. Sue was in a dark blue cotton dress and had a thin gold chain at her neck with one half of a heart as a pendant. Unlike her husband, who had lost most of his hair – and what remained had coloured silver – hers was thick, honey blonde, cut into a modern style that allowed her fringe to hang longer on one side of her face. I wondered if the fact that she and Cate were so alike physically made it harder for them.

    Khi Martin trở lại hàng hiên với những cuốn album nặng trĩu và mở cuốn đầu tiên ra, ông ấy và Sue nghiêng người tới gần những bức chân dung được dán bên trong. Tôi quan sát hai người họ: cả hai đều có vẻ cân đối và khỏe mạnh, làn da rám nắng nhẹ do thời tiết nắng nóng kéo dài, quần áo lịch sự, hàng hiệu. Sue mặc một chiếc váy cotton màu xanh đậm và đeo một sợi dây chuyền vàng mỏng ở cổ với một nửa trái tim làm mặt dây chuyền. Không giống như chồng bà, người đã rụng gần hết tóc - và phần tóc còn lại có màu bạc - tóc của bà dày, màu vàng mật ong, được cắt theo phong cách hiện đại giúp cho phần tóc mái ngang trán của bà dài hơn ở một bên khuôn mặt. Tôi tự hỏi liệu việc bà ấy và Cate giống nhau về mặt thể chất có khiến họ gặp khó khăn hơn không.

    For Martin, because every day he could see the echoes of Cate in his wife.

    Đối với Martin, vì mỗi ngày ông đều có thể nhìn thấy tiếng vọng của Cate trong vợ mình.

    For Sue, because those echoes were written into her.

    Đối với Sue, vì những tiếng vọng đó đã được khắc sâu vào trong tâm trí bà.

    ‘This is some of the stuff she used to do,’ Martin said, and pushed the albums across the table towards me. There was a grimace on his face now, and as soon as I saw the first page of the first album I realized why.

    “Đây là một số việc con bé từng làm,” Martin nói và đẩy tập album qua bàn về phía tôi. Bây giờ khuôn mặt ông ấy có vẻ nhăn nhó, và ngay khi nhìn thấy trang đầu tiên của cuốn album thứ nhất, tôi đã hiểu tại sao.

    It was a photograph of a helicopter crash.

    Đó là bức ảnh chụp một vụ tai nạn trực thăng.

    The site had mostly been cleared but some of the wreckage remained, perhaps because it was in a narrow chasm between two sheer rock faces. In the background was a jagged wall of peaks, some snow-capped, and a handwritten note was underneath: ‘Fragments Pt 1’ – Beinn Sionnach, Scotland, October 2015. I turned the page and across the next spread were two more shots, each a variation on the first. ‘Fragments Pt 2’ had been taken a month later, this time under bright clear skies; the full horror of the accident – the scorched angle of the rotors, the crushed, blackened cockpit, the snapped tail – impossible to look away from. The scale of the destruction, the perfection of its framing in the chasm, was hard to articulate. I didn’t want to think of it as beautiful, because people would have died – and yet it was. There was something about the shot, about the third one as well, that was almost hypnotic: ‘Fragments Pt 3’ had been photographed the following month and the crash seemed to have mutated again, a thick blanket of snow hiding the worst of it now, with only the occasional twist of metal reaching out.

    Địa điểm này gần như đã được dọn sạch nhưng một vài đống đổ nát vẫn còn sót lại, có lẽ vì nó nằm trong một vực sâu hẹp giữa hai vách đá dựng đứng. Phía sau là những đỉnh núi lởm chởm, một vài đỉnh núi phủ tuyết và bên dưới có một dòng chữ viết tay: ‘Mảnh vỡ Pt 1’ – Beinn Sionneach, Scotland, tháng 10 năm 2015. Tôi lật trang và ở trang tiếp theo là hai bức ảnh nữa, mỗi bức là một biến thể của bức đầu tiên. ‘Mảnh vở Pt 2’ được chụp một tháng sau đó, lần này là dưới bầu trời trong xanh; toàn bộ sự kinh hoàng của vụ tai nạn – góc cháy sém của cánh quạt, buồng lái bị nghiền nát, cháy đen, phần đuôi bị gãy – khó có thể rời mắt. Thật khó để nói rõ quy mô của sự tàn phá, và mức độ hoàn hảo của khung cảnh trong vực thẳm. Tôi không muốn nghĩ nó đẹp đẽ, bởi vì mọi người có lẽ đã chết - và đúng vậy. Có điều gì đó về bức ảnh, cả bức thứ ba cũng vậy, gần như bị thôi miên: 'Mảnh vỡ Pt 3' đã được chụp khoảng một tháng sau đó và vụ tai nạn dường như lại biến đổi, lúc này một lớp tuyết dày che giấu phần tồi tệ nhất của nó, chỉ thỉnh thoảng có những thanh kim loại cong queo vươn ra.

    Sue pursed her lips, her eyes on the pictures, as Martin poured himself some more iced water. ‘It wasn’t all like that,’ Sue said. ‘She photographed lots of other things – but she always said she was drawn to the tragic. In fact, one of her exhibitions was actually called that. Well, “Tragic, Drawn”.’

    Sue mím môi, dán mắt vào những bức ảnh, trong khi Martin rót thêm cho mình chút nước đá. “Mọi chuyện không phải như vậy,” Sue nói. “Con bé chụp rất nhiều thứ khác – nhưng nó luôn nói rằng nó bị cuốn hút vào sự bi thảm. Trên thực tế, một trong những cuộc triển lãm của nó thực sự được gọi như thế. Chà, ‘Bi kịch, U sầu’.”

    ‘Where did she exhibit?’ I asked.

    “Cô ấy đã triển lãm ở đâu?” Tôi hỏi.

    ‘A gallery in London,’ Martin replied. ‘We can get the name for you if you like. She did a lot of work for photo agencies too, covering big news events, but the stuff she did for herself, that was her real passion.’

    “Một phòng trưng bày ở London,” Martin trả lời. “Chúng tôi có thể cung cấp địa chỉ cho anh nếu anh cần. Con bé cũng làm rất nhiều việc cho các hãng ảnh, đưa tin về các tin tức sự kiện lớn, nhưng những việc nó làm cho chính mình mới là niềm đam mê thực sự của nó.”

    ‘We don’t want to give you the wrong impression of who Cate was,’ Sue added quickly. ‘She wasn’t some emotional vampire who went around feeding off other people’s misery. She was the complete opposite of that. She was so kind, and gracious, and funny. But she always used to say that she found a certain beauty in things that other people might not. You’ll see it repeated throughout that album.’

    “Chúng tôi không muốn để anh có ấn tượng sai về Cate,” Sue nhanh chóng nói thêm. “Con bé không phải là một con ma cà rồng dễ xúc động, đi khắp nơi để sống nhờ trên nỗi đau khổ của người khác. Nó hoàn toàn trái ngược với điều đó. Nó thật tốt bụng, duyên dáng và vui tính. Nhưng nó luôn nói rằng nó tìm thấy một vẻ đẹp nào đó ở những thứ mà người khác có thể không tìm thấy. Anh sẽ thấy điều đó lặp đi lặp lại trong suốt album đó.”

    I started turning pages. More mundane images followed that I assumed had been shot for magazine covers or for websites. But then the mood started to change again. An abandoned railway station, the roof collapsing in on itself, every blade of grass at its front crested by gold light. An old house on the edge of the sea: empty and dark, windows gone, the swell of a wave captured at its rise, almost as if it were about to swallow the house whole. And then a roller-coaster track – almost entirely rusted through – disappearing into the dark of a dilapidated building.

    Tôi bắt đầu lật từng trang. Tiếp theo là những hình ảnh trần tục hơn mà tôi cho rằng đã được chụp cho bìa tạp chí hoặc cho các trang web. Nhưng sau đó tâm trạng lại bắt đầu thay đổi. Một nhà ga bỏ hoang, mái nhà sụp đổ, từng lá cỏ phía trước có ngọn nhuốm ánh sáng vàng. Một ngôi nhà cũ bên bờ biển: trống rỗng và tối tăm, cửa sổ không còn, một cơn sóng dâng lên, gần như thể nó sắp nuốt chửng toàn bộ ngôi nhà. Và rồi một đường ray tàu lượn siêu tốc – gần như rỉ sét hoàn toàn – biến mất trong bóng tối của một tòa nhà đổ nát.

    ‘I know they’re not to everyone’s tastes,’ Martin said.

    “Tôi biết chúng không hợp khẩu vị của mọi người,” Martin nói.

    ‘I think they’re amazing.’

    “Tôi nghĩ chúng thật đáng ngạc nhiên.”

    Both of them seemed surprised – and perhaps it was true, not everyone would find them appealing. But in the time I’d been working missing persons, even before that when I was a journalist, I’d been to many places like this, to forsaken houses, to lost villages, into the darkness of old hospitals and boarded stations. I’d searched for people in them and I’d hunted killers in their shadows, and in all of them I’d found a kind of symmetry. Because, in a way, after the death of my wife, Derryn, these places had echoed my own life: the emptiness I felt, the parts of me I didn’t want to go into.

    Cả hai người họ đều có vẻ ngạc nhiên – và có lẽ đó là sự thật, không phải ai cũng thấy những hình ảnh này hấp dẫn. Nhưng trong thời gian làm việc tìm kiếm những người mất tích, thậm chí trước đó, khi còn là nhà báo, tôi đã đến nhiều nơi như thế này, đến những ngôi nhà bỏ hoang, những ngôi làng mất tích, đi vào bóng tối của những bệnh viện cũ và những trạm kiểm tra tàu. Tôi đã tìm kiếm con người trong chúng và tôi đã săn lùng những kẻ giết người trong hình bóng của chúng, và ở tất cả chúng, tôi đều tìm thấy một kiểu đối xứng. Bởi vì, theo một cách nào đó, sau cái chết của vợ tôi, Derryn, những nơi này đã phản ánh cuộc sống của chính tôi: sự trống rỗng mà tôi cảm nhận được, những phần (đời) của tôi mà tôi không dám đối mặt.

    ‘You must have been so proud of her,’ I said, my gaze still on the last shot of the roller coaster and the building, my thoughts on my own daughter now. Annabel was a teacher down in Devon, and every time we talked on video-call, or I went to visit her, I’d listen to her and think to myself, I’m so lucky to have this.

    “Chắc hẳn bà rất tự hào về cô ấy,” tôi nói, ánh mắt vẫn dán vào tấm ảnh cuối cùng của tàu lượn siêu tốc và tòa nhà, suy nghĩ của tôi bây giờ hướng về con gái của tôi. Annabel là một giáo viên ở Devon, và mỗi lần chúng tôi nói chuyện qua video hoặc đến thăm nó, tôi đều lắng nghe nó nói và tự nghĩ, mình thật may mắn khi có được điều này.

    I’m so lucky to be in this moment with her.

    Tôi thật may mắn khi được ở bên nó trong khoảnh khắc này.

    I looked up at the Clarks, their eyes glimmering even in the shade; they were so proud of their daughter, they could barely even put it into words.

    Tôi ngước nhìn gia đình Clarks, đôi mắt họ lấp lánh ngay cả trong bóng râm; họ rất tự hào về con gái của mình, họ thậm chí không thể diễn tả thành lời.

    But Cate was gone.

    Nhưng Cate đã đi rồi.

    There was no moment to be in any more.

    Không còn khoảnh khắc nào ở đó nữa.

    I turned another page and found a portrait of her and Aiden. Cate had set it up in a hall of mirrors somewhere, and they were both sitting down, cross-legged, their backs to one another, looking into reflections that repeated endlessly.

    Tôi lật sang trang khác và tìm thấy bức chân dung của Cate và Aiden. Cate đã chụp nó ở đâu đó trong một sảnh có gương, và cả hai đang ngồi xếp bằng, quay lưng vào nhau, nhìn vào những hình ảnh phản chiếu trong gương lặp đi lặp lại không ngừng.

    ‘What was Aiden like?’ I asked.

    “Aiden trông như thế nào?” tôi hỏi.

    ‘He was a lovely kid,’ Sue said without any hesitation. ‘Very kind, good-natured. He absolutely worshipped the ground Cate walked on, which made us very happy. She’d have to boss him around sometimes because he was so laid-back’ – both of them were smiling – ‘but I don’t think he minded too much. He was close to his parents, so when they died shortly after one another, he took it really hard. He got very down. But I never had any worries about them: him and Cate, they were always rock solid. They were both creative, both shared the same sort of passion for art, and books, and travel. Most of the time, they were glued at the hip.’

    “Nó là một thằng bé đáng yêu,” Sue nói không chút do dự. “Rất rất tốt bụng. Nó hoàn toàn tôn thờ mặt đất mà Cate bước lên, điều này khiến chúng tôi rất vui. Đôi khi con bé phải ra lệnh cho nó vì nó quá thoải mái” - cả hai đều mỉm cười – “nhưng tôi không nghĩ thằng bé để tâm quá nhiều. Nó rất gần gũi với cha mẹ nó nên khi họ qua đời không lâu sau đó, thằng bé đã rất đau khổ. Nó đã suy sụp rất nhiều. Nhưng tôi chưa bao giờ lo lắng về chúng nó: nó và Cate, chúng luôn vững vàng như đá. Cả hai đều sáng tạo, có chung niềm đam mê với nghệ thuật, sách và du lịch. Hầu hết thời gian, chúng cứ dính vào nhau.”

    ‘So they seemed okay in the days before they disappeared?’

    “Vậy là họ có vẻ rất ổn vào những ngày trước khi mất tích?”

    ‘Yes,’ Sue said. ‘I talked to Cate the day before she went missing and we had a text conversation on the morning of the crash.’

    “Ừ,” Sue nói. “Tôi đã nói chuyện với Cate một ngày trước khi nó mất tích và chúng tôi đã nhắn tin vào buổi sáng xảy ra vụ tai nạn.”

    Sue took out her phone, found the messages and slid it across the table towards me. Their last text exchange was short, perfunctory, a question from Sue about what Cate was up to, a reply about how they were meeting friends in Reigate for dinner. As I scrolled down, I noticed that next to every single reply Cate had ever sent her mum was a red heart: Sue had saved them all.

    Sue lấy điện thoại ra, tìm tin nhắn và đẩy nó qua bàn về phía tôi. Cuộc trao đổi tin nhắn cuối cùng của họ rất ngắn gọn, chiếu lệ, một câu hỏi của Sue về việc Cate định làm, một câu trả lời về việc họ sẽ gặp bạn bè ở Reigate để ăn tối như thế nào. Khi cuộn xuống, tôi nhận thấy bên cạnh mỗi câu trả lời mà Cate từng gửi cho mẹ cô đều có một trái tim màu đỏ: Sue đã lưu tất cả.

    Every message. Every word.

    Mỗi tin nhắn. Mỗi từ.

    ‘I understand their mobiles were in the car?’

    “Tôi hiểu điện thoại di động của họ ở trong xe?”

    ‘What was left of them after the fire, yes,’ Sue said.

    “Ừ, những gì còn sót lại của chúng sau vụ cháy,” Sue nói.

    ‘Wallets, purses?’

    “Ví, còn ví?”

    ‘Fragments of them were in the car too,’ Sue confirmed.

    “Những mảnh vỡ của ví cũng ở trong xe,” Sue xác nhận.

    It seemed highly unlikely any of the bank cards would have been taken out and used over the past two and a half years. The police would have put an alert on both Cate and Aiden’s accounts and any activity on them would immediately have been flagged.

    Có vẻ như rất khó có khả năng thẻ ngân hàng đã bị lấy đi và sử dụng trong hơn hai năm rưỡi qua. Cảnh sát lẽ ra đã đưa ra cảnh báo đối với tài khoản của cả Cate và Aiden và mọi hoạt động trên đó sẽ ngay lập tức được lưu ý.

    I asked if they’d be all right with me downloading the conversations between them and Cate. I didn’t expect to find much, but it needed to be checked off. Mobile phone statements for Cate and Aiden were where my interests really lay, because it would give me an idea of who they were talking to and how often in the days preceding the crash. But there was just as much chance that the phone statements I’d requested would go absolutely nowhere, the same as everything else had in the hunt for answers about the Gascoignes so far.

    Tôi hỏi liệu họ có đồng ý cho tôi tải xuống đoạn hội thoại giữa họ và Cate không. Tôi không mong đợi tìm được gì nhiều, nhưng nó cần phải được kiểm tra. Những cuộc chat trên điện thoại di động của Cate và Aiden là nơi tôi thực sự quan tâm, vì chúng sẽ cho tôi biết họ đã đang nói chuyện với ai và tần suất nói chuyện trong những ngày trước vụ tai nạn. Nhưng cũng có nhiều khả năng là những lời chat qua điện thoại mà tôi yêu cầu sẽ chẳng đi đến đâu, giống như mọi thứ khác đã có trong quá trình tìm kiếm câu trả lời về gia đình Gascoignes cho đến nay.

    At the moment, a lot rested on two major unanswered questions.

    Hiện tại, có rất nhiều vấn đề xoay quanh hai câu hỏi lớn chưa được trả lời.

    One was the cause of the crash. Was it a lapse in concentration by Aiden? Did he take his eyes off the road? Could they have been arguing, or laughing, or distracted? I knew already from media reports that there had been no phone calls to them in the seconds before the accident, but it could have been something that happened outside the car. Maybe the slight bend in the road surprised Aiden, or perhaps an animal ran out in front of them. Police said that, although it was cold, they found no evidence of ice, and – as had been underlined already – there had been no evidence of a mechanical failure in the vehicle either.

    Một là nguyên nhân của vụ tai nạn. Đó có phải là sự mất tập trung của Aiden? Anh ta có rời mắt khỏi đường không? Có thể họ đang tranh cãi, đang cười đùa, hay đang mất tập trung? Tôi đã biết từ các phương tiện truyền thông rằng không có cuộc gọi điện thoại nào cho họ trong vài giây trước khi vụ tai nạn xảy ra, nhưng có thể có chuyện gì đó đã xảy ra bên ngoài xe. Có lẽ con đường ở khúc cua nhẹ khiến Aiden bất ngờ, hoặc có lẽ một con vật nào đó chạy ra trước mặt họ. Cảnh sát cho biết, mặc dù trời lạnh nhưng họ không tìm thấy bằng chứng nào về băng, và - như đã được gạch chân - cũng không có bằng chứng nào cho thấy chiếc xe bị hỏng hóc động cơ.

    Yet something had happened.

    Tuy nhiên, có điều gì đó đã xảy ra.

    One thing I was absolutely certain about was that they didn’t exit the Land Rover in the time between them being captured on CCTV and the point at which the Land Rover came off the road. The timings were set in stone because crash data captured from the car showed the impact happened 11.9 seconds after they passed the camera. That just wasn’t enough time to slow to a halt, get out, push the car to the edge of the ravine – for whatever reason – and then roll it off. And even if they had somehow done that, there was no way that could have resulted in the kind of damage the Land Rover sustained. It was damage that could only have come from leaving the road at thirty-plus miles per hour.

    Một điều tôi hoàn toàn chắc chắn là họ đã không rời khỏi chiếc Land Rover trong khoảng thời gian từ khi được camera quan sát ghi lại cho đến thời điểm chiếc Land Rover lao ra khỏi đường. Thời gian đã được ấn định chắc chắn vì dữ liệu vụ va chạm thu được từ chiếc xe cho thấy vụ va chạm xảy ra 11,9 giây sau khi họ đi qua camera. Khoảng thời gian đó không đủ để dừng lại, lao ra ngoài, đẩy xe vào rìa khe núi - vì bất kỳ lý do gì - rồi lăn xuống. Và ngay cả khi bằng cách nào đó họ đã làm điều đó, thì không đời nào điều đó có thể gây ra kiểu hư hại mà chiếc Land Rover phải gánh chịu. Đó là hư hại chỉ có thể xảy ra khi rời khỏi đường với tốc độ hơn 30 dặm một giờ.

    In the same way, I was pretty dismissive of the idea that they might have leapt from the car as it was moving. Even if the car had only been doing thirty miles per hour, if they leapt from it, they’d probably be travelling about forty feet per second in the air: that meant they’d land like a dead weight at the same speed the car was going – at best, they’d painfully tear skin, twist ankles, maybe suffer a minor fracture or break; at worst, they’d injure themselves so badly it would be impossible for them to even get up off the tarmac. And that didn’t factor in the car itself; in order to get it into the ravine, Aiden would have to direct it that way, and he would have had to have done that at the last minute given the bends in the road. That, in turn, would have given him and Cate almost no time to exit the car.

    Tương tự như vậy, tôi thực sự bác bỏ ý kiến cho rằng họ có thể đã nhảy ra khỏi xe khi nó đang di chuyển. Ngay cả khi chiếc xe chỉ mới chạy được ba mươi dặm một giờ, nếu họ nhảy khỏi nó, họ có thể sẽ bay với tốc độ khoảng 40 feet mỗi giây trên không trung: điều đó có nghĩa là họ sẽ tiếp đất như một vật nặng ở cùng tốc độ với chiếc ô tô - tốt thì họ sẽ bị rách da một cách đau đớn, trẹo mắt cá chân, có thể bị nứt hoặc gãy xương nhẹ; tệ thì chính họ sẽ bị thương nặng đến mức không thể đứng dậy rời khỏi đường nhựa. Và điều đó không ảnh hưởng đến bản thân chiếc xe; để đưa nó vào khe núi, Aiden sẽ phải hướng nó theo cách đó, và anh ấy sẽ phải làm điều đó vào phút cuối vì đường có những khúc cua. Ngược lại, điều đó sẽ khiến anh và Cate gần như không có thời gian để thoát ra khỏi xe.

    So if they were still inside the car when it landed, whatever happened in the ravine happened inside those first two minutes. Because after two minutes, once they’d dialled 999, the witnesses got to the lookout point and were peering down at the burning vehicle. They didn’t take their eyes off the scene until the fire crews and police arrived – and that was when the car was found to be empty. So the Gascoignes had to have crawled, dragged or climbed their way out of the vehicle in the first two minutes, before the witnesses got to the edge of the gully. There was simply no other window of time in which to get out of the car without being seen.

    Vì vậy, nếu họ vẫn còn ở trong xe khi nó rơi xuống đáy vực, thì bất cứ điều gì xảy ra trong khe núi đều xảy ra trong hai phút đầu tiên đó. Bởi vì sau hai phút, khi các nhân chứng quay số 999, thì họ đã đến điểm quan sát và nhìn xuống chiếc xe đang bốc cháy. Họ không rời mắt khỏi hiện trường cho đến khi đội cứu hỏa và cảnh sát đến – và đó là lúc chiếc xe được phát hiện trống rỗng. Vì vậy, gia đình Gascoignes phải bò, lê hoặc leo ra khỏi xe trong hai phút đầu tiên, trước khi các nhân chứng đến được mép rãnh. Đơn giản là không có khoảng thời gian nào khác để ra khỏi xe mà không bị nhìn thấy.

    And that was the second major unanswered question.

    Và đó là câu hỏi lớn thứ hai chưa được trả lời.

    Where did they go?

    Họ đã đi đâu?

    Did they hide in the gully? That would seem hard to do, especially with cops and fire crews at the scene, but until I took a drive out and had a look at the ravine myself, I couldn’t discount it. Did they exit at the other side? That, from some of the photographs I’d seen in newspapers, seemed possible because the opposite bank was much less steep. But with both theories the question was why? Why hide? Why go anywhere at all after the crash? And, even then, how were they in any state to do so?

    Họ có trốn trong rãnh không? Điều đó có vẻ khó thực hiện, đặc biệt là khi có cảnh sát và đội cứu hỏa có mặt tại hiện trường, nhưng cho đến khi tôi lái xe ra ngoài và tận mắt nhìn thấy khe núi, tôi không thể bỏ qua điều đó. Họ có thoát ra ở phía bên kia không? Điều đó, từ một số bức ảnh tôi đã xem trên báo, dường như có thể xảy ra vì bờ đối diện ít dốc hơn nhiều. Nhưng với cả hai lý thuyết, câu hỏi đặt ra là tại sao? Tại sao lại trốn? Tại sao phải đi đâu đó sau vụ tai nạn? Và ngay cả khi đó, làm sao họ có thể làm như vậy ở bất kỳ trạng thái nào?

    ‘You said you wanted to talk to Georgia?’ Sue asked.

    “Anh nói anh muốn nói chuyện với Georgia à?” Sue hỏi.

    ‘Yes,’ I said. ‘She lives in Hounslow, doesn’t she?’

    “Đúng vậy,” tôi nói. “Cô ấy sống ở Hounslow phải không?”

    ‘Yes.’ She pushed a set of keys across the table towards me. ‘These are for Cate’s place. The silver one with the blue dot on it is for the front door, and the alarm code is 0188. I’m sure Georgia would be happy to meet you there if you want.’

    “Ừ.” Bà đẩy một chùm chìa khóa qua bàn về phía tôi. “Chúng là chìa khóa chỗ ở của Cate. Chiếc màu bạc có chấm xanh trên đó dành cho cửa trước và mã báo động là 0188. Tôi chắc chắn Georgia sẽ rất vui được gặp anh ở đó nếu anh muốn.”

    ‘Thank you,’ I said, and made a note of the code.

    “Cảm ơn,” tôi nói và ghi lại mật mã.

    I looked at Sue, at Martin, their expressions anguished now, the searing light of summer making no impact on the sudden pallor of their skin.

    Tôi nhìn Sue, nhìn Martin, vẻ mặt của họ lúc này đều đau khổ, ánh nắng chói chang của mùa hè không ảnh hưởng gì đến làn da tái nhợt đột ngột của họ.

    ‘Georgia’s the one who looks after it for us,’ Sue said softly.

    “Georgia là người trông coi chỗ đó cho chúng tôi,” Sue nhẹ nhàng nói.

    And then she stopped and the rest of the sentence played out on her face.

    Và rồi bà ấy dừng lời và phần còn lại của câu nói hiện lên trên khuôn mặt bà.

    Because we can’t go back to where Cate lived.

    Bởi vì chúng tôi không thể quay lại nơi Cate sống.

    To us, that house is haunted.

    Đối với chúng tôi, ngôi nhà đó bị ma ám.
     
    Chỉnh sửa cuối: 9/4/24
    machine and 72thudo like this.
  14. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Em xin phép các bác hiệu đính lại 2 chỗ ở chương 2:
    1)
    I had my notebook out on the table and my phone recording beside that. Martin and Sue had gathered themselves again, their tears gone for now, the two of them slipping on the same disguises they’d worn every day since Cate vanished – a show of strength that dissolved the moment they were alone again.

    Tôi để cuốn sổ tay của mình trên bàn và chiếc điện thoại ghi âm bên cạnh. Martin và Sue đã ngồi sát lại với nhau, nước mắt của họ giờ đã cạn, cả hai mặc đi mặc lại bộ trang phục mà họ đã mặc vào ngày Cate mất tích – một màn phô diễn lòng kiên cường nhưng sẽ sớm kết thúc khi họ chỉ còn lại một mình mà thôi.

    2)
    ‘Almost nine years,’ Sue replied again, ‘five married.’

    “Gần chín năm,” Sue lại trả lời, “Nhưng kết hôn được năm năm.”

    Em vừa dịch vừa học nên mất tập trung... Em xin lỗi các bác vì sự bất tiện này :)
     
    hathao and machine like this.
  15. machine

    machine Lớp 12

    Góp ý bác @vinaguy lúc nào rảnh bỏ các đoạn tiếng Anh đi, chỉ post các đoạn dịch tiếng Việt thôi :D Chỗ nào cần hiệu đính/giải thích thì thêm đoạn tiếng Anh.
    Cảm ơn các bác đã bỏ công sức dịch tác phẩm này :rose:
     
    hathao, vinaguy and 72thudo like this.
  16. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    Em cám ơn bác đã cho ý kiến nè... Em để cả phần In Lít ở trên là do em muốn xin ý kiến nhận xét của mọi người về dịch thuật, kiểm tra dùm em xem em dịch có sai không. Bỏ nó đi lại sợ mọi người mất thời gian đi tìm nguyên tác để kiểm tra bác ạ. Xem dùm em chứ kẻo lại bẩu: "Ông này dịch tào lao, bịa chuyện" thì chết em chứ bác :">:">:">
    P/S: Em hứa... lúc các bác giúp em dịch xong cuốn này thì sẽ có cuốn epub (gồm cả bìa tiếng Việt luôn - cho nó máu) và lúc đó thì sẽ không còn In Lít nữa và... nếu bác thương em thì làm giúp em epub cuốn này song ngữ cũng được ạ. \:D/\:D/\:D/
     
    machine thích bài này.
  17. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    3
    I got straight on to the motorway and headed south to Gatton Hill. On the way, I called Georgia to set up a time to meet at Cate and Aiden’s house. I hadn’t spoken to her before, but it was clear that her parents had already prepped her because, as soon as I gave her my name, she knew who I was. We didn’t talk for long – she was on a shift at the Marylebone gastropub she worked in – so we quickly agreed on 5 p.m.

    Tôi đi thẳng ra đường cao tốc và hướng về phía nam đến Đồi Gatton. Trên đường đi, tôi gọi điện cho Georgia hẹn gặp ở nhà Cate và Aiden. Tôi chưa từng nói chuyện với cô ấy trước đây, nhưng rõ ràng là bố mẹ cô ấy đã chuẩn bị sẵn sàng cho cô ấy, vì ngay khi tôi cho cô ấy biết tên, cô ấy đã biết tôi là ai. Chúng tôi không nói chuyện lâu - cô ấy đang làm ca tại quán rượu Marylebone - vì vậy chúng tôi nhanh chóng thống nhất vào lúc 5 giờ chiều.

    After that, I dialled an old friend of mine and the source at the Met who was getting me the casework on Cate and Aiden’s disappearance: Ewan Tasker. He’d spent a large proportion of his career working in the NCIS and SOCA – precursors to the National Crime Agency – and much of his supposed retirement shuttling back and forth to the Met, where he had an advisory role, and for twice-weekly meetings at Scotland Yard. We were going to meet at the scene.

    Sau đó, tôi gọi cho một người bạn cũ của tôi ở Met, người đã cung cấp cho tôi hồ sơ về vụ mất tích của Cate và Aiden: Ewan Tasker. Anh ấy đã dành phần lớn sự nghiệp của mình để làm việc tại NCIS và SOCA(*) - tiền thân của Cơ quan Tội phạm Quốc gia - và phần lớn thời gian nghỉ hưu, anh ta thường xuyên lui tới qua lại giữa Met, nơi anh ta giữ vai trò cố vấn và Scotland Yard để dự các cuộc họp định kỳ hai lần một tuần. Chúng tôi dự định gặp nhau ở hiện trường.

    (*) NCIS (National Criminal Intelligence Service) - Cơ quan Tình báo Phòng Chống Tội phạm Quốc gia - Nhiệm vụ của NCIS là thu thập dữ liệu và phân tích thông tin tình báo để cung cấp cái nhìn và thông tin cần thiết cho các lực lượng cảnh sát quốc gia; SOCA (Serious Organised Crime Agency) – Cơ quan Phòng Chống Tội phạm Nguy hiểm có tổ chức – nhiệm vụ là đối phó với tội phạm nghiêm trọng có tổ chức ảnh hưởng đến quốc gia và công dân của Vương quốc Anh - ND.

    I drove the rest of the way in silence, with not even the radio for company, going over everything Martin and Sue had said. They were hurting and they were lost, and I’d seen both those things, on repeat, in every case I’d ever worked. But they also carried a perpetual sense of dislocation that was unique to missing persons searches. They would have received comfort from others, from people who had also had to suddenly and painfully say goodbye to the ones they’d loved – but the warm words, even if well intended, could never recognize the singular nature of a disappearance, where there was no body to bury and no answers. When the person you loved was missing, you didn’t move forward and you didn’t move on. You were on a Ferris wheel that you could never get off.

    Tôi lái xe suốt chặng đường còn lại trong im lặng, thậm chí không có radio đồng hành, ngẫm lại tất cả những gì Martin và Sue đã nói. Họ vừa bị tổn thương và vừa bị mất mát, và tôi đã nhìn thấy cả hai điều đó lặp đi lặp lại trong mọi trường hợp tôi từng xử lý. Nhưng chúng cũng mang theo cảm giác hỗn loạn vĩnh viễn, là đặc trưng của việc tìm kiếm người mất tích. Họ lẽ ra đã nhận được sự an ủi từ những người khác, từ những người cũng đã từng phải chia tay một cách đột ngột và đau đớn với những người họ yêu thương – nhưng những lời nói ấm áp, ngay cả khi có ý tốt, cũng chẳng bao giờ có thể giúp nhận ra được bản chất kỳ quặc của một vụ mất tích, nơi không tìm thấy xác để chôn và nơi không tìm ra câu trả lời. Khi người mà ta yêu thương mất tích, ta không tiến về phía trước và cũng không bước tiếp. Ta như đang ở trên một vòng đu quay mà ta không bao giờ có thể thoát ra được.

    I left the motorway and turned on to the two-lane road that was Gatton Hill. It was quiet, so I slowed a little, wanting to get a sense for the place. I’d seen photos of it online, had been back and forth using Street View, and had pored over newspaper reports and photographs released to the media – but being in a place was different.

    Tôi rời khỏi đường cao tốc và rẽ vào đường hai làn, Gatton Hill. Con đường khá yên tĩnh nên tôi đi chậm lại một chút, muốn cảm nhận về nơi này. Tôi đã xem những bức ảnh về nơi này từ bản đồ trên mạng, đã xem đi xem lại bằng Chế độ Street View (xem phố) và đã nghiền ngẫm các bài báo và những bức ảnh được tung ra trên các phương tiện truyền thông – nhưng khi ra thực tế thì trông khác hẳn.

    It was where the small details were.

    Đó là nơi có đầy đủ những chi tiết nhỏ.

    Straight away there was a gentle gradient to the slope, which then became marginally steeper as it fed into the first of the two bends on the hill. The first bend wasn’t sharp and was signposted in advance, so I doubted it would have presented much of a problem to Aiden, even if he hadn’t been paying full attention. Just before it, I spotted the CCTV camera the Gascoignes had passed ten seconds before the crash. It marked a subtle change in topography: once I was past the camera, the trees started to clot together on one side – the side that the unseen ravine was on – and on the other a high red-mud bank rose up from the tarmac.

    Ngay lập tức, có một con dốc thoai thoải, sau đó trở nên dốc hơn một chút ở khúc cua đầu tiên trong số hai khúc cua trên đồi. Khúc cua đầu tiên không gấp và có biển chỉ dẫn trước, nên tôi nghi ngờ rằng vấn đề phần nhiều là do Aiden, thậm chí anh ấy không chú ý quan sát đầy đủ. Ngay trước đó, tôi phát hiện ra chiếc camera giám sát mà gia đình Gascoignes đã đi qua mười giây trước khi vụ tai nạn xảy ra. Có dấu hiệu về sự thay đổi địa hình nhưng khó nhận ra: khi tôi đi qua camera giám sát, cây cối bắt đầu tụ lại ở một phía - phía mà không thể nhìn thấy khe núi - và phía bên kia là một bờ bùn đỏ cao, nhô lên từ đường nhựa.

    In my head I counted down the ten seconds, assuming that the foliage damaged where the Land Rover had come off the road would have mostly grown back.

    Trong đầu tôi đếm ngược mười giây, giả định rằng những tán lá nơi chiếc Land Rover lao ra khỏi đường bị gãy nát đã mọc lại gần như toàn bộ.

    I was wrong.

    Tôi đã sai.

    The impact point was still obvious, a torn, pronounced hole in a series of vines and branches, and while the tyre marks had mostly washed out of the asphalt, I could still see a very faint echo of them, a pale almost ghostly arc suddenly veering right.

    Điểm va chạm vẫn còn rõ ràng, một lỗ rách rõ ràng trên đám dây leo và cành cây, và trong khi lốp xe gần như đã tạo ra một vệt bong nhựa ra khỏi mặt đường, tôi vẫn có thể nhìn thấy tiếng vọng mong manh, một vòng cung chuyển hướng về phía bên phải mờ mờ ma quái.

    I knew, from my research, that the layby the witnesses had stopped at was five hundred feet further down the hill, so I parked there and returned on foot, following a narrow trail up the edges of the road.

    Theo tìm hiểu của mình, tôi biết rằng địa điểm mà các nhân chứng dừng lại cách xa hơn 500 feet phía dưới ngọn đồi, vì vậy tôi đậu xe ở đó và đi bộ trở lại, men theo một con đường mòn hẹp dọc theo mép đường.

    It was so hot I was already sweating by the time I got back, and as I looked down the sloping carpet of scree, I realized that, although there was little growth here at the edge of the road, there was tons further down. It was tricky to even see the gully clearly; once you cleared the shelf of scree, it was just brush – tangled, dense.

    Khi quay lại, trời nóng đến mức tôi đã vã hết mồ hôi, và khi nhìn xuống con dốc như tấm thảm rải đá dăm, tôi nhận ra rằng, tuy ở lề đường có rất ít cây cối mọc, nhưng ở phía dưới thì lại có vô số. Thật khó để nhìn rõ cái rãnh; một khi ta đã dọn sạch mặt đá dăm, thì nó cũng còn bụi rậm – rối rắm, dày đặc.

    My phone buzzed in my pocket.

    Điện thoại của tôi rung lên trong túi quần.

    Going to be late. Accident on the A23. E

    Sẽ đến trễ. Tai nạn trên đường A23. E

    I texted Ewan Tasker back and asked him how long he thought he might be and, as I waited for a response, weighed up getting down into the ravine.

    Tôi nhắn tin lại cho Ewan Tasker và hỏi liệu anh ấy bị kẹt lại đó bao lâu và trong khi chờ phản hồi, tôi đã cân nhắc việc đi xuống khe núi.

    Tasker replied. He wasn’t sure.

    Tasker đã trả lời. Anh ấy không biết chắc.

    Could be ten minutes. Could be an hour.

    Có thể là mười phút. Có thể là một giờ.

    I let him know I was parked up and going to take a closer look at the scene and then pocketed my phone. Stepping off the road, the ground immediately started to cant and I moved on to the bed of scree. The sun was beating down hard and – even after only a few steps – I could feel sweat streaming down my face and back. Just as bad as the heat was the unreliability of the scree itself; the rocks moved constantly, shifting, my ankles turning and jarring, my whole body lurching as I tried to balance. If I’d ever been willing to believe that Cate and Aiden had, for whatever reason, leapt from their car as it was moving and made a break into the ravine itself to hide, I dispelled it once and for all. The scree was a nightmare. There was no way they’d be able to get down, even uninjured, in the time before the witnesses arrived.

    Tôi báo cho anh ấy biết tôi đã đỗ xe và dự định xem xét kỹ hơn hiện trường, rồi bỏ điện thoại vào túi. Bước ra khỏi đường, mặt đất ngay lập tức bắt đầu nghiêng và tôi di chuyển sang mặt đá dăm. Mặt trời đang chiếu xuống gay gắt và – thậm chí chỉ sau vài bước – tôi có thể cảm thấy mồ hôi chảy dài trên mặt và lưng. Điều tồi tệ không kém sức nóng là độ tin cậy của lớp đá dăm; những hòn đá liên tục dịch chuyển, mắt cá chân tôi xoay tròn và tiếng lạo xạo chói tai, toàn thân tôi lảo đảo khi cố gắng giữ thăng bằng. Nếu tôi đã từng vững tin rằng Cate và Aiden, vì bất cứ lý do gì, đã nhảy khỏi xe để ẩn náu khi xe đang di chuyển và lao vào khe núi, thì giờ ý nghĩ đó đã tan biến đi một lần và mãi mãi. Lớp đá dăm là một cơn ác mộng. Không đời nào họ có thể nhảy xuống được, mà thậm chí không bị thương, trong thời gian trước khi các nhân chứng đến.

    When I reached the bottom, I heaved a sigh of relief and looked back up in the direction I’d come from. I knew that fire crews and police had used ladders to move up and down the scree, and that the brush had been cut down here in order to make access easier. I also knew that a lot of what had existed here had been burned away by the fire, which had helped investigators too. It made me wonder if it was worth coming back with a pair of shears, or a blade, because – as it was right now – it was going to be difficult to get a proper sense for the area where the Land Rover had come to rest; everything that had burned had regrown, the fire just a memory now. Even as I palmed away some of it, pushing at the heavily laden branches hanging down like arms, it made no difference to my sightlines. It was just too dense on the ravine floor.

    Khi tới đáy, tôi thở phào nhẹ nhõm và nhìn lại hướng mình vừa đi qua. Tôi biết rằng đội cứu hỏa và cảnh sát đã sử dụng thang để di chuyển lên xuống trên lớp nền đá dăm, và bụi cây ở đây đã được cắt bỏ để giúp việc tiếp cận dễ dàng hơn. Tôi cũng biết rằng rất nhiều thứ tồn tại ở đây đã bị ngọn lửa thiêu rụi, điều này cũng giúp ích rất nhiều cho các nhà điều tra. Tôi tự hỏi liệu có đáng để quay lại đây với một chiếc kéo hay một lưỡi dao hay không, bởi vì - như hiện tại - sẽ rất khó để có được cảm nhận chính xác về khu vực mà chiếc Land Rover đã rơi xuống và nằm lại; mọi thứ từng bị cháy đã mọc lại, ngọn lửa giờ chỉ còn là ký ức. Ngay cả khi tôi gạt đi một phần của đám lá, đẩy những cành cây trĩu nặng rủ xuống như những cánh tay, cũng không tạo ra sự khác biệt nào cho tầm nhìn cả. Nó quá dày đặc trên nền khe núi.

    There were plenty of pictures online – and, I was assuming, in the casework Ewan Tasker was bringing to me – that chronicled the way the gully had looked that night. And while I would have liked to have had an unobstructed view of the ravine – just to satisfy my curiosity – it was going to be impossible to do so without a major clearing operation.

    Có rất nhiều bức ảnh trên mạng – và tôi cho rằng, trong tài liệu mà Ewan Tasker mang đến cho tôi – đã ghi lại hình dáng của cái rãnh đêm đó. Và mặc dù tôi muốn có một tầm nhìn ra khe núi mà không bị cản trở - chỉ để thỏa mãn sự tò mò của mình - nhưng điều đó sẽ không thể thực hiện được nếu không có một chiến dịch phát quang lớn.

    But the opposite bank was different.

    Nhưng bờ đối diện thì khác.

    I’d hardly seen any pictures of it at all in news reports, but if the car had landed here with the Gascoignes still inside – which I believed to be the case – the opposite bank seemed an obvious place for them to have gone. It was easy to reach, simple to climb, and provided the quickest route out.

    Tôi hầu như không nhìn thấy bất kỳ hình ảnh nào về nó trên các bản tin, nhưng nếu chiếc xe đã rớt xuống ở đây với gia đình Gascoignes vẫn ở bên trong - điều mà tôi tin là như vậy - thì bờ đối diện dường như là nơi hiển nhiên để họ đi. Nó rất dễ tiếp cận, leo lên đơn giản và là cung đường thoát đi nhanh nhất.

    I headed up the bank.

    Tôi ngước lên bờ vực bên kia.

    There were trees all the way up, weaved through with more growth, but – compared to edging my way down the scree – it was a simple ascent. The undergrowth was thick but it wasn’t as unyielding as in the ravine and I could walk it, unhindered.

    Bờ này có nhiều cây cối mọc từ dưới lên trên, phát triển đan xen nhiều hơn, nhưng - so với bờ đá dăm tôi đi xuống - đó chỉ là một tuyến đi lên đơn giản. Những bụi cây lúp xúp rậm rạp nhưng không cứng rắn như trong khe núi và tôi có thể đi lại mà không bị cản trở.

    At the apex of the bank, I stopped and checked my watch. It had taken me fifty seconds to get to the top.

    Đến đỉnh bờ vực bên kia, tôi dừng lại và xem đồng hồ. Tôi phải mất năm mươi giây để lên đến đỉnh.

    Was it realistic to think that Cate and Aiden could both have crawled out of the vehicle in the first sixty to seventy seconds after it hit the ravine? Because, factoring in the fifty seconds it took to climb the bank, that was what would have had to have happened. There was maybe some wriggle room in terms of exactly when the eyewitnesses got to the ravine edge – the two-minute time frame was an estimate by investigators, based on data, 999 calls, CCTV footage and statements – but I doubted it was far off. All of which meant that, even if the Gascoignes really had managed to escape the crushed vehicle inside that time frame, they’d then immediately have had to traverse the gradient of the bank in fifty seconds or less, in order to disappear from view before the witnesses arrived. I just didn’t see it. They’d have been dazed, at worst badly injured, perhaps completely trapped by the malformed vehicle. Plunging ninety feet into a ravine was going to be incredibly traumatic, physically and emotionally. It wasn’t the sort of thing you’d simply shrug off.

    Có thực tế không khi nghĩ rằng Cate và Aiden đều có thể bò ra khỏi xe trong 60 đến 70 giây đầu tiên sau khi xe lao vào khe núi? Bởi vì, nếu tính đến năm mươi giây để leo lên bờ, đó là điều lẽ ra phải xảy ra. Có thể có một vài chỗ khó hiểu về thời điểm chính xác mà các nhân chứng đến được rìa khe núi – khung thời gian hai phút là ước tính của các nhà điều tra, dựa trên dữ liệu, cuộc gọi 999, cảnh quay mà camera giám sát ghi được và báo cáo – nhưng tôi nghi ngờ rằng nó còn rất xa. Tất cả điều đó có nghĩa là, ngay cả khi gia đình Gascoignes thực sự có thể thoát khỏi chiếc xe bị nghiền nát trong khung thời gian đó, thì họ ngay lập tức phải vượt qua bờ dốc trong vòng 50 giây hoặc ít hơn, để biến mất khỏi tầm nhìn trước khi các nhân chứng đến. Tôi chỉ không hiểu một điều. Họ có thể đã bị choáng váng, tệ nhất là bị thương nặng, có lẽ hoàn toàn bị mắc kẹt bởi chiếc xe biến dạng. Rơi xuống khe núi sâu 90 feet sẽ chấn thương nghiêm trọng cả về thể chất lẫn tinh thần. Đó không phải là thứ mà ta đơn giản có thể xem nhẹ.

    And yet …

    Chưa hết…

    From the top of the bank I studied where it went from here.

    Từ trên đỉnh bờ vực này, tôi đã tìm hiểu xem từ đây ta có thể đi tới đâu.

    Dropping away in front of me was another much sharper slope dominated by hundreds of pine trees. It looked like a sustainable forest: the trees were in straight tightly packed rows and, off to the right, I could see piles of timber. In the distance, at the bottom of the slope, it looked like there might be some kind of access road, although it was hard to be sure. The pine trees were so close together they were keeping out the sun, so all I could see was a faint grey trail.

    Rời khỏi đỉnh bờ vực này, trước mắt tôi là một con dốc khác sắc nét hơn nhiều, với hàng trăm cây thông. Nó trông giống như một khu rừng lâu đời: cây cối xếp thành hàng thẳng tắp và ở phía bên phải, tôi có thể nhìn thấy những đống gỗ. Ở phía xa, dưới chân con dốc, hình như có một con đường dẫn vào nơi nào đó, tuy nhiên hơi khó để khẳng định. Những cây thông xếp sát nhau đến nỗi che khuất ánh nắng nên tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ là một vệt xám mờ.

    I followed one row of trees all the way down. It was an access road, a mixture of gravel and mud, coming from my right and snaking off into more trees to my left. There were no signposts anywhere, and when I looked back up the slope – to the top of the bank – I could barely make it out. I must have travelled half a mile, maybe more.

    Tôi đi xuống men theo một hàng cây. Có một con đường sỏi và bùn ngoằn ngoèo dẫn từ bên phải tôi, đi vào khu vực nhiều cây hơn ở bên trái. Không có biển chỉ dẫn ở đâu cả, và khi tôi nhìn lại con dốc – tới đỉnh khe núi – tôi gần như không thể nhìn ra được gì. Chắc tôi đã đi được tầm nửa dặm, hoặc có thể hơn.

    I looked at my watch.

    Tôi nhìn đồng hồ.

    It had taken me six minutes to get down to the access road.

    Tôi phải mất sáu phút mới xuống tới được con đường dẫn này.

    I carried on walking – following the road to the left as it dipped down – further into the woods. Fifteen minutes later, after a couple of switchbacks, I arrived in a car park. It belonged to the Forestry Commission and was off a tree-fringed B-road, with signs for Reigate and Crawley next to the exit gate. I looked for CCTV cameras but there weren’t any, and took in the car park properly. It was empty except for a single green Toyota, an old couple in the front, sharing coffee from a flask.

    Tôi tiếp tục đi bộ – men theo con đường đi xuống bên trái – dẫn sâu hơn vào rừng. Mười lăm phút sau, sau vài lần đi tới đi lui, tôi đã đến một bãi đậu xe. Nó thuộc về Ủy ban Lâm nghiệp và nằm trên mặt đường B rợp bóng cây, có biển báo Reigate và Crawley cạnh lối ra. Tôi đã tìm camera giám sát xung quanh, nhưng không có, và đi thẳng vào bãi đậu xe. Nó trống trơn, ngoại trừ một chiếc Toyota màu xanh lá cây, một cặp vợ chồng già ngồi phía trước, cùng uống cà phê từ một chiếc bình.

    I grabbed my notebook and wrote down 21 minutes from the top of the bank to the car park. It was a mile and a half, maybe a little more, but that would feel a long way with the sort of injuries you might sustain in a major car wreck. Plus, if the Gascoignes came here, why hadn’t there been a sighting of them?

    Tôi lấy cuốn sổ tay ra và viết ‘21 phút từ đỉnh bờ vực đến bãi đậu xe’. Khoảng cách là một dặm rưỡi, có thể hơn một chút, nhưng đó sẽ là một chặng đường dài với những người vừa bị thương trong một vụ tai nạn ô tô nghiêm trọng. Hơn nữa, nếu gia đình Gascoigne đến đây thì tại sao lại không có ai nhìn thấy họ?

    Perhaps no one was parked here that day.

    Có lẽ không có ai đậu xe ở đây vào ngày hôm đó.

    ‘Perhaps,’ I echoed quietly, but – like the timings back at the ravine – it didn’t feel right. They could have left a second car here to pick up, but if they did, if that was the plan, why do something as insanely dangerous as driving the first one off a road into a ravine? Why would anyone choose to make that the starting point for a disappearance?

    “Có lẽ,” tôi âm thầm lặp đi lặp lại, nhưng – so với thời gian quay lại khe núi – tôi cảm thấy có gì đó không ổn. Lẽ nào họ để chiếc xe thứ hai ở đây để đón họ, nhưng nếu họ làm vậy, nếu đó là kế hoạch, tại sao lại làm một việc cực kỳ nguy hiểm như lái chiếc xe đầu tiên lao vào khe núi? Tại sao lại có người chọn kiểu đó làm điểm khởi đầu cho một vụ mất tích?

    It risked failure from the first second.

    Làm vậy thì có nguy cơ thất bại ngay từ những giây đầu tiên.

    I returned the way I’d come and, at the point I joined the access road, walked the other way to see where it went. It ended in an impasse, at a swathe of forest whose trees had been felled. It looked barren and there were no surprises or hiding places.

    Tôi quay lại con đường tôi đã tới và ngay tại điểm nối với con đường dẫn đầy sỏi và bùn lúc nãy, tôi men theo con đường khác để xem nó dẫn tới đâu. Nó là một lối cụt, kết thúc tại một khu rừng có nhiều cây cối bị đốn hạ. Nó trông cằn cỗi và chẳng có điều bất ngờ gì hay nơi ẩn náu nào cả.

    It was simply a dead end.

    Nó chỉ đơn giản là một ngõ cụt.

    I hoped it wasn’t a sign of things to come.

    Tôi hy vọng đây không phải là dấu hiệu của những thứ rồi đây sắp xảy ra.
     
    machine and 72thudo like this.
  18. 72thudo

    72thudo Lớp 3


    2

    “Lần cuối cùng chúng tôi gặp con bé là một tuần trước khi nó mất tích.”

    Tôi để cuốn sổ tay của mình trên bàn và chiếc điện thoại ghi âm bên cạnh. Martin và Sue đã ngồi sát lại với nhau, nước mắt của họ giờ đã cạn, cả hai mặc đi mặc lại bộ trang phục mà họ đã mặc vào ngày Cate mất tích – một màn phô diễn lòng kiên cường nhưng sẽ sớm kết thúc khi họ chỉ còn lại một mình mà thôi.

    “Vậy chúng ta hãy quay trở lại ngày 3 tháng Giêng,” tôi nói.

    Martin gật đầu. “Hai năm, sáu tháng và một ngày.”

    Ông liếc nhìn Sue, nắm lấy tay bà, và bà quay nhìn ông: đối với họ, đây là một câu nói, nhưng mỗi ngày như là một dấu vết khắc lên tường nhà.

    “Ông đã gặp Cate và Aiden vào dịp Giáng sinh à?”

    “Đúng rồi,” Martin nói. “Chúng nó đến ở với chúng tôi vào đêm Giáng sinh và ở đây cho đến thứ Bảy, ngày 28. Georgia cũng đến đây vào ngày Giáng sinh cùng với bạn trai của nó, Will, và cháu gái nhỏ của chúng tôi, Talia. Thật vui.” Ông chớp mắt vài lần. “Ý tôi là, chúng tôi chỉ muốn tất cả chúng nó tới.”

    “Cate và Aiden đã đi đâu sau khi họ rời khỏi đây?”

    “Chúng nó đến nhà một vài người bạn ở gần Bristol để đón năm mới.”

    Tôi hỏi tên của những người bạn để phòng khi cần đến. Cate và Aiden đã trở về London an toàn vào ngày đầu năm mới, còn Aiden đã trở lại làm việc vào hai ngày sau đó tại công ty thiết kế ở Soho, nơi anh ta là giám đốc sáng tạo, vì vậy tôi không mong đợi cuộc điều tra đó có liên quan. Nhưng đây đều là những ô cần được đánh dấu.

    “Cate và Aiden sống ở Twickenham, phải không nhỉ?”

    “Đúng rồi.”

    “Họ đã ở đó bao lâu rồi nhỉ?”

    “Ồ, em sẽ nói gì đây, Sue nhỉ?”

    “Bảy năm,” bà trả lời không chút do dự, rồi mỉm cười, mặc dù hơi buồn, nỗi đau chập chờn thoáng qua. “Mart không phải là người duy nhất có thể nhớ được ngày tháng,” bà nói thêm, cố gắng làm sáng tỏ sự thật rằng đây là thời gian còn lại, nhiều sự kiện hơn trong cuộc đời con gái bà, bà đã đánh dấu trên cùng chính một vách tường đó.

    “Họ đã ở bên nhau bao lâu rồi?”

    “Gần chín năm,” Sue lại trả lời, “Nhưng kết hôn được năm năm.”

    “Họ gặp nhau ở đâu?”

    “Đó là thông qua một số công việc mà Cate đã làm ở công ty của Aiden,” Martin nói, và nhặt vài món đồ lên lần nữa. “Công ty đang lập ra chiến dịch này và cần một vài nhiếp ảnh gia. Aiden tìm thấy Cate trên mạng, chúng nó cùng nhau thực hiện dự án đó – và sau đó Aiden đã mời con bé đi chơi.”

    “Cate là một nhiếp ảnh gia toàn thời gian, đúng không?”

    “Đúng rồi. Nó đã tạo dựng được một sự nghiệp thực sự tốt nhờ công việc đó.”

    “Cô ấy đã chụp những thứ gì?”

    “Chúng tôi sẵn có một số bức ảnh đây nếu anh muốn xem.”

    “Tuyệt vời.”

    Martin nhấc mình ra khỏi ghế và quay đầu vào trong nhà, rồi Sue cũng đứng dậy, đi đến tủ búp phê trong phòng khách, mang ra thêm nhiều bức ảnh. Tuy nhiên, không có bức ảnh nào được chụp một cách chuyên nghiệp, và không có bức ảnh nào được Cate chụp. Tất cả chúng đều do Martin và Sue chụp.

    Tất cả mớ hình đều là của con gái họ.

    Tôi đã xem ảnh của cả Cate và Aiden. Họ là một cặp đôi dễ coi, cả hai đều đã ba mươi tám tuổi vào thời điểm mất tích: Cate cao, nước da trắng với một nốt ruồi đẹp phía trên cung môi trái; Aiden là người lực lưỡng, đầu cạo trọc, có râu, mắt nâu, da màu ô liu. Tôi đã biết rằng cả cha lẫn mẹ anh ta đều đã chết, anh ta là con một, cha anh ta là người Ireland và mẹ là người Thổ Nhĩ Kỳ.

    Tôi tiếp tục xem qua các bức ảnh. Chúng dường như thể hiện đầy đủ hầu hết cả chín năm Cate và Aiden đã ở bên nhau, nhưng cũng có những bức ảnh chụp Cate với chị gái Georgia - cô ấy trông giống Martin hơn nhiều, trong khi Cate là hình tượng của Sue.

    Khi Martin trở lại hàng hiên với những cuốn album nặng trĩu và mở cuốn đầu tiên ra, ông ấy và Sue nghiêng người tới gần những bức chân dung được dán bên trong. Tôi quan sát hai người họ: cả hai đều có vẻ cân đối và khỏe mạnh, làn da rám nắng nhẹ do thời tiết nắng nóng kéo dài, quần áo lịch sự, hàng hiệu. Sue mặc một chiếc váy cotton màu xanh đậm và đeo một sợi dây chuyền vàng mỏng ở cổ với một nửa trái tim làm mặt dây chuyền. Không giống như chồng bà, người đã rụng gần hết tóc - và phần tóc còn lại có màu bạc - tóc của bà dày, màu vàng mật ong, được cắt theo phong cách hiện đại giúp cho phần tóc mái ngang trán của bà dài hơn ở một bên khuôn mặt. Tôi tự hỏi liệu việc bà ấy và Cate giống nhau về mặt thể chất có khiến họ gặp khó khăn hơn không.

    Đối với Martin, vì mỗi ngày ông đều có thể nhìn thấy tiếng vọng của Cate trong vợ mình.

    Đối với Sue, vì những tiếng vọng đó đã được khắc sâu vào trong tâm trí bà.

    “Đây là một số việc con bé từng làm,” Martin nói và đẩy tập album qua bàn về phía tôi. Bây giờ khuôn mặt ông ấy có vẻ nhăn nhó, và ngay khi nhìn thấy trang đầu tiên của cuốn album thứ nhất, tôi đã hiểu tại sao.

    Đó là bức ảnh chụp một vụ tai nạn trực thăng.

    Địa điểm này gần như đã được dọn sạch nhưng một vài đống đổ nát vẫn còn sót lại, có lẽ vì nó nằm trong một vực sâu hẹp giữa hai vách đá dựng đứng. Phía sau là những đỉnh núi lởm chởm, một vài đỉnh núi phủ tuyết và bên dưới có một dòng chữ viết tay: ‘Mảnh vỡ Pt 1’ – Beinn Sionneach, Scotland, tháng 10 năm 2015. Tôi lật trang và ở trang tiếp theo là hai bức ảnh nữa, mỗi bức là một biến thể của bức đầu tiên. ‘Mảnh vở Pt 2’ được chụp một tháng sau đó, lần này là dưới bầu trời trong xanh; toàn bộ sự kinh hoàng của vụ tai nạn – góc cháy sém của cánh quạt, buồng lái bị nghiền nát, cháy đen, phần đuôi bị gãy – khó có thể rời mắt. Thật khó để nói rõ quy mô của sự tàn phá, và mức độ hoàn hảo của khung cảnh trong vực thẳm. Tôi không muốn nghĩ nó đẹp đẽ, bởi vì mọi người có lẽ đã chết - và đúng vậy. Có điều gì đó về bức ảnh, cả bức thứ ba cũng vậy, gần như bị thôi miên: 'Mảnh vỡ Pt 3' đã được chụp khoảng một tháng sau đó và vụ tai nạn dường như lại biến đổi, lúc này một lớp tuyết dày che giấu phần tồi tệ nhất của nó, chỉ thỉnh thoảng có những thanh kim loại cong queo vươn ra.

    Sue mím môi, dán mắt vào những bức ảnh, trong khi Martin rót thêm cho mình chút nước đá. “Mọi chuyện không phải như vậy,” Sue nói. “Con bé chụp rất nhiều thứ khác – nhưng nó luôn nói rằng nó bị cuốn hút vào sự bi thảm. Trên thực tế, một trong những cuộc triển lãm của nó thực sự được gọi như thế. Chà, ‘Bi kịch, U sầu’.”

    “Cô ấy đã triển lãm ở đâu?” Tôi hỏi.

    “Một phòng trưng bày ở London,” Martin trả lời. “Chúng tôi có thể cung cấp địa chỉ cho anh nếu anh cần. Con bé cũng làm rất nhiều việc cho các hãng ảnh, đưa tin về các tin tức sự kiện lớn, nhưng những việc nó làm cho chính mình mới là niềm đam mê thực sự của nó.”

    “Chúng tôi không muốn để anh có ấn tượng sai về Cate,” Sue nhanh chóng nói thêm. “Con bé không phải là một con ma cà rồng dễ xúc động, đi khắp nơi để sống nhờ trên nỗi đau khổ của người khác. Nó hoàn toàn trái ngược với điều đó. Nó thật tốt bụng, duyên dáng và vui tính. Nhưng nó luôn nói rằng nó tìm thấy một vẻ đẹp nào đó ở những thứ mà người khác có thể không tìm thấy. Anh sẽ thấy điều đó lặp đi lặp lại trong suốt album đó.”

    Tôi bắt đầu lật từng trang. Tiếp theo là những hình ảnh trần tục hơn mà tôi cho rằng đã được chụp cho bìa tạp chí hoặc cho các trang web. Nhưng sau đó tâm trạng lại bắt đầu thay đổi. Một nhà ga bỏ hoang, mái nhà sụp đổ, từng lá cỏ phía trước có ngọn nhuốm ánh sáng vàng. Một ngôi nhà cũ bên bờ biển: trống rỗng và tối tăm, cửa sổ không còn, một cơn sóng dâng lên, gần như thể nó sắp nuốt chửng toàn bộ ngôi nhà. Và rồi một đường ray tàu lượn siêu tốc – gần như rỉ sét hoàn toàn – biến mất trong bóng tối của một tòa nhà đổ nát.

    “Tôi biết chúng không hợp khẩu vị của mọi người,” Martin nói.

    “Tôi nghĩ chúng thật đáng ngạc nhiên.”

    Cả hai người họ đều có vẻ ngạc nhiên – và có lẽ đó là sự thật, không phải ai cũng thấy những hình ảnh này hấp dẫn. Nhưng trong thời gian làm việc tìm kiếm những người mất tích, thậm chí trước đó, khi còn là nhà báo, tôi đã đến nhiều nơi như thế này, đến những ngôi nhà bỏ hoang, những ngôi làng mất tích, đi vào bóng tối của những bệnh viện cũ và những trạm kiểm tra tàu. Tôi đã tìm kiếm con người trong chúng và tôi đã săn lùng những kẻ giết người trong hình bóng của chúng, và ở tất cả chúng, tôi đều tìm thấy một kiểu đối xứng. Bởi vì, theo một cách nào đó, sau cái chết của vợ tôi, Derryn, những nơi này đã phản ánh cuộc sống của chính tôi: sự trống rỗng mà tôi cảm nhận được, những phần (đời) của tôi mà tôi không dám đối mặt.

    “Chắc hẳn bà rất tự hào về cô ấy,” tôi nói, ánh mắt vẫn dán vào tấm ảnh cuối cùng của tàu lượn siêu tốc và tòa nhà, suy nghĩ của tôi bây giờ hướng về con gái của tôi. Annabel là một giáo viên ở Devon, và mỗi lần chúng tôi nói chuyện qua video hoặc đến thăm nó, tôi đều lắng nghe nó nói và tự nghĩ, mình thật may mắn khi có được điều này.

    Tôi thật may mắn khi được ở bên nó trong khoảnh khắc này.

    Tôi ngước nhìn gia đình Clarks, đôi mắt họ lấp lánh ngay cả trong bóng râm; họ rất tự hào về con gái của mình, họ thậm chí không thể diễn tả thành lời.

    Nhưng Cate đã đi rồi.

    Không còn khoảnh khắc nào ở đó nữa.

    Tôi lật sang trang khác và tìm thấy bức chân dung của Cate và Aiden. Cate đã chụp nó ở đâu đó trong một sảnh có gương, và cả hai đang ngồi xếp bằng, quay lưng vào nhau, nhìn vào những hình ảnh phản chiếu trong gương lặp đi lặp lại không ngừng.

    “Aiden trông như thế nào?” tôi hỏi.

    “Nó là một thằng bé đáng yêu,” Sue nói không chút do dự. “Rất rất tốt bụng. Nó hoàn toàn tôn thờ mặt đất mà Cate bước lên, điều này khiến chúng tôi rất vui. Đôi khi con bé phải ra lệnh cho nó vì nó quá thoải mái” - cả hai đều mỉm cười – “nhưng tôi không nghĩ thằng bé để tâm quá nhiều. Nó rất gần gũi với cha mẹ nó nên khi họ qua đời không lâu sau đó, thằng bé đã rất đau khổ. Nó đã suy sụp rất nhiều. Nhưng tôi chưa bao giờ lo lắng về chúng nó: nó và Cate, chúng luôn vững vàng như đá. Cả hai đều sáng tạo, có chung niềm đam mê với nghệ thuật, sách và du lịch. Hầu hết thời gian, chúng cứ dính vào nhau.”

    “Vậy là họ có vẻ rất ổn vào những ngày trước khi mất tích?”

    “Ừ,” Sue nói. “Tôi đã nói chuyện với Cate một ngày trước khi nó mất tích và chúng tôi đã nhắn tin vào buổi sáng xảy ra vụ tai nạn.”

    Sue lấy điện thoại ra, tìm tin nhắn và đẩy nó qua bàn về phía tôi. Cuộc trao đổi tin nhắn cuối cùng của họ rất ngắn gọn, chiếu lệ, một câu hỏi của Sue về việc Cate định làm, một câu trả lời về việc họ sẽ gặp bạn bè ở Reigate để ăn tối như thế nào. Khi cuộn xuống, tôi nhận thấy bên cạnh mỗi câu trả lời mà Cate từng gửi cho mẹ cô đều có một trái tim màu đỏ: Sue đã lưu tất cả.

    Mỗi tin nhắn. Mỗi từ.

    “Tôi hiểu điện thoại di động của họ ở trong xe?”

    “Ừ, những gì còn sót lại của chúng sau vụ cháy,” Sue nói.

    “Ví, còn ví?”

    “Những mảnh vỡ của ví cũng ở trong xe,” Sue xác nhận.

    Có vẻ như rất khó có khả năng thẻ ngân hàng đã bị lấy đi và sử dụng trong hơn hai năm rưỡi qua. Cảnh sát lẽ ra đã đưa ra cảnh báo đối với tài khoản của cả Cate và Aiden và mọi hoạt động trên đó sẽ ngay lập tức được lưu ý.

    Tôi hỏi liệu họ có đồng ý cho tôi tải xuống đoạn hội thoại giữa họ và Cate không. Tôi không mong đợi tìm được gì nhiều, nhưng nó cần phải được kiểm tra. Những cuộc chat trên điện thoại di động của Cate và Aiden là nơi tôi thực sự quan tâm, vì chúng sẽ cho tôi biết họ đã đang nói chuyện với ai và tần suất nói chuyện trong những ngày trước vụ tai nạn. Nhưng cũng có nhiều khả năng là những lời chat qua điện thoại mà tôi yêu cầu sẽ chẳng đi đến đâu, giống như mọi thứ khác đã có trong quá trình tìm kiếm câu trả lời về gia đình Gascoignes cho đến nay.

    Hiện tại, có rất nhiều vấn đề xoay quanh hai câu hỏi lớn chưa được trả lời.

    Một là nguyên nhân của vụ tai nạn. Đó có phải là sự mất tập trung của Aiden? Anh ta có rời mắt khỏi đường không? Có thể họ đang tranh cãi, đang cười đùa, hay đang mất tập trung? Tôi đã biết từ các phương tiện truyền thông rằng không có cuộc gọi điện thoại nào cho họ trong vài giây trước khi vụ tai nạn xảy ra, nhưng có thể có chuyện gì đó đã xảy ra bên ngoài xe. Có lẽ con đường ở khúc cua nhẹ khiến Aiden bất ngờ, hoặc có lẽ một con vật nào đó chạy ra trước mặt họ. Cảnh sát cho biết, mặc dù trời lạnh nhưng họ không tìm thấy bằng chứng nào về băng, và - như đã được gạch chân - cũng không có bằng chứng nào cho thấy chiếc xe bị hỏng hóc động cơ.

    Tuy nhiên, có điều gì đó đã xảy ra.

    Một điều tôi hoàn toàn chắc chắn là họ đã không rời khỏi chiếc Land Rover trong khoảng thời gian từ khi được camera quan sát ghi lại cho đến thời điểm chiếc Land Rover lao ra khỏi đường. Thời gian đã được ấn định chắc chắn vì dữ liệu vụ va chạm thu được từ chiếc xe cho thấy vụ va chạm xảy ra 11,9 giây sau khi họ đi qua camera. Khoảng thời gian đó không đủ để dừng lại, lao ra ngoài, đẩy xe vào rìa khe núi - vì bất kỳ lý do gì - rồi lăn xuống. Và ngay cả khi bằng cách nào đó họ đã làm điều đó, thì không đời nào điều đó có thể gây ra kiểu hư hại mà chiếc Land Rover phải gánh chịu. Đó là hư hại chỉ có thể xảy ra khi rời khỏi đường với tốc độ hơn 30 dặm một giờ.

    Tương tự như vậy, tôi thực sự bác bỏ ý kiến cho rằng họ có thể đã nhảy ra khỏi xe khi nó đang di chuyển. Ngay cả khi chiếc xe chỉ mới chạy được ba mươi dặm một giờ, nếu họ nhảy khỏi nó, họ có thể sẽ bay với tốc độ khoảng 40 feet mỗi giây trên không trung: điều đó có nghĩa là họ sẽ tiếp đất như một vật nặng ở cùng tốc độ với chiếc ô tô - tốt thì họ sẽ bị rách da một cách đau đớn, trẹo mắt cá chân, có thể bị nứt hoặc gãy xương nhẹ; tệ thì chính họ sẽ bị thương nặng đến mức không thể đứng dậy rời khỏi đường nhựa. Và điều đó không ảnh hưởng đến bản thân chiếc xe; để đưa nó vào khe núi, Aiden sẽ phải hướng nó theo cách đó, và anh ấy sẽ phải làm điều đó vào phút cuối vì đường có những khúc cua. Ngược lại, điều đó sẽ khiến anh và Cate gần như không có thời gian để thoát ra khỏi xe.

    Vì vậy, nếu họ vẫn còn ở trong xe khi nó rơi xuống đáy vực, thì bất cứ điều gì xảy ra trong khe núi đều xảy ra trong hai phút đầu tiên đó. Bởi vì sau hai phút, khi các nhân chứng quay số 999, thì họ đã đến điểm quan sát và nhìn xuống chiếc xe đang bốc cháy. Họ không rời mắt khỏi hiện trường cho đến khi đội cứu hỏa và cảnh sát đến – và đó là lúc chiếc xe được phát hiện trống rỗng. Vì vậy, gia đình Gascoignes phải bò, lê hoặc leo ra khỏi xe trong hai phút đầu tiên, trước khi các nhân chứng đến được mép rãnh. Đơn giản là không có khoảng thời gian nào khác để ra khỏi xe mà không bị nhìn thấy.

    Và đó là câu hỏi lớn thứ hai chưa được trả lời.

    Họ đã đi đâu?

    Họ có trốn trong rãnh không? Điều đó có vẻ khó thực hiện, đặc biệt là khi có cảnh sát và đội cứu hỏa có mặt tại hiện trường, nhưng cho đến khi tôi lái xe ra ngoài và tận mắt nhìn thấy khe núi, tôi không thể bỏ qua điều đó. Họ có thoát ra ở phía bên kia không? Điều đó, từ một số bức ảnh tôi đã xem trên báo, dường như có thể xảy ra vì bờ đối diện ít dốc hơn nhiều. Nhưng với cả hai lý thuyết, câu hỏi đặt ra là tại sao? Tại sao lại trốn? Tại sao phải đi đâu đó sau vụ tai nạn? Và ngay cả khi đó, làm sao họ có thể làm như vậy ở bất kỳ trạng thái nào?

    “Anh nói anh muốn nói chuyện với Georgia à?” Sue hỏi.

    “Đúng vậy,” tôi nói. “Cô ấy sống ở Hounslow phải không?”

    “Ừ.” Bà đẩy một chùm chìa khóa qua bàn về phía tôi. “Chúng là chìa khóa chỗ ở của Cate. Chiếc màu bạc có chấm xanh trên đó dành cho cửa trước và mã báo động là 0188. Tôi chắc chắn Georgia sẽ rất vui được gặp anh ở đó nếu anh muốn.”

    “Cảm ơn,” tôi nói và ghi lại mật mã.

    Tôi nhìn Sue, nhìn Martin, vẻ mặt của họ lúc này đều đau khổ, ánh nắng chói chang của mùa hè không ảnh hưởng gì đến làn da tái nhợt đột ngột của họ.

    “Georgia là người trông coi chỗ đó cho chúng tôi,” Sue nhẹ nhàng nói.

    Và rồi bà ấy dừng lời và phần còn lại của câu nói hiện lên trên khuôn mặt bà.

    Bởi vì chúng tôi không thể quay lại nơi Cate sống.

    Đối với chúng tôi, ngôi nhà đó bị ma ám.



    by @ VINAGUY
     
    machine thích bài này.
  19. vinaguy

    vinaguy Lớp 11

    4

    When I got back to the ravine, I could see Ewan Tasker waiting for me at the lookout. He waved but didn’t attempt to come down: he was six-three and sixteen stone, but he was also seventy-three and, although he was in good health, he wasn’t about to put it all on the line by negotiating his way down a carpet of scree.

    Khi quay lại khe núi, tôi đã thấy Ewan Tasker đang đợi tôi ở trạm quan sát. Anh vẫy tay nhưng không cố leo xuống: anh cao sáu foot ba và nặng mười sáu stone(*), nhưng anh đã bảy mươi ba tuổi, và mặc dù sức khỏe tốt nhưng anh không muốn mạo hiểm bằng cách lần mò đi xuống trên một lớp đá dăm lởm chởm.

    (*) 1 foot = 0,3048m; 1 inch = 2,54cm; 1 stone = 6,4kg. Vậy người đàn ông này cao tầm 191cm và nặng khoảng 102,4kg - ND.

    I took some photographs of the ravine floor, trying to push back some of the brush in an attempt at clearer shots, and then started the climb back up to the road. It wasn’t quite as arduous as coming down, but by the time I got to the top, the sweat was pouring off me and I had cuts on my shin, forearm and hand where one of the loose rocks had tilted and taken me with it.

    Tôi chụp một số bức ảnh về đáy khe núi, cố gắng vén các bụi cây để chụp được những bức ảnh rõ hơn, rồi bắt đầu leo ngược lên trở lại con đường. Nó không quá khó khăn như việc đi xuống, nhưng khi lên đến đỉnh, mồ hôi chảy ròng ròng và tôi bị những vết cắt ở ống chân, cẳng tay và bàn tay, do một trong những hòn đá lỏng lẻo đã nghiêng đi và làm tôi trượt chân theo.

    Tasker said hello to me. I pointed to his blue tailored shorts and boat shoes and said, ‘What time do you set sail?’

    Tasker chào tôi. Tôi chỉ vào chiếc quần soóc được cắt may màu xanh lam và đôi giày thuyền của anh ấy và nói, “Anh khởi hành lúc mấy giờ?”

    He laughed. ‘Cheeky bastard.’

    Anh cười nói. “Đồ bố láo.”

    We embraced. Not only had it been a while since we’d seen each other in the flesh, but Tasker was also my best friend. He’d started out as a source back when I’d been a journalist, and now he was so much more than that I sometimes forgot that was the way things had begun for us. After Derryn died, Tasker had been immense, the person who’d been there for me when it was darkest.

    Chúng tôi ôm nhau. Không chỉ vì đã lâu chúng tôi không gặp mà Tasker còn là bạn thân nhất của tôi. Anh ấy đã khởi nghiệp là một tay săn tin khi tôi còn là nhà báo, và bây giờ anh ấy còn làm nhiều thứ hơn thế nữa, đôi khi tôi quên mất mọi thứ bắt đầu với chúng tôi là thông qua cách này. Sau khi Derryn qua đời, Tasker thật tốt, là người đã ở gần tôi những lúc đen tối nhất.

    In his hands was a brown A4 envelope. He passed it to me and then looked down through the trees to the bottom of the gully. ‘Looks like you should have brought your machete.’

    Trên tay anh là một phong bì A4 màu nâu. Anh đưa nó cho tôi rồi nhìn xuống đáy khe qua hàng cây. “Có vẻ như ông bạn nên mang theo dao rựa.”

    ‘It’s like the Amazon down there now,’ I said, peeling the flap on the envelope and sliding out the file. It was eighty pages, all black-and-white printouts except for a colour section at the back featuring photographs. ‘I really appreciate this, Task.’

    “Dưới đó bây giờ giống như rừng Amazon vậy,” tôi vừa nói, vừa bóc phong bì và trượt tập hồ sơ ra ngoài. Đó là tập tài liệu tám mươi trang, tất cả đều là bản in đen trắng ngoại trừ những bức ảnh màu mô tả ở phía sau. “Tôi thực sự đánh giá cao điều này, anh Task ạ.”

    ‘As always –’

    “Như mọi khi thôi –”

    ‘I didn’t get it from you.’

    “Tôi đã không nhận được chúng từ anh.”

    His eyes were still on the ravine. ‘So they really just disappeared?’

    Mắt anh vẫn dán vào khe núi. “Vậy là họ thực sự đã mất tích?”

    I looked down into the gully myself. ‘Their car comes off the road, hits the bottom of the ravine on its roof. Two minutes later, there are two eyewitnesses standing in exactly this spot here. Pretty soon after that, it all goes up in flames.’ I leafed through the file again, trying to find a timeline of events. ‘It says here the response time was nine minutes, forty-three seconds and, by the time the fire crew arrived, the Land Rover was an inferno. The eyewitnesses told investigators the vehicle had “been on fire for approximately eight minutes”.’

    Tôi tự mình nhìn xuống khe núi. “Xe của họ lao ra khỏi đường, rơi xuống, nóc xe chạm đáy khe núi. Hai phút sau, có hai nhân chứng đứng ở đúng vị trí này đây. Chẳng bao lâu sau đó, tất cả đều bùng cháy.” Tôi lật lại tập hồ sơ một lần nữa, cố gắng tìm ra dòng thời gian của các sự kiện. “Ở đây hồ sơ nói rằng thời gian ghi nhận là chín phút bốn mươi ba giây và vào thời điểm đội cứu hỏa đến, chiếc Land Rover đã trở thành một địa ngục. Các nhân chứng nói với các nhà điều tra rằng chiếc xe đã “cháy trong khoảng 8 phút”.

    ‘Was that backed up by the FSI?’

    “Vụ này có được FSI hỗ trợ không?”

    The FSI was the fire scene investigator, who worked in conjunction with the SIO from Thames Valley Police, the forensic teams and the fire crews to establish exactly what had happened and why. I flipped back a couple of pages, trying to find the answer. ‘Here we go. The FSI found the witnesses statements to be “accurate”.’

    FSI là điều tra viên hiện trường vụ cháy, người đã làm việc cùng với SIO(*) từ Sở Cảnh sát Thung lũng Thames, đội pháp y và đội cứu hỏa để xác định chính xác điều gì đã xảy ra và tại sao. Tôi lật lại vài trang để tìm câu trả lời. “Chúng ta bắt đầu thôi. FSI nhận thấy lời khai của nhân chứng là ‘chính xác’.”

    (*) SIO (Senior Investigating Officer) – Nhân viên điều tra tội phạm cao cấp - SIO chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo đội ngũ điều tra, đưa ra các quyết định quan trọng và đảm bảo rằng cuộc điều tra được tiến hành một cách hiệu quả và đúng đắn - ND.

    Tasker waved a hand at the ravine. ‘You can discount any idea of your couple somehow climbing out of the car after the fire crew arrived. They didn’t hide out down there and evade every fireman, copper and forensic technician at the scene. I mean, those things sound ridiculous even before you consider the fact that – in order to do any of that – they’d have had to have crawled out of a burning wreck.’

    Tasker vẫy tay ở phía khe núi. “Ông bạn hãy loại bỏ ngay cái ý tưởng rằng bằng cách nào đó cặp đôi mà ông bạn đang tìm kiếm đã trèo ra khỏi xe sau khi đội cứu hỏa đến đi. Họ đã không trốn ở dưới đó và lẩn tránh lính cứu hỏa, cảnh sát và kỹ thuật viên pháp y có mặt tại hiện trường đâu. Ý tôi là, những điều đó nghe có vẻ nực cười, ngay cả trước khi ông bạn xem xét thực tế rằng - để làm được điều đó - họ phải bò ra khỏi cái xác xe đang cháy kia.”

    ‘It had to have happened in that first two minutes,’ I said. ‘Thing I can’t figure out, though – or one of the things – is how. It would have required them to basically have sustained no serious injuries at all, and to be lucid enough to have instigated an immediate escape. And even if that was the plan – to vanish, I mean – there are about a million easier ways of setting it up than veering off the edge of a sheer drop.’

    “Việc đó hẳn phải xảy ra trong hai phút đầu tiên,” tôi nói. “Tuy nhiên, đó là điều tôi không thể chỉ ra được là bằng cách nào. Về cơ bản, việc rời khỏi xe đòi hỏi họ phải không bị thương nặng gì cả và phải đủ tỉnh táo để chủ động trốn thoát ngay lập tức. Và ngay cả nếu đó là kế hoạch – ý tôi là bỏ trốn – vẫn có hàng triệu cách dễ dàng hơn để chọn thay vì rẽ vào bờ vực và rơi thẳng xuống.”

    ‘Any blood found around the car?’

    “Có vết máu nào xung quanh xe không?”

    ‘I don’t know,’ I said, holding up the file. ‘I’ll need to check. But if there was, if there was some convenient trail leading away from the scene, I seriously doubt we’d be standing here two and a half years later still trying to work out where they went.’

    “Tôi không biết,” tôi vừa nói, vừa giơ tập hồ sơ lên. “Tôi cần phải kiểm tra đã. Nếu có một lối mòn thuận tiện nào đó dẫn ra khỏi hiện trường, thì tôi thực sự nghi ngờ việc chúng ta đứng đây sau hai năm rưỡi để cố tìm xem họ đã đi đâu.”

    Tasker nodded.

    Tasker gật đầu.

    I briefly went through all the reasons why I didn’t think it was possible that the Gascoignes could have exited the car before it left the road, and then, reluctantly, said, ‘Of course there might be something else that I need to face up to.’

    Tôi tóm tắt ngắn gọn tất cả các lý do tại sao tôi không nghĩ rằng có khả năng gia đình Gascoignes đã ra khỏi xe trước khi nó rời khỏi đường, rồi miễn cưỡng nói: “Tất nhiên có thể có điều gì khác mà tôi cần phải xem xét.”

    Tasker looked at me. ‘What’s that?’

    Tasker nhìn tôi. “Điều gì đây?”

    ‘The eyewitnesses.’ I glanced at the file in my hands. ‘The only account of what went on in that ravine during those first eleven minutes is provided by them.’

    “Những nhân chứng.” Tôi liếc nhìn tập hồ sơ trên tay. “Bản tường thuật duy nhất về những gì diễn ra trong khe núi trong mười một phút đầu tiên là do họ cung cấp.’

    We both stood there for a moment, silent.

    Cả hai chúng tôi đứng đó trong lặng im một lúc.

    ‘What if they were lying?’

    “Nếu họ nói dối thì sao?”
    Hết chương 4​
     
    Chỉnh sửa cuối: 11/4/24
    72thudo thích bài này.
  20. vinaguy

    vinaguy Lớp 11


    5

    I went to a local pub for a proper catch-up with Tasker and then drove back up the motorway towards Twickenham, where Cate and Aiden had lived.

    Tôi đến một quán rượu địa phương để gặp riêng Tasker, và rồi lái xe ngược lên đường cao tốc về hướng Twickenham, nơi Cate và Aiden đã sống.

    It was still a couple of hours before I was due to meet Georgia at the house, so I found a parking space and headed to a coffee shop on King Street. The temperature hadn’t eased even a fraction, so I decided against sitting outside and found a space inside in a corner booth at the back, got out my laptop and connected to the Wi-Fi.

    Vẫn còn vài giờ đồng hồ nữa mới đến lúc gặp Georgia ở nhà gia đình Gascoignes, nên tôi tìm một chỗ đậu xe và đi đến một quán cà phê trên phố King. Nhiệt độ không giảm tí nào dù chỉ là một phần mấy độ, vì vậy tôi quyết định không ngồi bên ngoài và tìm một chỗ trống bên trong góc ở phía sau gian hàng, lấy máy tính xách tay ra và kết nối Wi-Fi.

    I laid the file for the crash investigation out on the table.

    Tôi đặt hồ sơ điều tra vụ tai nạn lên bàn.

    Much of what I read – although covered in greater detail, down to things like paint flakes from the car and precise angles of impact – matched what I already knew, which at least proved that Martin and Sue’s recall of events was reliable, and that the media had reported the facts as they were. But that also meant that I was adding little new to the overall picture.

    Phần lớn những gì tôi đọc – được trình bày chi tiết hơn, từ những thứ như vết sơn của chiếc xe đến góc va chạm chính xác – khớp với những gì tôi đã biết, điều này ít nhất chứng minh rằng việc Martin và Sue nhớ lại các sự kiện là đáng tin cậy, và rằng phương tiện truyền thông đã đưa tin đúng sự thật. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là tôi chỉ có thêm được một tí tẹo mới mẻ để bổ sung vào bức tranh tổng thể mà thôi.

    I found mobile phone records included for both Cate and Aiden, as well as for their landline, but they only went back a month, to 1 December, and I always liked to go back further. I’d requested two additional months – the October and November before the accident – through another source of mine, but was still waiting on those, so for now I concentrated on what I had and looked for anomalies.

    Tôi tìm thấy dữ liệu điện thoại di động và cố định của cả Cate và Aiden, nhưng dữ liệu chỉ lưu lại được từ một tháng trước đó, đến ngày 1 tháng 12, và tôi thì lại muốn có dữ liệu nhiều hơn. Do đó, tôi đã yêu cầu thêm hai tháng – tháng 10 và tháng 11 trước khi xảy ra tai nạn – thông qua một nguồn tin khác, nhưng vẫn đang chờ người ta gửi tới, vì vậy bây giờ tôi tập trung vào những gì đang có và tìm kiếm những điểm bất thường trong đó.

    I searched for frequently dialled numbers, recurrent incoming calls, calls at odd times of the day and night, but nothing stood out. I double-checked for calls made in the thirty minutes before the crash too, and – just as had been stated in the media – there hadn’t been any. I hadn’t expected the crash to have been caused by Aiden trying to take an incoming call, but now I had my proof.

    Tôi tìm kiếm những số điện thoại thường xuyên gọi, những cuộc gọi đến định kỳ, những cuộc gọi vào những thời điểm bất thường trong ngày và đêm, nhưng chẳng được gì nhiều. Tôi cũng đã kiểm tra vài lần các cuộc gọi được thực hiện trong vòng 30 phút trước khi vụ tai nạn xảy ra, và – đúng như báo chí đã đưa tin – không hề có cuộc gọi nào cả. Tôi không mong vụ tai nạn xảy ra là do Aiden đang nhận một cuộc gọi đến, nhưng giờ tôi đã có bằng chứng rõ ràng.

    I paused on a photo of Cate and Aiden at her parents, the Christmas before they disappeared. Alongside the picture was a note from one of the investigators, listing some of the possible motivations for why one or both of the Gascoignes might have organized their own disappearance. It was a pretty standard list: money issues, although bank statements contradicted that theory; and domestic problems, of which there was no evidence either. Martin and Sue certainly didn’t paint a picture of Cate and Aiden having had a turbulent, unpredictable marriage, and even if they had, it was more likely that only one of them would vanish in those circumstances – after all, it wasn’t much of an escape from a spouse if the spouse came with you.

    Tôi dừng lại ở bức ảnh Cate và Aiden chụp cùng bố mẹ cô ấy vào dịp Giáng sinh trước khi họ mất tích. Bên cạnh bức ảnh có một ghi chú của một điều tra viên, liệt kê một số động cơ phù hợp nhằm giải thích lý do tại sao một hoặc cả hai người của gia đình Gascoignes có thể đã tự bày ra vụ mất tích này. Đó là một danh sách khá chuẩn: các vấn đề về tiền bạc, mặc dù các báo cáo ngân hàng mâu thuẫn với lý do này; và các trục trặc trong gia đình, mà cũng không có bằng chứng nào cả. Martin và Sue chắc chắn không vẽ nên bức tranh về Cate và Aiden có một cuộc hôn nhân đầy sóng gió, khó lường, và ngay cả nếu họ có làm vậy thì nhiều khả năng chỉ có một trong hai người họ sẽ mất tích trong hoàn cảnh đó - xét cho cùng thì không thể như vậy, khi một trong hai người muốn trốn thoát mà lại đi cùng với vợ hoặc chồng mình.

    As well as theories about why they might have disappeared, the investigators also worked through ideas of how, and then where, Cate and Aiden might have gone.

    Ngoài các giả thuyết về lý do tại sao họ có thể mất tích, các nhà điều tra cũng nghiên cứu các ý tưởng về cách thức và địa điểm mà Cate và Aiden có thể áp dụng để đi.

    All of it went nowhere.

    Tất cả đều chẳng đi đến đâu cả.

    The police, like me, dismissed the concept of them finding a hiding spot in the ravine somewhere and watching the whole thing play out: the way the fire had burned, its radius and ferocity, and the number of emergency services personnel in the gully at the time made it impossible for two people to find cover and not be noticed. They had also, like me, walked the pines beyond the ravine, even going as far as drawing a map of the area, with all the trails, including the one that eventually led to the car park. Again, they couldn’t definitively dismiss the idea of Cate and Aiden making it to the car park, but – considering everything – it seemed unlikely.

    Cảnh sát, cũng như tôi, bác bỏ quan điểm cho rằng họ tìm một nơi nào đó để ẩn náu trong khe núi và theo dõi toàn bộ sự việc đang diễn ra: cách ngọn lửa bùng cháy, bán kính và mức độ tàn khốc của nó, cũng như số lượng nhân viên dịch vụ cứu hộ trong khe núi, lúc khiến hai người họ không thể tìm chỗ ẩn nấp và khi họ không bị để ý. Họ cũng giống như tôi, đã lội bộ trong đám thông bên kia khe núi, thậm chí còn đi xa đến mức như đi để vẽ bản đồ khu vực, với tất cả các con đường mòn, bao gồm cả con đường mà cuối cùng dẫn đến bãi đậu xe. Một lần nữa, cảnh sát không thể bác bỏ dứt khoát ý tưởng Cate và Aiden đã đến bãi đậu xe, nhưng - xét một cách tổng thể - điều đó có vẻ khó xảy ra.

    The police spoke to three separate experts – a fire scene investigator with over twenty years in the service; a two-decade veteran of crash scene investigations; and then a trauma specialist from the Royal London Hospital – and their basic overview was pretty similar: Cate and Aiden would probably have been severely injured. More likely, the trauma specialist commented, ‘we’re talking spinal injuries and neurological damage, both of which impair rapid, lucid decision-making.’

    Cảnh sát đã trao đổi với ba chuyên gia độc lập – một điều tra viên hiện trường vụ cháy với hơn 20 năm kinh nghiệm trong nghề; một người có kinh nghiệm hai thập kỷ điều tra hiện trường tai nạn; và sau đó là một chuyên gia chấn thương từ Bệnh viện Hoàng gia Luân Đôn - và cơ bản quan điểm của họ khá thống nhất: Cate và Aiden có thể đã bị thương nặng. Nhiều khả năng hơn, chuyên gia chấn thương nhận xét, “chúng ta đang nói đến chấn thương cột sống và tổn thương thần kinh, cả hai loại chấn thương này đều làm suy giảm khả năng đưa ra quyết định nhanh chóng và sáng suốt.”

    I flicked through to the witness statements.

    Tôi lướt qua lời khai của nhân chứng.

    As my eyes lingered on the names of Zoe Simmons and Audrey Calvert, I thought back to what I’d asked Tasker earlier: what if they were lying?

    Khi mắt tôi đang dán vào những cái tên của Zoe Simmons và Audrey Calvert, tôi nghĩ lại những gì tôi đã hỏi Tasker trước đó: nếu họ nói dối thì sao?

    I read Simmons’s statement first: she’d approached from the north, seen a piece of the Land Rover’s bumper, and, when she slowed some more, saw the tear in the greenery where the car had gone off the road. She told police she didn’t really know the area, she lived in Horsham and was coming back from visiting friends in Croydon. Given that she had no record and no red flags, and that what she’d said in her interview tallied with indisputable evidence like surveillance footage, it was easy enough to see why the cops had trusted her account of that day. Of course, they trusted it because they saw no reason for her to lie.

    Đầu tiên tôi đọc lời khai của Simmons: cô ấy đi tới từ phía bắc, nhìn thấy một mảnh cản của chiếc Land Rover, và khi cô ấy chạy chậm hơn một chút, cô ấy đã nhìn thấy vết thủng trên đám cây xanh nơi chiếc xe lao ra khỏi đường. Cô ấy nói với cảnh sát rằng cô ấy không thực sự biết vùng này, cô ấy sống ở Horsham và đang trở về sau khi đi thăm bạn bè ở Croydon. Cho rằng cô ấy không có tiền án tiền sự và không có dấu hiệu đáng ngờ, và rằng những gì cô ấy nói trong cuộc phỏng vấn đều có bằng chứng không thể chối cãi, như thước phim giám sát, thật dễ dàng để hiểu tại sao cảnh sát lại tin tưởng vào lời khai của cô ấy vào ngày hôm đó. Tất nhiên, họ tin tưởng vì họ thấy không có lý do gì để cô ấy nói dối.

    Audrey Calvert’s statement mirrored Simmons’s closely.

    Lời khai của Audrey Calvert phản ánh chặt chẽ thêm cho lời khai của Simmons.

    Sixty-one, she had a grown-up son, was retired and lived in Streatham. She told police that she’d been to see an old friend for lunch, who lived close to Gatwick Airport – so her route home, via Gatton Hill, made sense. I couldn’t find anything at all online for Audrey Calvert, but Zoe Simmons I found quickly and easily: like most kids her age, her life was played out on social media. It looked like she had Instagram and TikTok accounts, and there may well have been other apps she was using, but for now I scrolled through her wall of photographs.

    Sáu mươi mốt tuổi, bà có một con trai đã lớn, đã nghỉ hưu và sống ở Streatham. Bà ấy khai với cảnh sát rằng bà đến gặp một người bạn cũ để ăn trưa, người sống gần Sân bay Gatwick – vì vậy lộ trình về nhà của bà, qua Gatton Hill, là hợp lý. Tôi không thể tìm thấy bất cứ điều gì trên mạng về Audrey Calvert, nhưng tôi đã dễ dàng và nhanh chóng tìm thấy Zoe Simmons: giống như hầu hết những bạn bè đồng trang lứa, cuộc sống của cô ấy diễn ra trên mạng xã hội. Có vẻ như cô ấy có tài khoản Instagram và TikTok, đồng thời có thể cô ấy cũng đang sử dụng những ứng dụng khác, nhưng hiện tại tôi đang lướt xem những tấm ảnh trong trang cá nhân của cô ấy.

    Almost immediately, I noticed something.

    Gần như ngay lập tức, tôi nhận thấy có điều gì đó.

    Before the accident, her Instagram was absolutely full of pictures of her, her mates, parties, pub gardens, memes, the life of a young woman in her late teens and early twenties playing out on repeat. She was posting something at least twice every week. But after the date Cate and Aiden disappeared, it all stopped.

    Trước khi xảy ra tai nạn, Instagram của cô ấy tràn ngập hình ảnh của chính cô, của bạn bè, các bữa tiệc, khu vườn trong quán rượu, meme(*), cuộc sống cứ lặp đi lặp lại của một cô gái trẻ ở độ tuổi cuối thiếu niên và đầu đôi mươi. Ít nhất hai lần mỗi tuần cô ấy đều đăng một cái gì đó. Nhưng sau ngày Cate và Aiden mất tích, mọi chuyện đã dừng lại.

    (*) Meme là từ viết tắt của “Mimeme” trong tiếng Hy Lạp; trong ngôn ngữ phổ thông, meme thường được hiểu là một hình ảnh trên Internet, thường được chỉnh sửa, sao chép và lưu hành trực tuyến, được dùng để giải thích sự lan truyền các ý niệm và hiện tượng văn hóa trong cộng đồng mạng - ND.

    I checked her posts again just to be sure.

    Để cho chắc chắn, tôi đã kiểm tra lại các bài đăng của cô ấy lần nữa.

    But I was right.

    Nhưng tôi đã đúng.

    Before the accident two and a half years ago, she’d posted three hundred and forty-six photographs over a period of thirty-four months. That was ten every month.

    Trước vụ tai nạn cách đây hai năm rưỡi, cô đã đăng 346 bức ảnh trong khoảng thời gian 34 tháng. Bình quân mười tấm mỗi tháng.

    Since the accident, she’d posted nothing.

    Kể từ sau vụ tai nạn, cô ấy không đăng gì cả.

    Not one single picture.

    Không hề đăng một bức ảnh nào cả.

    Hết Chương 5​
     
    machine and 72thudo like this.

Chia sẻ trang này