1. Click vào đây để xem chi tiết

Hoàn thành R Cover of night (Màn đêm) - Linda Howard

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi halucky, 27/2/15.

  1. halucky

    halucky Lớp 11

    Chương 6(halucky)

    CATE LỘT BỎ HOÀN TOÀN CHIẾC GIƯỜNG TRONG CĂN PHÒNG SỐ 3. Tháo ra cả chăn đắp và tấm phủ đệm. Cô dự định giặt mọi thứ. Ông Layton có lẽ chưa chết, nhưng cô nghi ngờ khả năng đó, nên cô thấy hơi ghê ghê dùng lại chiếc giường mà không giặt tất cả vải phủ, từ trên xuống dưới. Vị khách hàng tiếp theo sẽ không biết, nhưng cô thì có.

    Mẹ cô đưa hai cậu bé đi dã ngoại, nên ngôi nhà một lần nữa được yên tĩnh. Họ chỉ đi xa một phần tư dặm, tới cái bàn bên ngoài trời mà Neenah Dase đã kê dưới một thân cây to trong sân sau nhà bà, nhưng với bọn trẻ chúng được tham gia vào một chuyến phiêu lưu cực kỳ quan trọng, Cate quan sát từ cửa sổ khi họ bước xuống con đường chính của Trail Stop, mẹ cô xách một giỏ đựng bánh sandwich phết bơ đậu phộng và mứt, cùng nước chanh, hai cậu bé lăng xăng xung quanh bà trong niềm phấn khích điên cuồng. Mỗi bước bà đi, chúng cần ít nhất năm bước, nhảy lò cò, nhảy chân sáo, rồi phóng đi xa xem xét một con côn trùng, một hòn đá, hay một chiếc lá, rồi quay trở về bên bà ngoại của mình giống như những vệ tinh bay quanh một hành tinh. Cate hy vọng chúng ngoan ngoãn và thấm mệt khi về nhà; kể từ khi mẹ cô đến, chúng đã quá háo hức, cô ngờ rằng mẹ cô đã sẵn sàng cho một quãng thời gian không ồn ào giống như bản thân cô.

    Cuộc gọi cô nhận từ Dịch vụ cho thuê ô tô quốc gia khiến cô cảm thấy hơi lo lắng cũng như một chút phiền muộn. Phiền muộn bởi vì cuộc gọi chỉ xác nhận ông Layton đang mất tích và giờ cô cảm thấy thật tệ khi bị làm phiền quá nhiều khi ông ta không trở về đúng lịch. Còn lo âu… cô không thể xác định rõ nguyên nhân. Có lẽ là toàn bộ tình huống này; cô chưa từng có một vị khách mất tích trước đây, nên cô có một cảm giác ngày càng lớn lên rằng bất cứ chuyện gì xảy đến với ông Layton, nó đều không tốt.

    Cho rằng mình nên làm, cô bèn gọi tới văn phòng cảnh trưởng lần nữa thông báo về cuộc điện thoại mình vừa nhận. Cô được nối máy tới điều tra viên lúc trước, Seth Marburg. Với tất cả hiểu biết của cô, ông ta là điều tra viên duy nhất của hạt.

    “Tôi biết mình đang gây phiền phức,” cô xin lỗi, rồi giải thích về cuộc gọi. “Ông ấy không chỉ không quay về ngày hôm qua, ông ấy cũng không quay lại nơi thuê ô tô. Đại lý cho thuê xe gọi đến đây hỏi xin nói chuyện với ông ấy, vì ông ấy không đưa xe về. Ông có tìm thấy gì không?”

    “Không được gì. Ông ấy không được thông báo gặp tai nạn, và không có bất kỳ nạn nhân nào không rõ danh tính. Bạn bè hay gia đình ông ấy cũng không thông báo mất tích. Bà nói ông ấy để lại quần áo của mình à? Còn gì nữa không?”

    “Nó thực sự chỉ là một bộ quần áo dự phòng. Vài đồ lót và bít tất, dao cạo dùng một lần, ít đồ vệ sinh cá nhân. Và một túi ni lông mua hàng từ Wal-Mart. Tôi không rõ có gì trong đó.”

    “Có vẻ như ông ấy không để lại thứ gì quan trọng.”

    “Đúng thế, không có gì trông quan trọng.”

    “Bà Nightingale, tôi biết bà lo lắng, nhưng không có tên tội phạm nào bị tống giam và không có bằng chứng cho thấy ông Layton gặp tai nạn. Thỉnh thoảng mọi người chỉ đi xa, không có lý do rõ ràng. Bà có số thẻ tín dụng của ông ấy, nên ông ấy không thể trốn thanh toán hóa đơn, đúng không?”

    “Đúng vậy.”

    “Ông ấy rời đi bằng chính hơi sức của mình. Ông ấy không bận tâm trả phòng, để lại vài thứ không quan trọng. Chúng tôi sẽ tiếp tục kiểm tra vị trí dễ xảy ra tai nạn nhất trên tuyến đường, nhưng trong tất cả, khả năng lớn nhất ông ấy chỉ là - bỏ đi.”

    Không nhìn thấy Marbury, nhưng Cate biết ông ấy nhún vai. “Còn về chiếc ô tô ông ấy đã thuê?”

    “Đó là chuyện giữa ông ấy và đại lý cho thuê. Chiếc xe không bị thông báo mất cắp, nên chúng tôi không thể làm gì với chuyện đó.”

    Cô nói lời cảm ơn và gác máy. Không có sự trợ giúp nào ở đó; như Marburg đã chỉ ra, không tên tội phạm nào bị tống giam. Nếu ông Layton có gia đình, hoặc ông vẫn giữ liên lạc với họ hoặc họ chưa nghe tin gì về ông, nên ông ta vẫn chưa được thông báo mất tích chính thức. Ông ta chỉ biến mất.

    Có thể cô lo lắng hơi quá về vấn đề này. Có thể ông Layton không sao, ông ấy đơn giản không bận tâm quay lại lấy vài món đồ cá nhân mà mình bỏ lại.

    Cô cân nhắc lại chuỗi các sự kiện. Sáng hôm qua ông ta đi nhanh xuống gác, ngay khi nhận ra phòng ăn đầy người, ông lùi lại khỏi cửa ra vào và quay trở lại phòng. Khoảng giữa lúc đó và khi cô lên gác, kiểm tra cặp sinh đôi, ông trèo ra ngoài qua cửa sổ phòng ngủ của mình, lái xe đi.

    Ban đầu cô đơn giản nghĩ rằng ông ta không muốn ăn cùng người lạ, nhưng với cách thức ra đi của ông và thực tế ông ta không quay lại, giờ đây cô tự hỏi lẽ nào ông ta nhận ra ai đó trong phòng ăn mà không muốn để họ biết mình ở đây. Sáng hôm qua bận rộn một cách bất thường, người lạ duy nhất cô có thể nhớ là khách hàng của ông Joshua Creed – cô không nhớ nổi tên ông ta. Liệu ông Layton có quen ông ta? Nếu ông ta đơn giản muốn tránh mặt người đàn ông – cô không thể đổ lỗi cho ông về chuyện đó – sao ông không ở lại phòng mình cho tới khi Creed và khách hàng của mình rời đi?

    Cách giải thích đó ít nhất khiến cô thấy khá hơn, vì xem xét nó theo cách ấy làm cho nó có vẻ nhiều khả năng ông Layton thực hiện chính xác như Marbury nghĩ, đơn giản bỏ đi mà không thèm mang theo đồ dùng cá nhân. Nếu ông ta muốn tránh cái gã đàn ông kia tới mức đủ để trèo ra ngoài qua cửa sổ và lẻn đi, thì việc để lại đồ đạc chẳng làm phiền ông tí nào.

    Nhưng tại sao ông ta không đem trả chiếc ô tô đã thuê, nếu không ở Boise thì ít nhất ở thị trấn nào khác nơi Dịch vụ cho thuê xe quốc gia có một văn phòng nhỉ? Cate thường không phải một người đa nghi, nhưng Trail Stop không chính xác là một điểm đến được ưa chuộng nhất trong tiểu bang; nếu ai đó ông Layton muốn tránh mặt đã theo ông tới đây, người đó, một cách hợp lý, đã phát hiện ra ông ta đã thuê một ô tô và nơi ông ta đang đến. Mặc tất cả các điều luật chống lại các kiểu rò rỉ thông tin, nhưng thông tin vẫn được mua và bán mỗi ngày, và rất nhiều giao dịch đó đang phản đối các điều luật. Vì vậy, ông Layton phải biết chiếc xe là một trở ngại; nếu ông ta muốn tiếp tục tránh mặt ai đó đang theo sau mình, chắc chắn ông sẽ muốn thoát khỏi nó. Có lẽ ông ta đậu xe đâu đó rồi đi bộ, vì điều đó có vẻ là cách thức ông ta làm, ông ta chỉ phải giải quyết bất kỳ chi phí phát sinh nào bằng cách đính kèm nó vào hóa đơn thẻ tín dụng –

    Thứ gì đó điều tra viên của hạt đã nói réo lên trong đầu cô. Cô đã thanh toán được bằng thẻ tín dụng của Layton, nên ông ta không chạy trốn đâu. Áp dụng tình huống tương tự với đại lý cho thuê ô tô; thực tế, cô không cho rằng ai đó thuê được xe mà không có thẻ tín dụng. Vậy tại sao đại lý cho thuê xe đang cố gắng lần theo dấu của ông Layton? Chuyện đó có khác thường không? Cô không rõ điều khoản giao kèo của họ là gì, nhưng một người biết suy luận sẽ nghĩ họ chỉ giữ được cách thanh toán không dùng thẻ tín dụng của ông ta trong ít nhất một vài ngày.

    Với sự thôi thúc, cô kiểm tra nhân dạng người gọi tới, và cau mày khi cô đọc “tên không xác định, số không xác định.” Thật bất tiện. Mà kể từ khi nào một doanh nghiệp lại chặn hiển thị số điện thoại của mình thế? Không chỉ vậy, người gọi cũng giấu tên. Tuy nhiên, cô cho rằng mình nên bám theo những gì điều tra viên đã nói.

    Cô gọi tới Tổng đài, lấy được số của dịch vụ cho thuê xe, rồi chờ đợi kết nối tự động. Ở hồi chuông thứ hai, một giọng nữ cất lên, “Dịch vụ cho thuê xe quốc gia, đây là Melanie. Tôi có thể giúp gì cho bạn?”

    “Ai đó từ công ty của cô gọi tới cho tôi cách đây ít phút về một trong những vị khách của tôi,” Cate nói, “Jeffrey Layton. Ông Layton không quay lại trả xe ngày hôm qua nên người đó cố gắng hỏi thăm dấu tích của ông ấy. Tôi xin lỗi, nhưng người đàn ông đã gọi cho tôi không nói tên ông ấy.”

    “Ai đó ở đây gọi hỏi về … Bà nói ông ấy tên gì nhỉ?”

    “Layton. Jeffrey Layton.” Cate đánh vần nó cho cô, mặc dù cái tên có vẻ đủ phổ biến.

    “Một người đàn ông gọi cho bà?”

    “Đúng vậy.”

    “Tôi xin lỗi, ma’am, nhưng chỉ có phụ nữ làm việc ở đây cả ngày. Bà có chắc ông ấy gọi tới từ địa điểm này?”

    “Không, tôi không chắc,” Cate thừa nhận, ước gì mình nghĩ ra điều để hỏi. “tên và số gọi đến bị khóa trên máy hiển thị cuộc gọi, nên tôi cho rằng nó được thực hiện tại văn phòng ở sân bay Boise.”

    “Số gọi tới bị giấu ư? Chuyện đó không bình thường. Để tôi kiểm tra hồ sơ về ông Layton.”

    Cate nghe tiếng bàn phím máy tính đang gõ. Một khoảng chờ ngắn, rồi tiếng gõ tiếp. Người phụ nữ nói, “Là J-e-f-f-r-e-y-L-a-y-t-o-n đúng không? Có chữ đầu viết tắt tên đệm không?”

    “Không, không có chữ viết tắt tên đệm.”

    Cate chắc chắn về chuyện đó, vì cô đã xác minh thẻ căn cước của ông ta trước khi chấp nhận thẻ tín dụng. Cô đã lưu ý về việc thiếu tên đệm hay chữ viết tắt, và ông Layton đã mỉm cười khi giải thích rằng mình không có tên đệm.

    “Thời điểm mà ông ấy đã thuê phương tiện từ chỗ chúng tôi à? Tôi không có gì dưới cái tên này đâu.”

    “Tôi thực sự không rõ nữa,” Cate nói chậm rãi, thu nhận thông tin đó. “Tôi có ấn tượng rằng ông Layton chỉ vừa mới tới Idaho, nhưng có thể tôi nhầm.”

    “Tôi xin lỗi, tôi không làm sáng tỏ được điều gì. Ông ấy không nằm trong hệ thống của chúng tôi.”

    “Không, là lỗi của tôi. Tôi hẳn đã hiểu lầm tên công ty,” Cate trả lời, cám ơn người phụ nữ và gác máy. Cate chỉ lịch sự vì cô không nhầm lẫn; cô biết chính xác điều người gọi tới đã nói – và ông ta rõ ràng đã nói dối về việc thuộc dịch vụ cho thuê xe quốc gia. Thậm chí cặp sinh đôi cũng có thể đoán ra ông ta đang cố gắng tìm Jeffrey Layton, người phải liên quan tới chuyện gì đó bẩn thỉu, người thực sự đã lái xe bỏ đi và để lại đồ đạc cá nhân.

    Cô rất tò mò về chuyện gì đang diễn ra, nhưng trên hết cô vô cùng nhẹ nhõm rằng ông Layton có khả năng còn sống ở nơi nào đó, không phải chết dần chết mòn dưới đáy một hẻm núi. Cô cảm thấy tốt hơn, không còn phiền muộn về ông.

    Sau khi tung đống vải trải giường bẩn ra ngoài hành lang, cô hút và phủi bụi, dọn dẹp nhà tắm, sắp xếp lại chiếc giường với chăn và ga phủ sạch. Rồi cô lấy bộ đồ dự phòng ra khỏi tủ, gấp gọn gàng trước khi xếp vào va li mà ông Layton đã bỏ lại. Cái túi ni lông mua hàng Wal-Mart kêu sột soạt khi cô chuyển nó sang một bên lấy chỗ cho bộ quần áo, cô nhìn nó với nhiều hơn một chút tò mò.

    “Nếu ông không muốn tôi xem nó, ông không nên bỏ nó lại,” cô lẩm bẩm với sự vắng mặt của ông Layton, tóm lấy cái túi, dùng móng tay tháo các nút thắt mà ông ta đã buộc hai quai xách. Nút thắt giãn lỏng, cô kéo cái túi mở ra, ngó vào bên trong.

    Một chiếc di động TracFone bị tháo rời nằm trong túi. Không có biên lai đi kèm, nên cô không biết có phải ông ta mua di động gần đây và chỉ để nó lại trong túi, hay ông ta cất nó trong túi để bảo vệ nó, tránh trường hợp va li bị ướt khi chất hàng lên máy bay. Mặt khác, hầu hết mọi người giữ di động bên họ, đâu để trong va li của mình.

    Cô cho rằng, ông ta đã mang di động bên mình cho tới khi đến đây, và nhận ra không có sóng, bởi vậy chẳng có lý do gì mang nó theo, cất nó vào trong túi hơn là bỏ nó quăng quật bên ngoài.

    Cate, trong hoàn cảnh bình thường, không vào phòng của khách từ thời điểm họ đăng kí cho tới khi trả phòng – trừ vài người yêu cầu cô dọn dẹp giường và nhà tắm mỗi ngày – nhưng ông Layton không có lý do gì tin tưởng nơi cô vì ông không biết cô.

    Kiểm tra lại tủ để đồ, cô tìm thấy một đôi giày wingtip màu đen (kiểu giày có phần nối mũi giày hình đôi cánh) mà cô đã bỏ qua lúc trước, cô đút đôi giày vào trong túi ni lông và thêm vào va li. Trong phòng tắm, cô đặt tất cả đồ dùng nhà tắm vào trong túi da Dopp Kit, kéo khóa, cố gắng nhét vào va li bên cạnh đôi giày. Dù vậy, va li là loại nhỏ, nên túi da đơn giản không vừa.

    Ông Layton phải có hơn một cái va li, cô nghĩ, và để cái kia lại trong ô tô qua đêm. Cô đã nhìn thấy hành lý của ông khi ông vào đăng kí, lúc đó ông chỉ mang theo một túi này. Vì tài sản để lại không vừa va li, thế nghĩa là ông ta quay lại ô tô và lấy ra thứ gì đó khỏi va li kia – hoặc túi da Dopp Kit hoặc đôi giày. Theo cách suy luận đó, cô nhận ra, ông ta không để lại tất cả tài sản của mình, chỉ bỏ lại những đồ không quan trọng , thứ mà ông ta không thể mang theo cùng. Sau tất cả, ông ta có thể đóng gói va li, tuồn nó qua cửa sổ, rồi lấy nó khi đã xuống tới mặt đất. Ông ta không có thời gian, nên cô nghi ngờ ông ta sẽ bận tâm quay lại vì những đồ mình bỏ rơi.

    Điều đó dẫn tới câu hỏi cô phải làm gì với nó. Cô nên giữ va li trong bao lâu? Một tháng? Hay một năm? Cô ý định cất nó trên gác mái, nó không có vẻ sẽ làm trở ngại, vì kể từ khi Derek mất đi, cô đã dày vò bản thân với nhiều kịch bản giả định. Nếu cô không tống khứ cái va li, vài năm nữa có chuyện xảy đến với cô? Bất cứ ai đi qua những đồ đạc trên gác mái sẽ nhìn thấy cái va li này với một bộ quần áo đàn ông hoàn chỉnh, nên nhận định thường tình sẽ là, chúng thuộc về Derek, cô giữ chúng vì lý do tình cảm. Điều logic nhất tiếp theo của việc giữ lại cái va li cùng những thứ trong đó sẽ liên quan tới cặp sinh đôi, cô không muốn con trai mình nhầm lẫn đi quý trọng những món đồ của một người lạ mặt ngu ngốc, kẻ đã để mình vướng vào rắc rối rồi biến mất.

    Chỉ trừ trường hợp, cô lấy một tờ giấy văn phòng phẩm với tiêu đề nhà nghỉ B&B trên nó, thứ mà cô đặt ở tất cả các phòng, và nhanh chóng viết tên ông Layton, ngày tháng, cùng thông tin về các đồ ông ta để lại, rồi nhét tờ giấy vào trong va li. Nếu chuyện xấu nhất xảy ra và cô bị giết, điều này sẽ giải thích tất cả.

    Cô không thường là một người hay lo lắng, nhưng đó là trước khi cô trở thành, chỉ một quãng thời gian ngắn, một người mẹ và rồi một góa phụ. Những điều tồi tệ vẫn xảy ra đấy. Cô đã từ bỏ leo núi ngay khi biết mình mang thai, mặc dù cô khao khát leo núi hơn cả Derek, cô không đắn đo quay trở lại với môn thể thao, vì bây giờ cô có những đứa con để nuôi nấng. Chuyện gì xảy ra với chúng nếu cô bị một cú ngã và qua đời? Ồ, tất nhiên cô biết chúng sẽ được chăm sóc tốt; gia đình cô sẽ lo liệu chuyện đó, cũng như gia đình Derek dù họ không gần gũi với bọn trẻ như cô mong muốn. Nhưng còn về mặt cảm xúc của cặp sinh đôi thì sao? Chúng sẽ lớn lên với cảm giác bị cha mẹ bỏ rơi, và không sự hợp lý nào đủ bù đắp những đòi hỏi bản năng của chúng.

    Vậy nên cô phải đề phòng, tránh xa hành vi nguy hiểm, nhưng cô không thể bù lại bàn tay của số phận: tai nạn xảy ra. Và sẽ không có chuyện cô để con mình nghĩ rằng đồ của Jeffrey Layton thuộc về cha chúng. Hơn nữa, Derek có khẩu vị khá hơn về quần áo.

    Mỉm cười với ý nghĩ, cô nhấc va li trong một tay và túi da Dopp Kit trong tay kia mang chúng ra hành lang, rồi đặt xuống. Cô vào phòng mình lấy chìa khóa cầu thang gác mái.

    Vì không muốn bọn trẻ tự lên gác, cô khóa cửa lại và cất chìa khóa trong túi trang điểm, thứ được cất trong ngăn kéo trong phòng tắm. Trên đường vào phòng tắm cô đi qua tủ để đồ, trên nóc đặt vài khung ảnh. Cô dừng lại, đột nhiên hoảng hốt, nhìn chăm chú vào những khung ảnh đã ghi lại khoảnh khắc của cuộc đời mình.

    Thỉnh thoảng nó có xảy ra; thời gian cô thường bước qua tủ đồ vừa đủ nên thực sự không chú ý tới những bức ảnh. Khi hai cậu bé vào phòng cô vào vài dịp hiếm hoi cô đi ngủ muộn, chúng hầu như luôn đặt câu hỏi về những tấm hình và cô thanh thản trả lời chúng. Nhưng đôi khi … đôi khi như thể có một kí ức sắc lẹm chạm vào quá khứ và bóp nghẹt trái tim cô, dừng cô lại ngay tại chỗ, gần như hạ gục cô bởi nỗi buồn đau đột ngột dâng trào.

    Cô nhìn chằm chằm vào bức hình của anh, và trong một khoảnh khắc cô nghe thấy giọng anh lần nữa, thứ âm sắc cô tưởng chừng đã lãng quên. Anh truyền lại bản thân quá nhiều cho bọn trẻ: đôi mắt màu xanh tinh nghịch, mái tóc đen, cả điệu cười dễ cảm. Đó là điệu cười đã thu hút cô, quá tươi vui mà vẫn đủ quyến rũ, kể cả thân hình săn chắc, khỏe mạnh.

    Anh từng là một ủy viên hội đồng quản trị công ty quảng cáo, cô làm việc trong một ngân hàng lớn. Họ còn trẻ, độc thân và đủ tiền để làm nhiều điều mà mình muốn. Sau khi cùng nhau đi leo núi, họ bắt đầu nhìn thấy nhau ở nhiều địa điểm khác ngoài ở nơi sợi dây leo núi dốc đứng, và mọi thứ nảy mầm từ đó.

    Cô di chuyển tới bức ảnh chụp họ trong ngày cưới. Họ diện lễ phục truyền thống; anh mặc một bộ tuxedo; cô mặc một chiếc váy cưới sa tanh đính đăng ten lãng mạn. Cô trông thật trẻ, cô nghĩ, tự dưng bắt lấy cái nhìn thoáng qua về mình trong gương và so sánh hai hình ảnh. Mái tóc nâu dài tới vai bóng mượt, kiểu cách khi ấy bây giờ nó đơn thuần là dài, giữ lại bằng cặp hay buộc túm đuôi ngựa. Cô từng trang điểm; còn lúc này cô sẽ may mắn lắm nếu mình có thời gian cho một quệt son bóng. Cô cũng chẳng quan tâm tới thế giới; giờ đây tình trạng lo lắng liên tục đã gây ra những bóng mờ bên dưới đôi mắt cô.

    Miệng cô không thay đổi; cô vẫn có một khuôn miệng kiểu duck-mouth, với môi trên đầy đặn hơn môi dưới. Derek cho rằng môi cô quyến rũ, nhưng cô bị ám ảnh về hình dáng của nó suốt thời niên thiếu nên cô chưa bao giờ quá tin ở anh. Bờ môi duck-mouth của diễn viên Michelle Pfeiffer tinh tế hơn, và cũng quyến rũ hơn, còn miệng của Cate thường là cái cớ trêu ghẹo của cậu em trai nhỏ, Patrick, làm cô bực mình tới nỗi một lần cô quăng cây đèn ngủ vào cậu.

    Đôi mắt cô vẫn nâu, nhạt hơn, ánh vàng nhiều hơn so với màu tóc, nhưng … vẫn là màu nâu. Màu nâu không kích thích. Và cơ thể cô vẫn như nó thường là, ngoại trừ thời gian cô mang bầu, lúc cô có bầu ngực thực sự căng đầy. Cô cao lêu nghêu tới điểm để coi là mỏng manh, với kiểu người có tầm vóc càng khiến cô trông cao hơn chiều cao thực 5.5 feet của mình (1.68m). Phần cong duy nhất trên cơ thể cô là cặp mông, chúng quá nổi bật so với các phần còn lại. Đôi chân săn chắc, còn cánh tay gầy và gân guốc. Tổng hòa lại, cô không phải quả bom sexy; cô chỉ là một phụ nữ hết mực yêu chồng và, những lúc thế này, nhớ anh da diết, sự thiếu vắng của anh như lưỡi dao cứa vào tim cô.

    Bức hình thứ ba chụp bốn người họ cùng nhau: Derek, cô và hai đứa trẻ sơ sinh ba tháng tuổi. Mỗi người bọn họ bế một đứa sinh đôi, hai khuôn mặt bé xíu giống hệt nhau, cô và Derek nở nụ cười thật lớn, tự hào và tràn ngập sức sống khi cả hai nhìn xuống con mình, chúng cũng nhìn lên họ, cô vừa muốn cười lại vừa muốn bật khóc.

    Ôi, Chúa ơi, thời gian họ ở cùng nhau thật quá ngắn ngủi.

    Cate rùng mình trở về với hiện tại, chớp chớp mắt xua đi những giọt nước. Cô chỉ cho phép mình khóc vào ban đêm, khi không có ai chú ý tới. Mẹ cô và hai cậu bé có thể trở về từ chuyến dã ngoại bất cứ lúc nào, cô không muốn họ bắt gặp đôi mắt đỏ của mình. Mẹ cô sẽ lo lắng, còn hai cậu bé sẽ khóc theo nếu chúng nghĩ mẹ mình đang khóc.

    Cô lấy chìa khóa dài, cũ khỏi ngăn kéo, nhét nó vào túi quần jean, rồi bước trở ra hành lang nơi cô để lại va li và túi da Dopp Kit bên ngoài cánh cửa căn phòng số 3. Cô bật đèn hành lang, nhấc va li và túi da xách tới phía cuối, nơi bậc thang dẫn lên gác mái, đặt phịch chúng xuống lần nữa.

    Cánh cửa cầu thang mở ra ngoài, để lộ ba bậc dẫn lên tới chiếu nghỉ; rồi các bậc thang quặt phải và kết thúc ở một vị trí bất tiện trong gác mái, quá gần với trần nhà nghiêng nên cô phải cúi đầu khi bước những bậc cuối. Ít nhất, cánh cửa được mở ra bên kia. Cô đút chìa khóa và xoay nó, không gì xảy ra. Cái khóa hơi kẹt, cô không ngạc nhiên. Cô kéo chìa khóa ra một chút và cố gắng lần nữa, không thành công. Cằn nhằn cái ổ khóa cũ, cô rút chìa khóa ra hoàn toàn, rồi đút nó vào từng tí một, cố gắng xoay nó nhiều lần. Chìa khóa phải ăn khớp với ổ khóa mới phải …

    Cô cho rằng mình nghe thấy một tiếng click nhỏ, nên đắc thắng xoay chiếc chìa bằng một cử động nhanh của cổ tay. Một tiếng gãy răng rắc, và một nửa chiếc chìa rời khỏi bàn tay cô. Thế hiển nhiên là, nửa còn lại của chìa khóa bị kẹt trong ổ.

    “Chó chết!” cô chửi thề, rồi vội vã nhìn quanh để chắc cặp sinh đôi không âm thầm đứng phía sau mình. Không có nhiều cơ hội cho chúng âm thầm làm việc gì, nhưng nếu chúng ở đấy, chúng sẽ nghe thấy cô chửi thề. Nhận thấy mình an toàn, cô thêm vào – một biện pháp hiệu quả - “Chết tiệt!”

    Được thôi, kiểu gì cánh cửa cũng cần một ổ khóa mới. Ổ khóa không đắt đỏ lắm, nhưng vẫn phải tốn tiền, luôn luôn có thứ gì đó cần sửa chữa hoặc thay thế mà. Cô cũng cần cánh cửa kia mở ra, để mình có thể cất chiếc va li đâu đó cho khuất mắt.

    Chửi thề dưới hơi thở, cô huỳnh huỵch bước xuống cầu thang, đi vào nhà bếp. Cô vừa tới chỗ điện thoại để gọi tới cửa hàng kim khí hỏi chỗ ông Harris thì nghe thấy tiếng ô tô dừng lại bên ngoài. Nhìn qua cửa sổ, cô nhận thấy – chuyện lạ của những chuyện lạ - chính ông Harris, đang trèo ra khỏi chiếc xe bán tải méo mó của mình.

    Cô không biết điều gì đưa ông tới đây, nhưng sự có mặt đúng lúc của ông ấy không thể tốt hơn. Cô giật mở cửa bếp khi ông đang bước trên bậc cấp, vẻ nhẹ nhõm cũng như nỗi thất vọng hiện rõ trong giọng cô, “Thật mừng được gặp ông!”

    Ông dừng lại giữa chừng, đôi má đã chuyển màu khi ông liếc về chiếc xe của mình. “Tôi sẽ cần hộp dụng cụ chứ?”

    “Một chìa khóa bị gãy trong ổ khóa cửa gác mái – mà tôi cần cánh cửa mở ra.”

    Anh gật đầu và quay lại xe, với qua cạnh thùng xe rồi một tay xách hộp dụng cụ nặng lên đem vào. Cô có cảm giác rằng ông hẳn phải khỏe hơn so với vẻ bề ngoài.

    “Tôi sẽ vào thị trấn ngày mai,” ông nói khi ông bước chậm chạp lên bậc cấp. “Cho rằng tôi nên ghé qua và báo cô biết, trong trường hợp cô cần thứ gì.”

    “Tôi có vài lá thư cần gửi,” cô nói.

    Ông gật đầu khi cô dịch sang một bên để ông bước vào.

    “Lối này.” Cô nói, đi trước dẫn ông vào hành lang và leo lên gác.

    Mặc dù đèn bật, hành lang vẫn lờ mờ, vì không có cửa sổ nào dọc đó cũng như ở phía cuối. Các cánh cửa phòng ngủ để mở, cho phép ánh sáng ban ngày lọt vào, đủ để nhìn trừ khi bạn có vài nhiệm vụ đặc biệt, chẳng hạn như tự tay mở ổ khóa cũ khó tính hay lấy một chìa khóa bị gãy khỏi nó. Ông Harris mở hộp dụng cụ, lấy ra một đèn pin màu đen, đưa nó cho cô.

    “Chiếu lên ổ khóa,” ông lẩm bẩm khi nhấc va li ra khỏi lối, quỳ xuống trước ổ khóa.

    Cate bật đèn, sửng sốt với chùm năng lượng phát ra. Đèn pin nhẹ một cách đáng ngạc nhiên, với bỏ bọc bằng cao su. Cô xoay nó trong tay, tìm tên nhãn hiệu, nhưng cô không thấy. Cô quay chùm sáng lên cửa, chính xác ngay dưới quả đấm.

    Dùng kìm nhọn, ông lấy ra phần chìa bị gãy, rồi nhặt vài thứ kiểu cái móc và nhét vào ổ khóa.

    “Tôi không biết ông biết cách mở khóa bằng móc đâu đấy,” cô nói đầy thích thú.

    Bàn tay ông đóng băng trong giây lát, cô gần như nghe thấy ông tự hỏi mình có thực sự cần trả lời câu bình luận của cô; rồi ông phát ra âm thanh “hmm” trong cổ họng và tiếp tục thao tác với cái móc.

    Cate di chuyển tới ngay sau ông, nghiêng lại gần hơn, cố gắng quan sát việc ông đang làm. Ánh sáng soi chiếu bàn tay ông, tạc từng tĩnh mạch nổi lên, từng đường gân mạnh mẽ. Cô nhận thấy ông có đôi bàn tay đẹp. Chúng bị chai, nhuốm màu dầu mỡ, móng ngón tay cái bên trái của ông có một vết đen trông như thể nó bị một nhát búa đập vào, nhưng các móng tay được cắt ngắn, sạch sẽ, bàn tay ông gầy gầy xương xương, rắn chắc và hình dáng đẹp mắt. Cô luôn có lòng yêu mến với đôi bàn tay rắn chắc; bàn tay của Derek rất rắn chắc, bàn tay của một nhà leo núi.

    Ông cằn nhằn, rút cái móc, xoay đấm cửa, kéo cánh cửa mở vài inch.

    “Cảm ơn ông rất nhiều,” cô nói với lòng biết ơn chân thành. Cô ra dấu về chiếc va li ông đặt bên cạnh. “Gã đàn ông bỏ đi mà không mang theo đồ dùng vẫn chưa quay lại, nên tôi phải cất va li của ông ta một thời gian, phòng trường hợp ông ta quyết định quay lại lấy.”

    Ông Harris liếc nhìn chiếc va li khi ông lấy đèn pin từ cô, tắt nó và đặt cả nó và cái móc vào hộp dụng cụ.

    “Thật kỳ quặc. Ông ấy trốn tránh cái gì chứ?”

    “Tôi cho rằng ông ta muốn tránh ai đó có mặt trong phòng ăn.”

    Kỳ cục là người đàn ông chăm chỉ nhanh chóng bắt lấy một gợi ý mà không ngay lập tức xảy ra với cô. Ban đầu, cô chỉ nghĩ Layton dở hơi. Có lẽ đàn ông có bản tính đa nghi hơn phụ nữ.

    Ông lẩm bẩm lần nữa, thừa nhận lời nhận xét của cô. Ông hất đầu về chiếc va li.

    “Không có gì bất thường trong đó chứ?”

    “Không. Ông ta để nó mở ra. Tôi cất quần áo, đôi giày vào trong đó, và đặt đồ tắm cá nhân vào túi da.”

    Ông đứng dậy, nhích hộp dụng cụ sang một bên, mở rộng cánh cửa, rồi cúi xuống xách va li.

    “Chỉ cho tôi nơi cô muốn đặt nó.”

    “Tôi làm được mà,” cô quả quyết.

    “Tôi biết, nhưng tôi đã ở đây rồi.”

    Khi dẫn đường lên cầu thang dốc đứng, Cate ngẫm nghĩ về khả năng cô nghe thấy ông nói nhiều hơn tận mười phút so với cô nghe thấy ông trước đây trong một tháng, và đây chắc chắn là một trong vài lần cô nghe thấy ông cười khúc khích về một lời bình luận tự nguyện. Thường thường ông đưa ra câu trả lời ngắn gọn cho một câu hỏi trực tiếp, và chỉ có thế. Có lẽ ông nên tham gia một khóa rèn luyện kỹ năng nói chuyện trước công chúng, hoặc lấy một đơn thuốc thúc đẩy nói nhiều.

    Gác mái nóng và bụi bậm, với mùi mốc meo bốc lên từ đống đồ đạc bỏ không ngay cả khi chẳng hề có một đám mốc nào hiện thời. Ánh sáng lọt qua ba cửa sổ trên mái nhà khiến nơi đây ngập nắng đầy bất ngờ, những bức tường chưa hoàn thành và sàn nhà bằng gỗ ván chưa bào kêu cọt kẹt theo từng bước chân.

    “Qua đây,” cô nói, chỉ vào một chỗ trống dựa vào tường phía ngoài.

    Ông đặt va li và túi da Dopp Kit xuống, liếc nhìn xung quanh. Ông nhìn thấy bộ dụng cụ leo núi và dừng lại.

    “Nó của ai thế?” ông hỏi, chỉ vào.

    “Của vợ chồng tôi.”

    “Cả hai đều leo núi à?”

    “Đó là cách chúng tôi gặp nhau, tại câu lạc bộ leo núi. Tôi dừng leo núi khi tôi mang bầu.”

    Nhưng cô vẫn không vứt bỏ dụng cụ của họ. Tất cả vẫn ở đấy, sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng: giày leo núi, đai leo và túi phấn, móc đeo, khóa vặn, mũ bảo hiểm, cuộn dây. Cô không bao giờ để ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp tới cuộn dây, mặc dù cô biết mình không bao giờ leo núi trở lại. Chỉ là cô không cho phép mình ngược đãi với các thiết bị.

    Ông ngập ngừng, và cô nhận ra khuôn mặt ông chuyển đỏ lần nữa. Rồi ông lên tiếng, “Tôi từng leo núi. Mặc dù, có hơn kiểu leo núi vớ vẩn một chút.”

    Ông thực sự tình nguyện thông tin về bản thân! Có thể ông quyết định cô không phải một mối họa như bọn trẻ, nên cô an toàn để trò chuyện cùng. Cô nên ghi chú ngày này lên lịch và khoanh đỏ quanh nó, bởi vì ngày nào mà quý ngài nhút nhát Harris bắt đầu kể về bản thân phải là đặc biệt.

    “Tôi chỉ leo núi đá thôi,” cô nói, cố gắng kéo dài cuộc hội thoại. Ông ấy sẽ kéo dài cuộc nói chuyện trong bao lâu nhỉ? “Không phải kiểu người leo núi thực sự đâu. Ông có từng leo ngọn núi cao nào không?”

    “Không phải kiểu người leo núi,” ông lẩm bẩm, lách về phía bậc cầu thang, nên cô biết thói ba hoa bất thường của ông đã chấm dứt. Ngay lúc đó, ở hai tầng bên dưới, cô nghe thấy âm thanh trẻ con vọng lên trong một cuộc cãi cọ, cô biết mẹ mình và hai cậu bé đã về nhà.

    “À, ừ. Nghe như rắc rối ấy,” cô nói, cài chốt cửa cầu thang.

    Cô biết ngay có gì đó không ổn chỉ từ vẻ mặt của họ khi cô xuống tới tầng trệt. Cả ba đều trông giận dữ. Mẹ cô đang cầm cái giỏ dã ngoại, miệng mím lại, bà tách rời hai cậu bé, mỗi đứa một bên. Cặp sinh đôi mặt đỏ bừng tức giận, áo quần đều lấm lem, như thể chúng vừa lăn lộn trong bùn đất.

    “Chúng đánh nhau,” Sheila thông báo.

    “Tannuh gọi con bằng cái tên xấu!” Tucker buộc tội, biểu hiện đầy bướng bỉnh.

    Tanner nhìn trừng trừng vào anh mình. “Anh đẩy em. Ngã!” Sự phẫn nộ của cậu bé thấy rõ. Tanner không thích bỏ qua bất kỳ tình huống nào.

    Cate giơ tay lên giống một cảnh sát giao thông, dừng cả hai lại giữa cuộc giải thích đang tiếp diễn. Phía sau cô, ông Harris bước xuống cầu thang, mang theo hộp dụng cụ, thế là bọn trẻ bắt đầu chuyển đổi cơn kích động; người hùng của chúng ở đây, mà chúng không thể vây quanh ông như chúng vẫn thường.

    “Mini sẽ nói với mẹ chuyện xảy ra,” Cate nói.

    “Tanner lấy miếng cam cuối cùng mà Tucker muốn. Tanner không đưa nên Tucker đẩy nó xuống. Tanner gọi Tucker là ‘chết tiệt’. Rồi chúng lao vào nhau, đấm đá.” Sheila nhìn xuống cả hai, cau mày. “Chúng va vào nước chanh của mẹ làm quần áo mẹ ướt sũng.”

    Giờ nhìn lại, Cate nhận ra những vệt ẩm sẫm màu trên quần jean của Sheila. Cô khoanh tay và trông nghiêm khắc nhất có thể khi cô nhướn mày.

    “Tucker-“ cô bắt đầu.

    “Không phải lỗi của con!” nó hét lên, rõ ràng tức giận vì bị nhắc đến đầu tiên.

    “Con đẩy Tanner trước, đúng không?”

    Nếu có gì, thì nó trông có vẻ còn nổi loạn hơn. Khuôn mặt xinh xắn của nó chuyển đỏ, nó trực hành động trừ việc nhảy tới nhảy lui.

    “Là – là lỗi của Mimi!”

    “Mimi!” Cate lặp lại, sững sờ. Mẹ cô thì choáng váng bởi cục diện xoay chuyển.

    “Bà nên trông con tốt hơn!”

    “Tucker Nightingale!” Cate gầm lên, quá kích động bởi việc đổ lỗi của nó. “Con lên gác và ngồi vào ghế hư đốn ngay bây giờ! Sao con dám đổ lỗi này lên Mimi! Mẹ xấu hổ về cách con đang làm. Một người đàn ông tốt không bao giờ, không bao giờ đổ lỗi cho người khác vì chuyện gì đó anh ta làm!”

    Nó bắn ánh nhìn cầu xin sự cảm thông và cứu giúp về phía ông Harris. Cate xoay lại và trao cho người đàn ông chăm chỉ một cái nhìn chằm chằm như mũi khoan, phòng trường hợp ông đang suy nghĩ để nói điều gì đó dù đồng cảm ít nhất. Ông Harris chớp mắt, rồi nhìn Tucker từ từ lắc đầu.

    “Cô ấy đúng,” ông nói khẽ.

    Đôi vai nhỏ bé của Tucker sụp xuống, nó bắt đầu kéo lê bản thân lên gác, mỗi bước chậm chạm như một đứa trẻ bốn tuổi có thể làm. Cậu bắt đầu khóc trên đường lên. Đến bậc trên cùng, nó dừng lại và nức nở, “Bao lâu ạ?”

    “Rất lâu.”

    Cate nói. Cô sẽ không để nó ngồi đó lâu hơn nửa giờ, nhưng chỉ thế dường như là bất tận với ai đó có năng lượng như của Tucker. Bên cạnh đó, Tanner cũng phải dùng một ít thời gian trên ghế hư đốn nữa, vì gọi anh mình là ‘chết tiệt’. Được rồi, thế tức là cả hai đã biết từ ‘chết tiệt’ và dùng nó thế nào. Con của cô đã chửi thề rồi.

    Cô véo cằm và cau mày với Tanner. Cậu bé thở dài, lại ngồi xuống bậc cầu thang dưới cùng, chờ đợi tới lượt mình ngồi vào ghế hư đốn. Không gì thêm được nói.

    Ông Harris hắng giọng. “Tôi sẽ đem về một cái khóa mới vào ngày mai khi tôi vào thị trấn,” ông nói, theo lối đi ra cửa.

    Cate hít một hơi thở sâu, quay về mẹ mình, người đang hấp thụ khó khăn trên gò má của bà.

    “Mẹ còn chắc muốn đưa chúng đi cùng không?” Cate kiệt sức hỏi.

    Sheila, cũng thế, hít một hơi thở sâu. “Mẹ sẽ đề cập lại với con về chuyện này,” bà trả lời.

     
    Chỉnh sửa cuối: 13/7/15
    maggie14, thuhuong244, ttha and 14 others like this.
  2. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 7 (halucky)

    VÌ THỜI GIAN THAY ĐỔI, GOSS VÀ TOXTEL đến Boise lúc sẩm tối. Goss đã hình dung vé máy bay tốn mất một khoản, vì chúng đặt mua ở những phút cuối, nhưng đó không phải vấn đề của gã. Thay vì thực hiện nốt chuyến đi trong đêm đó, thế có nghĩa là chúng phải gắng gượng lái xe trên con đường núi xa lạ khi mà cả hai đều tưởng chừng sắp ngã quỵ, chúng đăng kí phòng ở một khách sạn gần sân bay.

    Đến sáng, chúng sẽ tìm vũ khí, rồi lên một máy bay cánh quạt bay tới bãi đáp cách đích đến của mình khoảng năm mươi dặm. Máy bay của tư nhân, nên chúng sẽ không gặp sự cố khi mang theo vũ khí. Faulkner đã thu xếp vài phương tiện bốn bánh hiện đại đợi sẵn chúng ở đường băng. Chúng sẽ lái xe phần đường còn lại tới Trail Stop, nơi chúng đã đặt phòng trước ở nhà nghỉ B&B Nightingale. Ở đúng nơi mà chúng sẽ lục soát là hợp lý nhất, vì đó là lý do chúng có mặt ở đấy.

    Sau khi ăn tối ở nhà hàng của khách sạn, Toxtel lên phòng mình, trong khi Goss quyết định khám phá vài điều ở Boise – đặc biệt, thứ gì đó đàn bà. Gã bắt tắc xi đi tới một quán bar độc thân, gạt qua một đám phụ nữ không hấp dẫn mình trước khi dừng lại ở một cô ả nước da ngăm đen, trông khá khỏe mạnh tên là Kami. Gã ghét cái tên dễ thương như thế, nhưng thời gian thì ngắn và không có vẻ cô ta ở bên đời gã lâu hơn thời gian gãi ngứa cho gã, nên gã khoác áo vào và rời đi.

    Họ đi tới căn hộ của cô ả, một nơi chật chội có hai phòng ngủ. Gã luôn lấy làm ngạc nhiên khi những người phụ nữ mới gặp mời gã về nhà họ. Họ đang nghĩ gì thế? Gã có thể là một con yêu râu xanh, một kẻ giết người lắm chứ. Được thôi, gã là một kẻ giết người, nhưng chỉ khi gã được trả tiền. Những công dân bình thường hoàn toàn an toàn với gã.

    Nhưng Kami không biết điều đó, cũng như bất kỳ người đàn bà nào khác.

    Khi họ nằm đấy kiệt sức và đẫm mồ hôi, sát bên nhau nhưng không còn kết nối với nhau kể cả những cảm xúc giả tạo, gã lên tiếng, “Em nên cẩn thận hơn. Em gặp may với tôi, nhưng chuyện gì xảy ra nếu tôi là ai đó gàn dở, kẻ thu thập nhãn cầu, hay thứ gì đó đại loại thế?”

    Ả kéo dãn người, uốn cong lưng và đẩy bộ ngực về phía trần nhà.

    “Chuyện gì xảy ra nếu em là một kẻ gàn dở, kẻ thu thập nhãn cầu?”

    “Tôi đang nghiêm túc.”

    “Em cũng thế.”

    Có gì đó trong giọng điệu của ả khiến gã nheo mắt lại. Họ chằm chằm nhìn nhau trong ánh đèn ngủ, ánh mắt ả phẳng lặng, còn gã để ánh mắt mình phơi bày nỗi trống vắng cô quạnh.

    “Vậy tôi cho rằng cả hai chúng ta đều may mắn,” cuối cùng gã lên tiếng.

    “Yeah? Anh nghĩ thế nào?”

    “Tôi muốn em – và em muốn tôi.”

    Nghĩa là cô ả sẽ không nhảy bổ vào gã tấn công bây giờ, nếu ả quý trọng mạng sống của mình ả sẽ không cố gắng. Vậy nếu gã khỏa thân và ả cũng thế thì sao. Có thể ả có một con dao nhét bên dưới đệm – như tình huống trong phim ‘Bản năng gốc’ – nhưng gã đã chuẩn bị bẻ gãy cổ ả nếu gã thấy ả hoặc lần bàn tay xuống dưới gối hoặc hướng về phía cạnh giường.

    Từ từ, đầy cố ý, ả xèo rộng bàn tay và mỉm cười, đầu ả vênh lên còn đôi mắt tán tỉnh gã.
    “Anh sắp đi, em nói đúng không?”

    “Chỉ giữ tay em lại chỗ của nó,” gã nói lạnh tanh, trượt khỏi giường, với lấy quần áo. Gã không quay lưng lại với ả dù chỉ một giây.

    “Ồ, làm ơn. Em không phải một kẻ giết người hơn anh đâu.”

    Điều đó không cam đoan gì sao? Cô ả chỉ là người lạ. Nhưng cảm giác châm chích sau gáy nhắc nhở gã rằng không được hạ thấp sự phòng thủ, không quan trọng cô ả nói gì hay ả thuyết phục ra sao.

    “Có thể em tìm ra một cách hoàn hảo đá bay một tên đàn ông ra khỏi giường sau khi đã quan hệ với hắn,” gã nói khi kéo quần đùi và quần dài lên. “Trong trường hợp ấy, xin chúc mừng – trừ khi anh chàng tiếp theo mà em kéo vào giường nghĩ rằng em đang bận làm phọt nhãn cầu của hắn ra khỏi sọ và sợ hãi em. Đó là một cách tốt để đá bay cứt khỏi thân em.”

    Cô ả cuộn tròn mắt. “Anh nói đùa.”

    “Ừ, hah hah. Tôi đang cười vãi linh hồn đây.” Gã đi tất và xỏ giày, đút cánh tay vào ống tay áo sơ mi, trưng ra cho cô ả thấy hàm răng có thể gọi là của một nụ cười. “Hãy biết rằng nếu tôi nghe thấy bất kỳ đôi nhãn cầu nào bị moi ra, tôi có thể cho bọn cớm mô tả về diện mạo của em.”

    Một ý nghĩ lóe lên: gã nhanh chóng liếc nhìn xung quanh, thấy túi khoác vai của ả thả rơi trên sàn nhà, nhanh như con mèo gã chụp lấy.

    “Đưa nó cho em,” cô ả gầm gừ, thình lình nhào tới dành lại, nhưng gã bắt lấy ả, đẩy ả nằm sấp xuống giường, chống một bàn tay giữa lưng ả, nghiêng người xuống đè ả tại chỗ trong khi bàn tay kia dốc hết đồ trong túi ra giường. Ả thở khò khè, cố gắng hít không khí vào khi ả cong người vặn vẹo, nhưng gã không cho phép. Nguyền rủa, cô ả quàng cánh tay ra sau, nỗ lực đánh vào đũng quần gã; gã vặn người sang một bên, cú đánh chệch vào hông gã.

    “Xem nào,” gã cảnh báo. “Em không muốn chọc điên tôi đâu.”

    “Mẹ nhà anh!”

    “Ở yên đấy, ngoan nào, đừng có mà tóm cái áo phông.”

    Những ngón tay gã mò mẫm qua những đồ gã vừa đổ ra khỏi túi. Thậm chí cô ả không có một cái ví, ả không có một cái đựng trong túi xách, chỉ có một cái kẹp tiền. (money clip) Thứ đó đánh vào gã thật kỳ quặc, bởi vì có bao nhiêu phụ nữ mang theo kẹp tiền chứ? Có một vật bằng da nhỏ với các khe cắm thẻ ở cả hai bên. Một trong các khe ấy cài bằng lái xe của ả. Gã rút tấm bằng ra khỏi khe, nhìn vào ảnh để chắc chắn nó thuộc về ả, rồi kiểm tra tên.

    “Ồ, ồ … Deidre Paige Almond. Vậy em đúng là dở hơi.”

    Cô ả hẳn không thấy lời nói đùa của gã là hài hước vì ả tiếp tục chửi rủa, Goss cười nhăn nhở, thưởng thức bản thân hơn là gã đã có trong thời gian dài. Điều đáng cười hơn là gã đã đưa cô ả cái tên giả, cũng không hại gì. Những suy nghĩ rõ ràng có khuynh hướng giống nhau.

    “Để tôi đoán – ‘Kami’ là một biệt danh đúng không?” Gã ném cái bằng lên giường cạnh ả.

    Cô ả vặn vẹo bên dưới tay gã, mái tóc đen bù xù của ả rơi xuống mặt khi ả quay đầu nhìn trừng trừng vào gã.

    “Đồ khốn, để xem anh còn nghĩ chuyện này hài hước không khi tôi buộc tội anh.”

    “Dựa vào cơ sở nào?” gã hỏi, âm thanh uể oải. “Hãm hiếp ư? Quá tệ, tôi có thói quen mang máy ghi âm theo mình bất cứ khi nào tôi ở cùng một phụ nữ - trường hợp này cũng thế.”

    “Nhảm nhí!”

    “Thực tế, nó là một cái Sony.” Gã vỗ nhẹ vào túi quần bên phải của mình, nơi chiếc di động tạo ra một chỗ phồng nhỏ thú vị. “Chất lượng âm thanh là đỉnh nhất đấy. Bên cạnh đó, tên nào em sẽ đưa cho cớm đây?” Gã phát ra một tiếng tsking. “Em không tin bất cứ ai nói gì những ngày này, đúng không? Vui đấy, tôi phải đi bây giờ, sẽ không được nhìn thấy em loanh quanh. Chỉ cần nhớ tôi nói về nhãn cầu. Nếu em làm vài điều ngu ngốc, em có thể muốn xem xét lại các thủ tục.” Gã giải phóng ả, nhanh chóng di chuyển ra khỏi tầm với của ả. “Đừng bận tâm ngồi dậy,” gã nói khi đi ra khỏi cửa.

    Cô ả không – hay ít nhất, không buồn đi theo gã, có thể vì ả đang trần truồng. Goss rời căn hộ, bước xuống vỉa hè lồi lõm. Cô ả đã lái xe chở hai người đến đây, nên gã tạm thời bị mắt kẹt, nhưng gã không lo lắng. Gã có di động, gã cũng có tấm card số điện thoại của công ty tắc xi gã đã dùng trước đó trong túi. Gã đi bộ tới ngã tư nơi có cột đèn giao thông, rồi gọi một chiếc.

    Gã sẽ không ngạc nhiên nếu Deidre – Kami lái chiếc Nissan năm năm tuổi dọc phố đuổi theo gã, nhưng rõ ràng cô ả quyết định không kiếm thêm rắc rối. Goss không biết liệu cô ả có phải giả vờ mình là một kẻ giết người hàng loạt, hay ả là một kẻ tâm thần thực sự, bản năng của gã nhắc nhở rằng tốt hơn gã nên nhấc cái mông ra khỏi đó. Nhưng nói chung, đây là một trong những buổi tối có nhiều thú vị.

    Sau một quãng thời gian khá hợp lý – vừa đủ để gã không cân nhắc tới sự vô lý – tắc xi đến và gã leo vào. Hai mươi phút sau gã khẽ khàng huýt sáo khi đi dọc hành lang khách sạn hướng về phòng mình. Đã quá một giờ sáng; giấc ngủ sẽ không được dài, nhưng trò giải trí của buổi tối xứng đáng với nó.

    Gã đi tắm trước khi chui vào giường, nơi gã ngủ như một đứa trẻ cho tới khi đồng hồ báo thức cạnh giường réo vào lúc sáu giờ. Chẳng có gì giống như một lương tâm trong sạch – hay, càng tốt, không có lương tâm – cho một giấc ngủ ngon.

    Một cái hộp đựng vũ khí của chúng được cho là chuyển giao lúc bảy giờ sáng, nhưng thời điểm đó đến và trôi đi mà không có gì. Toxtel gọi điện cho Faulkner, người đã sắp xếp mọi thứ, rồi chúng chờ đợi. Goss dùng thời gian vào việc ăn sáng. Nửa giờ sau, khoảng qua chín giờ một chút, chúng thấy thật mông lung thì một người ấn chuông mang đến một cái hộp có ghi dấu “Vật liệu in” và được dán kín bằng băng dính mờ. Toxtel nhận món hàng; gã trông như kiểu một thành viên hội đồng quản trị, hoặc có lẽ nhân viên bán hàng, trong bộ vest và cà vạt. Goss chọn trang phục thoải mái hơn, quần vải thường và áo sơ mi lụa tơ sống, không thắt cà vạt. Gã hình dung mọi người tới nhà nghỉ B&B là để nghỉ ngơi, không phải công việc, nhưng Toxtel sẽ mặc vest và thắt cà vạt bất kể hoàn cảnh nào.

    Những khẩu súng ngắn trong hộp rất sạch sẽ, giấy phép đăng ký xếp gọn gàng. Lặng lẽ chúng kiểm tra vũ khí, thói quen chỉ là thói quen. Vũ khí ưa thích của Goss là một khẩu Glock, nhưng trong những tình huống thế này bạn phải chọn thứ gì có sẵn trên bản thông báo ngắn. Hai khẩu súng ngắn được đưa tới là Beretta và Taurus, với một hộp đạn cho mỗi khẩu. Goss chưa từng sử dụng một khẩu Taurus trước đây nhưng Toxtel thì đã dùng rồi, nên Toxtel lấy nó và để lại cho Goss khẩu Beretta cũng tương tự. Chúng chuyển vũ khí vào bao của mình, rồi gọi cho phi công mà chúng đã thuê, nói rằng chúng đang trên đường tới.

    Vì chúng sẽ bay trên một máy bay tư nhân, chúng không phải đi qua đội ngũ an ninh giống như ở sân bay. Viên phi công, một người đàn ông ít nói với làn da phong sương của người chưa từng biết đến kem chống nắng, lầm bầm lời chào mừng và đó là tất cả. Chúng cất hành lý của mình, không có gì bất ổn, rồi trèo lên máy bay. Máy bay là một chiếc Cessna nhỏ, thứ mà có lẽ trong thời kỳ tốt nhất cũng cách đây tới mười năm rồi, nhưng nó còn hai phẩm chất quan trọng nhất: bay được, và không cần một đường băng dài.

    Goss không quan tâm tới cảnh vật, ít nhất không phải loại đồng quê. Ý tưởng của gã về một quang cảnh đẹp là được nhìn từ một căn penthouse. Tuy nhiên, gã phải công nhận dòng sông lấp lánh, đầy đá tảng và những dãy núi lởm chởm có đẹp, như những thứ đang trôi qua. Chúng chắc chắn được nhìn thấy đẹp nhất từ trên cao. Quan điểm đó được củng cố khi, một giờ sau, máy bay nhỏ hạ cánh xuống một đường băng gập ghềnh, bụi bặm trên dãy núi lởm chởm, trơ đá lờ mờ hiện ra như những gã khổng lồ xấu bụng. Đó không phải một thị trấn, chỉ có một tòa nhà quây lại từ những tấm tôn, với ba ô tô đậu bên ngoài. Một chiếc mui kín màu be khó nhận dạng, một chiếc bán tải hiệu Ford rỉ sét trông có lẽ còn già hơn cả Goss, và cuối cùng là một chiếc Chevy Tahoe.

    “Tôi hy vọng chiếc bán tải không phải là chiếc xe bốn bánh của chúng ta,” Goss lẩm bẩm.

    “Không đâu. Faulkner đã chăm sóc chúng ta; rồi anh sẽ thấy.”

    Sự thờ ơ của Toxtel về khả năng Faulkner không bao giờ thất bại trong việc chọc tức Goss, nhưng gã không biểu lộ. Vì một điều, gã không muốn bất kỳ ai có ý niệm mơ hồ rằng gã khinh thường Faulkner, ngoài lý do chính là Hugh Toxtel chỉ là một kẻ giết thuê đáng tin cậy của Faulkner mà Goss không muốn chống lại. Không phải Toxtel là một siêu nhân hay đại loại thế; gã chỉ làm tốt công việc của mình – đủ tốt để Goss tôn trọng gã. Và Toxtel có mười năm kinh nghiệm quý báu mà Goss không có, thậm chí còn hơn.

    Khi chúng trèo khỏi máy bay và bắt đầu lôi túi xách ra khỏi khoang hành lý, một anh chàng chắc mập trong bộ yếm liền quần đầy vết bẩn thong thả đi ra từ tòa nhà bằng tôn.

    “Bọn anh đang muốn thuê xe hả?” anh ta hỏi.

    “Đúng,” Toxtel nói.

    “Họ đang đợi các anh.”

    ‘Họ’ hóa ra là hai chàng trai trẻ từ công ty cho thuê xe; một đã đánh chiếc Tahoe ra ngoài, theo sau một chiếc khác. Thực sự lòng kiên nhẫn không còn phù hợp, vì thực sự cả hai đã bị kích thích bởi sự chờ đợi. Toxtel ký vài giấy tờ; hai chàng trai nhảy vào chiếc mui kín màu be và biến mất trong một đám mây bụi.

    “Bọn trẻ khốn kiếp,” Toxtel cằn nhằn, nhìn chằm chằm sau chúng khi gã phe phẩy bụi khỏi mặt. “Chúng làm chuyện này có mục đích.”

    Toxtel và Goss xếp mọi thứ vào phía sau Tahoe, rồi chui vào con xe cỡ bự. Một bản đồ gấp lại trên ghế tài xế, với con đường tới Trail Stop được tô đỏ đầy biết ơn và đích đến được khoanh tròn. Sau khi xem xét tấm bản đồ, Goss băn khoăn tại sao ai đó phải bận tâm khoanh tròn vào phần tên, vì con đường dừng ở đó và chẳng thể đi xa hơn nữa. Trail Stop – gã tự hỏi lam sao nó có cái tên đó, ha-ha-ha.

    “Vùng quê xinh đẹp,” Toxtel bày tỏ sau vài phút.

    “Tôi đoán thế.”

    Goss nhìn qua cửa sổ hành khách vào đáy của một hẻm núi đá dựng thẳng đứng. Phải đến ba hay bốn trăm feet thẳng xuống dưới, và mặt đường không phải tốt nhất, nó hẹp, rải đá dăm lởm khởm hai làn xe chạy với hộ lan bị méo mó ở vài khúc nguy hiểm nhất. Vấn đề là, nhiều chỗ gã nghĩ cần tới hộ lan thì rõ ràng không đi đôi với điều mà Ủy ban giao thông của Idaho đánh giá là nguy hiểm. Mặt trời vẫn sáng chói, bầu trời trên đầu xanh thẳm, quang đãng, nhưng khi chúng đi từ một đoạn đường trải dài ngập nắng tới một đoạn che khuất bởi ngọn núi, gã chú ý thấy nhiệt kế trong Tahoe có một cú rơi ngoạn mục xuống tận mười độ. Gã ghét bắt gặp những ngọn núi này vào ban đêm. Chúng không nhìn thấy một công trình kiến trúc đơn lẻ hay phương tiện giao thông nào kể từ lúc rời đường băng, mặc dù chúng đã ở trên đường hơn mười phút, điều này đánh một đòn không tự nhiên vào Goss.

    Nửa giờ sau, chúng tới một thị trấn nhỏ thực sự, dân số bốn nghìn người hay khoảng thế, với những con phố và đèn tín hiệu giao thông – một vài trong số đó – và mọi thứ, gã thả lỏng phần nào. Ít nhất quanh đây có người.

    Rồi chúng rẽ trái vào một con đường được chỉ trên bản đồ, và tất cả dấu hiệu của nền văn minh biến mất một lần nữa.

    “Jesus, tôi không hiểu có bao nhiêu người sống kiểu này,” Goss lẩm bẩm. “Nếu anh hết sữa, đó sẽ là chuyến thám hiểm của một ngày tồi tệ tới cửa hàng tạp hóa.”

    “Nó là cảm nghĩ của anh,” Toxtel nói.

    “Tôi nghĩ nó hơn một trường hợp không biết bất cứ điều gì khác nhau. Anh không thể bỏ lỡ thứ mà anh không bao giờ có.”

    Lần rẽ tiếp theo của con đường đưa chúng trở lại với ánh nắng mặt trời, ánh sáng chói chiếu vào kính chắn gió khiến gã phải nheo mắt và muốn ngáp.

    “Anh lẽ ra nên ngủ tối qua thay vì ra ngoài tìm kiếm đàn bà,” Toxtel quan sát, sự phản đối ám chỉ trong giọng gã.

    “Tôi không chỉ nhìn, tôi thấy vài thứ.” Goss nói và ngáp lần nữa. “Con gà con kỳ lạ. Cô ta giống như một nữ hoàng gia cầm ở vài thị trấn nhỏ, hay gần thế, khi tôi nhắc cô ta không nên đưa người lạ về nhà mình, thế rất nguy hiểm và tôi có thể là một kẻ tâm thần, thì cô ta nói cô ta cũng có thể là một người tâm thần. Ánh nhìn trong mắt cô ta ngay sau đó khiến tôi rùng mình, kiểu như cô ta thật sự lẩn thẩn. Tôi mặc quần áo vào và rời khỏi đó.” Gã bỏ qua phần vật lộn và cái tên giả.

    “Anh sẽ nhận ra cổ họng mình bị cắt một trong những ngày này,” Toxtel cảnh báo.

    Goss nhún vai thờ ơ. “Luôn luôn có khả năng.”

    “Anh không giết cô ả hay gì thế, đúng không?” Toxtel hỏi sau vài phút, và Goss có thể nói gã lo lắng bởi ý nghĩ đấy.

    “Tôi đâu ngốc. Cô ấy ổn cả.”

    “Chúng ta không muốn thu hút sự chú ý đâu.”

    “Tôi nói cô ấy không sao. Còn sống, hít thở, không bị thương.”

    “Thế là tốt. Chúng ta không cần bất kỳ sự rắc rối nào. Chúng ta cần tìm ra cái chúng ta cần ở nơi này rồi rời đi. Thế thôi.”

    “Làm thế nào chúng ta biết nơi sẽ tìm kiếm? Anh sẽ hỏi ‘Cô cất đồ dùng của tên kế toán ngu ngốc để lại ở đâu?’ ư?”

    “Có thể không phải ý kiến tồi. Chúng ta có thể nói ông ta gửi cho chúng ta.”

    Goss cân nhắc khả năng đó. “Đơn giản,” gã thừa nhận. “Được đấy.”

    Con đường có quá nhiều đoạn quanh co khúc khuỷu đến nỗi gã bắt đầu buồn nôn. Gã hạ cửa kính xuống để không khí trong lành ùa vào xe. Những tấm biển ‘Cấm vượt’ nằm dọc theo đường. Sau khi đi qua, dường như tấm biển thứ năm mươi, gã cằn nhằn, “Khỉ thật.”

    “Khỉ thật, cái gì?”

    “Tất cả cái đám biển ‘Cấm vượt’ này. Đầu tiên, anh làm thế nào có thể vượt qua cái gì đó trên con đường chết tiệt này chứ? Nó cứ uốn lượn. Thứ nữa, làm quái có gì để vượt.”

    “Chàng trai chốn đô thành,” Toxtel nói, cười nhăn nhở.

    “Đi thẳng chết tiệt.” Gã nhìn xuống tấm bản đồ. “Tiếp theo thì rẽ phải.”

    ‘Tiếp theo’ lấy mất mười phút. Nhiệt độ giảm xuống thêm năm độ, không khí có cảm giác loãng đi. Goss tự hỏi độ cao so với mực nước biển là bao nhiêu.

    Con đường chúng đang lần mò được đánh dấu bởi một hàng khoảng ba mươi thùng thư hay hơn thế, nghiêng ngả theo mọi hướng giống như một hàng lính tráng say bét nhè. Cũng có một tấm biển trên đó ghi ‘Trail Stop,’ và một mũi tên, đi quá một đoạn là một tấm biển có dòng chữ ngay ngắn “Nhà nghỉ Nightingale.”

    “Nơi đó đấy,” Toxtel nói. “Đừng có quá khó để tìm.”

    Con đường leo lên đều đều, nhưng sau một quãng ngắn nó biến thành một con đường một làn nhỏ hẹp, và bắt đầu xuống dốc quanh co. Đi xuống thậm chí còn dốc hơn đi lên. Toxtel về số, nhưng vẫn phải giữ chân trên bàn phanh.

    Trên một khúc cong, chúng nhìn thấy thứ hẳn là Trail Stop phía bên dưới, tập trung trên một mũi đất rộng với một dòng sông đang gầm rú bên phải. Số lượng ngôi nhà chắc phải tương xứng với số lượng thùng thư đã thấy trên con đường.

    Ở dưới chân núi chúng đi qua một cây cầu gỗ hẹp, nó kêu lên răng rắc bên dưới sức nặng của Tahoe. Goss nhìn xuống con suối rộng, cuốn xô khỏi ngọn núi tìm đường hòa vào dòng sông, nước khuấy tung trắng xóa gần những tảng đá đen nhô lên, bên trên đầy bụi nước, một cơn ớn lạnh chạy dọc xương sống gã. Con suối không hung dữ như dòng sông chúng đã nhìn thấy, nhưng có gì đó về nó làm gã hoảng sợ.

    “Không phải lúc này, nhưng tôi nghĩ chúng ta đang ở vùng đất Cứu rỗi,” gã lẩm bẩm.

    “Nhầm vị trí của đất nước rồi,” Toxtel nói vô tình, không một chút xáo trộn bởi vẻ hoang dã xung quanh.

    Con đường cong lên một quả đồi nhỏ, khi chúng trèo lên tới đỉnh – Goss nhắm vội mắt nghĩ tới trường hợp một chiếc xe khác đi xuống đồi từ phía ngược lại – Trail Stop trải ra trước chúng, một nhóm những ngôi nhà nằm dọc cả hai bên đường. Có vài ngôi nhà, phần lớn trong chúng đều nhỏ và xiêu vẹo, một cửa hàng thực phẩm, một cửa hàng kim khí, một cửa hàng tạp hóa, vài ngôi nhà khác, và cuối con đường bên trái là một ngôi nhà lớn mang phong cách Victoria với tiền sảnh rộng, trang trí hào nhoáng, một tấm biển phía trước chỉ ra là nhà nghỉ. Có hai chiếc ô tô trong bãi đậu xe bên hông nhà, và một chiếc trong gara phía sau tách rời khỏi ngôi nhà. Cánh cửa đơn được mở. Phía bên phải cánh cửa ga ra là một cánh cửa thường khác. Đúng là một nơi tốt đẹp để tìm đồ đạc của Layton, Goss nghĩ ngợi.

    “Ồ, anh đúng đấy,” gã nói. “Một nơi không khó khăn để tìm ra.”

    Khi chúng đỗ xe, một phụ nữ bước xuống bậc cấp, hướng về phía chúng.

    “Xin chào,” cô ấy lên tiếng. “Tôi là Cate Nightingale. Chào mừng tới Trail Stop.”

    Toxtel ra khỏi chiếc SUV trước, mỉm cười khi gã tự giới thiệu bản thân và bắt tay, rồi mở cửa xe sau để lấy hành lý. Goss theo sau chậm chạp hơn, mặc dù gã cũng thực hiện cái nghi thức mỉm cười – và – bắt tay. Chúng tự giới thiệu là Huxley và Mellor – gã là Huxley còn Toxtel là Mellor. Faulkner đã giải quyết hóa đơn bằng một thẻ tín dụng dưới cái tên công ty chung chung, nên chúng không phải xuất trình giấy tờ.

    Goss không cố gắng che dấu vẻ thích thú trong đôi mắt khi nghiên cứu chủ nhân nhà nghỉ. Cô trẻ hơn gã tưởng, với dáng người cao gầy không thích hợp với những đường cong, mặc dù cô có một cặp mông đẹp. Cô không khoe khoang nó, cô mặc quần dài màu đen, áo sơ mi trắng ống tay áo xắn lên, nhưng gã có thể nhận ra nó. Giọng cô rất dễ chịu, ấm áp và thân thiện. Mái tóc dày màu nâu được kéo ra sau trong kiểu buộc túm đuôi ngựa, đôi mắt cô màu nâu – không có gì nổi bật ở đó. Miệng cô, mặc dù vậy, là một trong những phần có hình dáng kỳ lạ, với bờ môi trên đầy đặn hơn môi dưới. Nó cho cô một vẻ đẹp mềm mại, gợi cảm.

    “Phòng của các ông đã sẵn sàng,” cô nói với một nụ cười thân thiện hoàn toàn dửng dưng với sự thích thú mà gã đã thể hiện. Gã kiểm tra mông cô khi cô quay đi. Gã đã đúng về vẻ đáng yêu của nó.

    Bên trong ngôi nhà, gã nhìn thấy một con gấu bông nằm bên ngoài một căn phòng, chỉ ra rằng có sự hiện diện của một đứa trẻ. Thế có nghĩa là ông Nightingale cũng có mặt ở nhà. Cô không đeo nhẫn cưới; gã chú ý thấy khi gã bắt tay cô. Goss liếc nhìn Toxtel và thấy rằng gã cũng phát hiện ra con gấu bông.

    Cô dừng lại ở một chiếc bàn trong hành lanh, được bố trí dựa vào môt bên của cầu thang, và lấy hai chiếc chìa khóa.

    “Tôi xếp các ông vào phòng số 3 và số 5,” cô nói và dẫn đường lên gác. “Mỗi phòng có phòng tắm riêng, và tầm nhìn đẹp từ cửa sổ. Tôi hy vọng các ông thích nơi này.”

    “Tôi chắc chúng tôi sẽ thích,” Toxtel lịch sự nói.

    Cô đưa gã chìa khóa phòng số 3 và Goss phòng số 5. Nhìn ngó xung quanh, Goss thấy có hai phòng bên phải, phần phía trước ngôi nhà, và bốn cánh cửa nữa bên trái chúng. Cân nhắc tới những chiếc xe trong bãi đậu, ít nhất hai phòng trong số này có người cư ngụ, có lẽ hơn, phụ thuộc vào có bao nhiều người trong mỗi xe. Lục soát nơi này có lẽ không dễ dàng như chúng hy vọng.

    Mặt khác, Goss ngẫm nghĩ với một nụ cười khi tháo dỡ đồ, biết rằng có một đứa trẻ ở đây mở ra vài khả năng thú vị.
     
    Chỉnh sửa cuối: 14/7/15
    maggie14, thuhuong244, ttha and 16 others like this.
  3. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 8 (halucky)

    CATE KHÔNG BIẾT CHUYỆN GÌ ĐANG DIỄN RA, nhưng cô nghi ngờ người đàn ông đã gọi tới chiều muộn ngày hôm qua đặt phòng cho các quý ông - Huxley và Mellor - cũng giống gã đàn ông đã gọi trước đó, giả vờ là người làm việc ở công ty cho thuê xe và hỏi dò về Jeffrey Layton. Cô không thể chắc chắn, và nếu cô không nghi ngờ, khả năng chưa bao giờ xảy đến với cô, nhưng cả trọng âm và giọng nói có vẻ giống nhau nên sau khi gác máy điện thoại, mối lo lắng quen thuộc trong tiềm thức cô xuất hiện cho tới khi cô kết nối dữ kiện với nhau.

    Hãi gã đàn ông rõ ràng đang tìm Layton, dễ thế lắm. Nếu họ lo lắng về ông ta vì ông ta biến mất, hiển nhiên họ phải lên tiếng ngay từ đầu, nói với cô rằng họ đang tìm bạn mình và hỏi vài câu hỏi về buổi sáng ông ta bỏ đi. Điều họ không làm nói với cô rằng họ không quan tâm tới sức khỏe của ông ta tí nào. Ông Layton đã gặp rắc rối, và hai gã này là một phần trong đó.

    Cô không nên cho họ lưu lại đây. Giờ thì cô biết thế. Nếu cô nhận ra giọng nói trên điện thoại kịp thời, cô sẽ nói với ông ta rằng cô không còn phòng nào trống – thế thì cô không thể ngăn họ tới Trail Stop, nhưng ít nhất họ sẽ không nghỉ tại ngôi nhà này cùng cô và bọn trẻ. Cơn ớn lạnh xuyên dọc sống lưng cô với ý nghĩ về hai đứa con, mẹ cô, mà thậm chí cả ba thanh niên vừa đến chiều qua cho vài ngày leo núi đá. Cô có vô tình đưa họ vào nguy hiểm?

    Ít nhất Mimi và hai cậu bé đã ra ngoài lúc này. Bà dắt Tucker và Tanner đi dạo, nói với chúng rằng bà đang cho chúng một cơ hội khác chứng minh rằng chúng biết cách cư xử, và chúng để bà yên bây giờ… Tất nhiên, mẹ cô không bao giờ kết thúc theo cách đấy, nhưng là một đứa con Cate hình dung ra để mẹ cô dịu đi lần thứ hai sẽ nhanh chóng gây ra ngày tận thế. Tucker và Tanner đã nhìn ra độ nghiêm trọng của sự việc đúng lúc. Cate chỉ hy vọng cuộc dạo chơi kéo dài.

    Có khả năng là hai gã đàn ông này không liên quan gì tới Jeffrey Layton. Cate không hoàn toàn bác bỏ ý tưởng rằng trí tưởng tượng của cô đang bỏ chạy khỏi cô. Giọng nói trên điện thoại giống nhau, không có nghĩa là các cuộc gọi đến từ cùng một người – mặc dù màn hình hiển thị một lần nữa không hiện số người gọi. Cô cảm thấy thật ngớ ngẩn khi để bản thân nghĩ điều gì đó như mối họa đang diễn ra, đồng thời cô cũng cần cảnh giác.

    Hai gã đàn ông hoàn toàn lịch sự. Gã già hơn, Mellor, có vẻ lúng túng trong bộ vest thắt cà vạt, nhưng bản thân nó không nói lên điều gì. Có thể gã có một cuộc họp làm ăn, bay tới đây, và chưa có cơ hội thay đổi sang thường phục. Gã còn lại, Huxley, cao ráo và bảnh trai, đang tìm người ăn nằm với mình. Gã dò xét cô, nhưng cô không phản ứng nên gã bỏ qua nó thay vì tiến tới. Có thể họ có một lý do hoàn toàn vô hại cho việc ở đây—

    Đó là nơi ý nghĩ của cô quay trở về với bản thân họ. Trail Stop không nằm trên trục đường chính; mọi người đến đây đều có chủ đích; họ không thể ghé qua nơi nào khác trên đường đi cả. Nếu Huxley và Mellor không tới đây tìm Jeffrey Layton, thì tại sao họ ở đây? Những vị khách thông thường của cô đều là những gia đình đi nghỉ, người đi bộ đường dài, vài cặp vợ chồng lãng mạn trốn tránh con cái, ngư dân, thợ săn và những người leo núi đá. Cô đánh cược bằng ngôi nhà rằng hai gã này không phải ngư dân, thợ săn hay người leo núi, vì họ không mang theo bất kỳ thiết bị hay dụng cụ nào. Họ cũng không phải nhân tình – không sau cái cách Huxley nhìn cô như thế. Người đi bộ đường dài, có thể, nhưng cô vẫn ngờ ngợ. Cô không thấy họ mang theo giầy đi bộ, gậy đi bộ, ba lô hay bất cứ đồ dùng quan trọng nào mà người đi bộ mang theo khi họ chuẩn bị đi vào vùng đất xa xôi hẻo lánh.

    Lý giải lô gíc duy nhất về sự hiện diện của họ là vì Layton – và cô không biết phải làm gì.

    Cô đi vào bếp, nơi cô bắt đầu làm một mẻ bánh bơ đậu phộng cho các cậu bé. Neenah Dase đang ngồi ở bàn, nhấm nháp tách trà. Buôn bán ở cửa hàng thường chậm, nên Neenah đã treo một tấm biển lên cửa báo rằng bà đang ở chỗ Cate; ai cần thực phẩm sẽ biết bà ở đâu.

    Neenah là một người bản xứ, sinh ra và lớn lên ở Trail Stop. Cha của Neenah đã mở cửa hàng thực phẩm hơn năm mươi năm trước. Chị gái bà không thích cuộc sống nơi miền quê tí nào, nên đã “lên phố” ngay khi bà học xong phổ thông; giờ bà còn sống, rất hạnh phúc, ở Milwaukee. Cate không biết câu chuyện của Neenah, ngoài một chút về bà từng là một bà sơ – hoặc người mới đi tu (Cate không biết ai đó nếu từng là một bà sơ chính thức sau khi dời khỏi dòng tu thì được xếp vào thứ bậc gì) – người đã trở về nhà mười lăm năm trước và tiếp quản các hoạt động thường ngày của cửa hàng thực phẩm. Khi cha mẹ bà qua đời, Neenah thừa kế lại cửa hàng. Bà vẫn chưa kết hôn và, theo hiểu biết của Cate, chưa từng hẹn hò.

    Neenah là một trong những người điềm tĩnh, ôn hòa nhất mà cô từng gặp. Mái tóc màu nâu nhạt của bà hòa cùng sắc xám tro thành thử như ánh bạc. Đôi mắt bà xanh như nước hồ, còn làn da trắng tựa như sứ. Bà không đẹp; hàm quá vuông vức, các đặc điểm không cân đối, nhưng bà là một người khiến bạn mỉm cười khi nghĩ về.

    Cate thích nhiều người ở Trail Stop, nhưng Neenah và Sherry là những người gần gũi nhất. Cả hai bọn họ đều là người dễ chịu khi ở bên – Sherry thì quá lạc quan, Neenah thì quá ôn hòa.

    Ôn hòa, tuy vậy, không có nghĩa là thiếu những cảm xúc thông thường. Cate ngồi xuống bàn và lên tiếng, “Cháu đang lo về hai người khách mới.”

    “Họ là ai?”

    Neenah dừng ngay lại tách trà trên môi. “Cháu sợ phải ở cùng nhà với họ à?”

    “Không phải theo cách cô nghĩ.” Cate xoa xoa trán. “Cháu không rõ nếu cô biết—“ Vì Trail Stop rất nhỏ, tin đồn dường như lan nhanh như tin nhắn tức thì. “—một người khách của cháu trèo qua cửa sổ phòng ông ta ngày hôm qua, lái xe đi, và không quay lại. Ông ta bỏ lại nhiều thứ, có lẽ vì ông ta không thể mang theo một cái va li cùng lúc trèo xuống mái hiên. Hôm qua, một gã đàn ông nói là từ đại lý cho thuê xe gọi đến tìm ông ta, nhưng khi cháu gọi lại cho đại lý sau đó cập nhật cho họ ít tin tức, họ báo rằng không có ghi chép về ông Layton nào thuê xe từ họ. Rồi chiều muộn hôm qua, ai đó gọi tới đặt trước phòng cho hai người đàn ông người vừa mới tới, và cháu nghĩ là cùng người đã gọi tới giả vờ là người của đại lý cho thuê xe. Cô có nghe kịp chuyện này không đấy?”

    Neenah gật đầu, đôi mắt xanh của bà nghiêm túc.

    “Một người khách biến mất, có người đang tìm ông ta mà nói dối họ là ai, và giờ những người giống thế ở đây.”

    “Cơ bản vậy.”

    “Rõ ràng ông ta không tử tế.”

    “Và cả những người đang tìm ông ta.”

    “Gọi cảnh sát,” Neenah nói dứt khoát.

    “Rồi thông báo gì chứ? Họ không làm điều gì sai. Không điều luật nào bị xâm phạm. Cháu đã thông báo ông Layton mất tích, nhưng vì ông ấy không trốn trả hóa đơn, ngoài việc kiểm tra bệnh viện và khe núi, thì chằng có gì cho họ làm cả. Cũng tương tự tình huống ở đây. Chỉ vì cháu nghi ngờ hai gã đàn ông này thì chưa đủ lý do để cảnh sát thậm chí thẩm vấn họ.”

    Cate vươn người lấy lại tách trà của chính mình tại nơi nó đã ở, bên cạnh bát bột nhào làm bánh, và nhấp một ngụm, rồi cô hếch đầu lên khi một âm thanh mờ nhạt từ hành lang khiến mạch cô đập loạn xạ.

    “Cô nghe thấy không?” cô thì thầm khẩn cấp, đứng lên và di chuyển nhanh chóng về phía cửa mở ra hành lang.

    “Đừng—“ Neenah nói, trông báo động, nhưng Cate đã giật cánh cửa mở ra.

    Không có ai ở đó. Không ai trong hành lang, không ai trên cầu thang. Cô bước lại gần cầu thang hơn và nhìn lên; từ đó cô có thể trông thấy cánh cửa phòng số 3 và số 5, cả hai vẫn đóng. Cô thò đầu vào phòng ăn, nhưng nó cũng thế, trống không. Cô quay trở lại bếp, nơi NeeNah đang đứng ngóng ở ngưỡng cửa.

    “Không có gì.”

    “Cháu chắc chứ?”

    “Có lẽ cháu chỉ giật mình.”

    Cate đóng cửa, xoa xoa cánh tay khi nổi da gà ớn lạnh. Cô nâng tách trà lên và uống, nhưng trà đã nguội nên cô nhăn mặt. Mang tách đến chậu rửa, cô đổ phần trà còn lại đi.

    “Tôi không nghe thấy gì, nhưng cháu quen thuộc hơn với tiếng động trong nhà mình. Có thể nào nó chỉ là một tiếng cọt kẹt?”

    Cate tua lại âm thanh trong đầu. “Nó không giống một tiếng cọt kẹt; Nó giống ai đó chạm nhẹ vào tường hơn.”

    Cô không an lòng để ngồi xuống lần nữa, nên cô tiếp tục dùng muỗng múc bột nhào và thả những cục bột lên khay, rồi đập dẹt chúng, tạo hình bột bằng cái xẻng rán.

    “Như cháu đã nói, có thể cháu chỉ giật mình. Âm thanh có thể đến từ bên ngoài.”

    Bên ngoài cửa bếp khép kín, Goss âm thầm bước ra khỏi nơi ẩn núp, đầy đồ chơi vương vãi trên sàn. Đó là một cuộc trò chuyện thân mật, nhưng gã đã học được vài điều quan trọng. Đi lên cầu thang, gã đặt chân ở gần mép ngoài của bậc, kiểm tra mỗi bước trước khi dồn toàn bộ trọng lượng xuống, và gã lên tới đỉnh mà không phát ra tiếng rít phản bội nào. Gã không gõ cửa phòng Toxtel, chỉ mở nó và trượt vào bên trong. Khi gã xoay người lại, gã nhìn xuống nòng súng khẩu Taurus.

    Toxtel cau có khi hạ cánh tay. “Anh đang cố chết hả?”

    “Tôi nghe trộm được ả Nightingale nói chuyện với người đàn bà khác dưới gác,” gã giải thích với tông giọng nhỏ, khẩn cấp. “Ả nói về chúng ta. Ả đề cập tới việc gọi cho bọn cớm.”

    Đó không chính xác những gì cô nói, nhưng đây là một cơ hội gã không có ý định từ bỏ.

    “Cứt thật! Chúng ta cần tìm đồ của Layton rồi chuồn khỏi đây.”

    Goss đã mong Toxtel có phản ứng như thế. Cả gã và Toxtel không muốn, nhưng chúng đã đăng kí dưới những tên giả mạo và rằng, cùng với hành động biến mất của Layton, có thể đánh một đòn khả nghi vào lũ cảnh sát địa phương quê mùa. Faulkner sẽ bị chọc tức tới không thể tả được nếu một tên cớm quê mùa cục mịch truy ra hắn từ chúng, thậm chí tệ hơn, Bandini sẽ cáu tiết hơn vì chúng thu hút sự chú ý tới Layton. Trong tình huống như này, cẩn thận chui qua cửa sổ và chuồn lẹ là cấp thiết.

    Toxtel bắt đầu ném những thứ mà gã đã dỡ trở lại túi xách. Goss đi tới cánh cửa bên cạnh và làm giống thế. Lột vỏ của một trong những chiếc gối căng phồng trên giường, gã lau chùi mọi bề mặt mà gã đã chạm vào, bao gồm cả quả đấm cửa. Mọi thứ có thể không in dấu gì gã hy vọng, có thể có, nhưng gã thấy cần phải thận trọng. Bây giờ, nếu Toxtel chỉ leo thang theo sự mất mát không bù lại được này –

    Chưa đầy hai phút sau, gã quay lại phòng Toxtel, chúng gặp nhau trong hành lang.

    “Họ là những ai?” Toxtel thì thầm. Khẩu Taurus nằm trong tay.

    Goss ngó qua lan can cầu thang và chỉ. “Cánh cửa đó. Cái mở là phòng ăn, nên cái cạnh đó có lẽ là nhà bếp.” Như Toxtel, gã giữ giọng mình thấp xuống.

    “Bếp. Thế nghĩa là có những con dao.” Vì vũ khí là thứ gì đó sẵn có, chúng phải được coi như một nhân tố, nên Toxtel sẽ cảnh giác hơn. “Còn ai khác trong nhà không?”

    “Không trẻ con à?”

    “Đồ chơi trong căn phòng nhỏ dưới gác, nhưng không thấy trẻ con. Có lẽ ở trường.”

    Lặng lẽ chúng mang túi xách xuống gác, đặt nó ở cửa chính để chúng có thể lấy trên đường ra. Tĩnh mạch của Goss bị đốt cháy với chất adrenaline. Vài cái xác; một khoản thanh toán thẻ tín dụng có thể không dẫn trực tiếp tới Faulkner, nhưng một tên cớm thông minh cuối cùng sẽ đào đủ sâu tìm ra hắn; và với Bandini một công việc làm hỏng… sự việc không thể nào ngọt ngào hơn thế. Và ngón tay của Toxtel, không phải của gã, ở trên cò súng. Ngay cả nếu gã bị bắt trong cuộc điều tra, gã có thể biện hộ, bỏ lại Toxtel, và trở lại là một kẻ tự do trong vài năm. Gã sẽ phải đổi tên rồi biến mất lần nữa, nhưng thế không phải một ý tưởng lớn lao. Gã đã mệt mỏi vì là Kennon Goss rồi.

    Ra hiệu cho Goss ra sau lưng mình, với vũ khí trong tay, Toxtel đẩy cửa bếp mở.

    “Xin lỗi làm theo cách này, các quý cô,” gã bình tĩnh nói, “nhưng cô có vài thứ chúng tôi muốn, cô Nightingale.”

    Cate đông cứng người, một muỗng đầy bột bánh trong tay cô. Gã đàn ông lớn tuổi, mặc bộ vest đứng ngay bên trong cánh cửa, một vũ khí màu đen xấu xí trong tay. Ý nghĩ duy nhất nhảy vào đầu cô là một lời cầu nguyện tuyệt vọng: Lạy Chúa, làm ơn đừng đưa mẹ và bọn trẻ quay về ngay lúc này!

    Vẻ mặt Neenah đờ ra một thoáng, và bà cũng đóng băng, với tách trà vẫn còn đang được cầm.

    “C-cái gì?” Cate lắp bắp.

    “Đồ đạc mà Layton để lại đây. Chúng tôi cần nó. Đưa nó ra đây và sẽ không có vấn đề gì.”

    Cate cảm giác não mình bị sa lầy trong cát lún. Hoàn toàn không tin vào chuyện đang xảy ra, cô lắc đầu.

    “Tôi cho rằng cô sẽ,” Mellor nói nhẹ nhàng. Vũ khí trong tay gã dao động, rồi chĩa ngay vào đầu cô. Cô nhìn thấy được cái lỗ đen của họng súng.

    “Không, ý tôi không phải” – cô nuốt vào – “tất nhiên-“

    “Có người tới” một tiếng kêu nhẹ phát ra, cô nghĩ mình ngất xỉu mất. Lạy Chúa, lạy Chúa, làm ơn đừng là mẹ và bọn trẻ--“Một gã trong chiếc xe tải cũ.”

    “Xem là ai,” Mellor ngắt lời, chuyển vũ khí, chĩa nó vào Neenah, “và tống khứ hắn đi.”

    Cate quay đầu khi nghe tiếng lốp xe lạo xạo trên đá dăm bên ngoài cửa sổ nhà bếp. Cô nhận ra chiếc xe tải, rồi một dáng người cao gầy chui ra khỏi nó. Sự giải thoát lấn át nỗi hoảng sợ. Cô thả rơi chiếc muỗng vào bát, bám lấy mép bàn khi đầu gối cô dọa quỵ xuống.

    “Là – là người đàn ông chăm chỉ.”

    “Tại sao hắn ta ở đây?”

    Trong một khoảnh khắc cô bất động; rồi cô cho phép bản thân một chút run rẩy.

    “Lá thư. Ông ấy đến đây lấy thư. Ông ấy đang vào thị trấn.”

    Mellor vươn ra chụp lấy cổ áo sơ mi của Neenah, kéo bà ra khỏi ghế, ra ngoài và vào phòng ăn.

    “Tống khứ hắn đi,” gã cảnh báo Cate lần nữa khi những bước chân phát ra tiếng trên hiên nhà bằng gỗ, rồi tiếng gõ cửa nhà bếp. Mellor kéo cánh cửa thông ra hành lang đóng ngay lại.

    Da đầu cô như bị kim châm với nỗi sợ hãi, cô nghĩ tóc mình dựng đứng lên mất, nhưng cô phải giữ nó lại hoặc gã đàn ông kia sẽ giết Neenah, cô biết gã sẽ. Dù sao, gã có thể giết cả hai bọn họ, chỉ để mua vui, hoặc để loại bỏ nhân chứng – người nhận ra được chúng. Họ cần giúp đỡ, nhưng với Mellor đứng đó lắng nghe mọi điều cô nói, cô không biết mình làm được gì, làm thế nào cô đánh động cho ông Harris mà Mellor không phát hiện.

    Cố gắng luyện cho khuôn mặt không còn trống rỗng, cô mở cửa.

    “Tôi đang trên đường vào thị trấn,” ông Harris nói khẽ, nhìn xuống khi gò má bắt đầu chuyển màu. “Cô đã xong thư chưa?”

    “Tôi cần dán tem nữa,” cô trả lời, đấu tranh giữ giọng mình khỏi run. “Sẽ không mất đến một phút đâu.”

    Cô không mời ông vào trong như thường làm, mà lao vào hành lang, nơi bàn làm việc được kê gần cầu thang. Mellor giật Neenah khỏi lối, dí nòng súng vào thái dương bà. Qua khóe mắt, Cate nhìn thấy tên còn lại, Huxley, ở cửa chính.

    Với bàn tay lẩy bẩy, Cate chộp lấy bốn bì thư, vội vã dán tem lên, rồi lao trở ra.

    “Xin lỗi bắt ông đợi,” cô nói khi đưa những lá thư ra ngoài cửa cho ông Harris.

    Ông nhìn xuống lá thư, mái tóc vàng lộn xộn của ông rũ xuống phủ lên đôi mắt, và ông cầm lấy chúng.

    “Không sao,” ông nói. “Tôi sẽ mang một ổ khóa mới qua khi tôi quay lại.”

    Ông quay đi, bước xuống bậc cấp, chui vào xe tải, lùi khỏi lối xe chạy.

    Cate đóng cửa, dựa đầu vào khung cửa. Ông ấy không nhận thấy gì hết. Thế là đi tong hy vọng được cứu giúp.

    “Tốt lắm,” Mellor nói, mở cửa phía hành lang rộng hơn. “Giờ, đồ đạc của Layton ở đâu?”

    Cô quay người lại, hổn hển hít vào một ngụm nhỏ không khí khi sự đè nén siết chặt hai lá phổi. Gã đã chuyển bàn tay sang túm tóc Neenah, kéo đầu bà ra sau trong một góc độ không tự nhiên, khiến bà mất thăng bằng, mà không thèm giúp đỡ. Neenah cũng đang thở hổn hển, miệng há ra, đôi mắt mở lớn khiếp sợ.

    Cate cố gắng suy nghĩ, bắt bộ não đang căng phồng của mình hoạt động. Điều gì là tốt nhất, hoãn lại hay đưa chúng thứ chúng muốn và hy vọng chúng chỉ rời đi? Nếu cô hoãn lại, điều gì tác động lên họ? Bất cứ điều hoãn binh nào sẽ chỉ làm tăng cơ hội mẹ cô và con cô bước vào ngay đây, nên cô sẽ làm bất cứ điều gì, bất cứ điều gì, để ngăn chặn chuyện đó xảy ra.

    “Trên—gác,” cô thở ngắt quãng. “Trên gác mái.”

    Mellor kéo Neenah lại, hất đầu. “Chỉ cho chúng tôi.”

    Đầu gối cô run rẩy dữ dội nên Cate gần như không thể bước nổi, càng ít hơn khả năng trèo lên trên gác, nhưng cái liếc nhìn sợ hãi cô bắn ra sau mình vào Neenah nói với cô rằng Neenah cũng trong tình trạng không tốt hơn nhiều. Bạn cô rất bình tĩnh, không phát ra tiếng kêu nào ngoại trừ hơi thở hoảng loạn của bà, nhưng bà rõ ràng có run.

    Cate bám chặt vào lan can, đu người lên, đôi chân quyết tâm nâng đỡ bản thân cô. Cầu thang tưởng chừng chưa bao giờ dốc đến thế, cao đến thế. Trần ngôi nhà Victoria cao mười hai foot, cầu thang cao hơn bình thường, nên mỗi người cần tập trung để khỏi bị trượt ngã.

    “Nhanh lên,” gã đàn ông sau cô càu nhàu, đẩy mạnh Neenah về phía trước đến nỗi bà va vào chân Cate làm cả hai bị ngã.

    “Dừng lại đi!” Cate nổi cáu, quay lộn lại đối mặt với gã, một cơn giận dữ vô cớ đốt cháy nỗi hoảng sợ. “Ông chỉ làm mọi thứ khó khăn hơn thôi. Ông có muốn cái va li khỉ gió kia hay không đây?”

    Giọng nói của cô khác xa với cô, nhưng giai điệu lại quen thuộc đến kỳ lạ. Với một cảm xúc mờ nhạt của cơn sốc, cô nhận ra rằng nó là cùng giai điệu cô dùng với các cậu bé khi chúng trở nên quá ngang bướng.

    Gã đàn ông nhìn chằm chằm trở lại cô, đôi mắt không có biểu hiện gì.

    “Đi tiếp đi.”

    “Ông dừng đẩy được rồi đấy trước khi ông làm tất cả chúng tôi gãy cổ!”

    Không một chút màu sắc trên khuôn mặt của Neenah, ngay cả môi bà cũng trắng bệch, còn đôi mắt mở lớn tới nỗi màu trắng lấn át tròng mắt màu xanh. Bà đã tự hỏi Cate đang nghĩ gì, sao lại dám ngắt lời kẻ đang dí súng vào thái dương bà, nhưng vẫn không một tiếng rên rỉ thoát ra khỏi miệng. Ồ, Chúa ơi, Cate nghĩ trong nỗi tuyệt vọng, mình đang làm cái gì đây? Không nói thêm lời nào cô quay lại và bắt đầu leo tiếp, nhưng ít nhất cơn giận dữ tuy có không lâu đã giúp đầu gối cô vững vàng.

    Trên đỉnh cầu thang cô rẽ phải rồi dẫn lối về phía cuối hành lang mờ tối, tới cánh cửa cầu thang lên gác mái. Họ có thể bị giết ở trên đây, cô nghĩ khi máu đông cứng. Sự chậm trễ trong việc tìm thấy thi thể họ sẽ cho Mellor và bạn gã nhiều thời gian trốn thoát.

    Chuyện gì xảy đến với con cô khi cô bị giết? Chúng sẽ không thiếu tình thương; cha mẹ cô sẽ chăm sóc chúng, hoặc Patrick và Andie, mặc dù họ đang mong chờ đứa con của chính họ, nhưng cuộc đời của chúng sẽ mãi mãi bị in dấu của bạo lực. Chúng sẽ nhớ cô được bao nhiêu? Trong mười năm, chúng sẽ có tí ký ức nào về cô? Chúng có thực sự nhận ra cô yêu chúng biết chừng nào?

    Khốn kiếp Jeffrey Layton mang thứ này đến ngôi nhà cô! Ý nghĩ của cô sục sôi, bất ngờ đầy bạo lực. Nếu cô có được ông ta trong tay, cô sẽ choảng ông ta tới chết.

    Cẩn thận họ trèo lên cầu thang gác mái hẹp và dốc. Đôi mắt nheo lại, Mellor dò xét không gian xếp đầy đồ khi gã đẩy Neenah về phía trước.

    “Nó đâu?”

    “Đây.”

    Cate tới chỗ va li, kéo nó ra. Cô chuẩn bị nói với gã rằng bất cứ thứ gã đang tìm gì, chỉ phí thời gian thôi, vì chẳng có gì trong va li ngoại trừ quần áo, rồi cô nuốt lại từ ngữ. Có lẽ sẽ tốt hơn để gã nghĩ rằng đã có thứ mình muốn. Có lẽ gã không giết họ; có lẽ gã sẽ dời đi và để cô và Neenah ở lại đây.

    Nắm chặt lấy tay xách của va li, cô quay lại đối mặt với gã, rồi cô đông cứng.

    Calvin Harris đứng trên đỉnh cầu thang, một khẩu súng săn tỳ trên vai ông khi ông nhắm trực tiếp vào gáy Mellor.

    Cate giật lùi lại, đầu cô va vào trần nhà dốc khi cô theo bản năng tránh ra khỏi đường đạn.

    Cảnh báo bởi hành động của cô, Mellor quay ngoắt lại, kéo theo Neenah.

    “Thả bà ấy ra,” người đàn ông chăm chỉ nói bình tĩnh. Thứ vũ khí to lớn trong bàn tay ông vững như bàn thạch, má ông ghì chặt báng súng, còn đôi mắt mà cô từng nghĩ trước đây là phờ phạc thì giờ xanh xám và lạnh như băng.

    Mellor hơi cười.

    “Đó là một khẩu súng săn. Mày giết tao, mày cũng giết bà ta. Một lựa chọn không tốt về vũ khí.”

    Nụ cười của Calvin địch lại với nụ cười của Mellor.

    “Ngoại trừ nó được nạp với một viên đạn lớn, không phải các viên đạn hoa cà. Với khoảng cách này, tao sẽ thổi bay đầu mày mà không động tí nào đến Neenah.”

    “Ừ, chắc rồi. Đặt súng xuống, hoặc bà ta chết.”

    “Phân tích tình hình đi,” Calvin nói nhẹ nhàng. “Bạn mày không lên đây giúp mày. Mày có thể xoay lại súng, nhưng không đủ thời gian dừng tao khỏi bóp cò đâu. Tao dùng súng này săn hươu, nên hãy tin khi tao nói là nó được nạp đạn cỡ lớn, thay vì loại viên nhỏ. Mày có thể có tao, mày có thể có Neenah, nhưng điểm mấu chốt là mày cũng sẽ chết. Vậy chúng ta hoặc có hai cái xác, hoặc mọi người đều sống và mày có được bạn mày rồi rời khỏi đây.

    “Ông có thể lấy cả va li nữa,” Cate khuyên. Bất cứ chuyện gì để chúng đừng quay lại.

    Mellor hít sâu khi nhẩm phép tính. Thực tế là, chúng đang bế tắc, cách duy nhất dời khỏi đây mà còn sống là hạ vũ khí. Cate cố gắng bám lấy thứ sẽ xuyên qua đầu, nhưng tất cả cô có thể nghĩ là gã phải tin rằng Calvin sẽ không bắn gã sau khi gã bị tước vũ khí. Bản thân Mellor với bản chất máu lạnh có khả năng giết hết bọn họ, nhưng Calvin thì không.

    Rất thận trọng, Mellor thả Neenah và click vào chốt an toàn. Bà sụp mình xuống sàn, không để đứng nổi. Cate bắt đầu bước về phía bà, nhưng Calvin ném cho cô cái liếc lạnh băng, nên cô dừng lại, muộn màng hiểu rằng ông không muốn cô gần hơn với Mellor.

    “Giờ thả nó xuống,” Calvin hướng dẫn.

    Vũ khí chạm sàn đánh huỵch một cái. Cate co rúm người, nghĩ rằng nó sẽ nổ, nhưng không có gì xảy ra.

    “Lấy va li và rời khỏi.”

    Từ từ, không tạo ra cử động đột ngột, Mellor lấy va li từ Cate. Cate nhìn chằm chằm vào gã, đôi mắt mở to. Ánh nhìn của họ thoáng gặp nhau. Đôi mắt gã vẫn bình tĩnh và vô cảm, như thể tất cả chuyện này là một công việc thường ngày.

    “Cate,” Calvin nói. Cô chớp mắt với ông. “Nhặt khẩu súng lục lên.”

    Cô nhoài người đến khẩu súng, rón rén nhặt nó lên. Cô chưa từng chạm vào một khẩu súng trước đây, nên lấy làm ngạc nhiên về trọng lượng của nó.

    “Nhìn thấy cái chốt bên trái không? Đẩy nó.”

    Giữ khẩu súng lục trong bàn tay phải, cô dùng ngón trỏ bàn tay trái đẩy cái chốt.

    “Được rồi,” Calvin nói, “cô đã mở chốt an toàn. Đừng kéo cò súng trừ khi cô có ý bắn. Xuống cầu thang trước, và ở cách đủ xa để hắn không với được cô. Chúng tôi sẽ ở sau cô. Đi qua đầu cầu thang, giữ khẩu súng chĩa vào hắn cho tới khi tôi ra khỏi cầu thang và ở sau hắn lần nữa. Được chứ?”

    Sự hợp lý đầy ý nghĩa. Nếu ông ấy để Mellor đi trước, hoặc là gã sẽ đủ gần để chộp lấy khẩu súng săn, hoặc là Mellor sẽ ra khỏi tầm ngắm một vài giây sau khi gã chạm tới bậc thang cuối cùng. Cate không hình dung điều Calvin nghĩ Mellor làm trong vài giây đó, nhưng nếu ông nghĩ có nguy hiểm, cô sẵn sàng đi cùng ông.

    Gã đàn ông kia, Huxley, đâu nhỉ? Calvin đã làm gì với gã?

    Cô xuống gác nhanh hơn nhiều so với lúc lên, không hoàn toàn chủ định. Đầu gối cô còn loạng choạng và cô nửa chạy nửa vấp ngã. Cô siết chặt vũ khí suốt trong lúc gửi đi một lời cầu nguyện rằng Mellor đừng có cố gắng làm chuyện gì, vì cô không có ý tưởng điều mình sẽ làm. Cô đi qua đầu cầu thang và quay lại, chĩa nòng súng vào Mellor, dùng cả hai bàn tay giữ vũ khí khi gắng gượng đứng vững. Nó vẫn còn lắc lư do cô vẫn run rẩy, nhưng cô nghĩ – à, cô hy vọng – cô nhắm nó đủ gần vào gã nên gã sẽ không có cơ hội nào.

    Calvin theo sau Mellor ở một khoảng cách an toàn, ngược với tình trạng run rẩy của cô, ông lạnh như băng và sự căng thẳng không thể thấm qua được.

    “Đi tiếp,” ông nhắc Mellor bằng cùng tông giọng nhân nhượng. Họ hướng xuống cầu thang.

    Một lúc sau Cate di chuyển lùi về sau. Rồi Neenah xuống cầu thang gác mái, chuyển động chậm chạp, đầu tiên bám vào lan can rồi đến khung cửa. Ánh mắt bà gặp mắt Cate và bà nuốt vào.

    “Tôi ổn,” bà nói với âm điệu mỏng manh. “Đi giúp Cal.”

    Cate xuống cầu thang tới tầng trệt. Cô nhìn thấy gã đàn ông còn lại đang nằm trên sàn phía trước cửa chính, hai tay gã bị buộc lại phía sau. Gã lảo đảo cố đứng dậy.

    “Tôi không thể xoay sở với anh ta và cả ba túi xách cùng lúc được,” Mellor nói.

    “Vậy cởi trói cho hắn. Hắn có thể đi bộ.” Calvin giữ khẩu súng săn trên vai.

    Mellor cởi dây buộc cho Huxley và giúp gã đứng lên. Gã đàn ông kia loạng choạng, nhưng đứng thẳng được. Đôi mắt màu xanh của gã trừng trừng đầy thù hận vào Calvin, nhưng gã cũng phải giữ lại mọi nỗ lực vì tất cả phản ứng mà Calvin đã thể hiện.

    Giữa họ, hai gã đàn ông xách ba cái túi và đi ra ngoài hiên trước, Huxley vấp ngã nhưng điều khiển đi tiếp. Theo sau, Calvin bước ra hàng hiên, Cate theo dõi chúng nhét túi vào chiếc Tahoe, rồi leo lên ghế trước.

    Ngay trước khi Mellor làm quay động cơ, cô nghe thấy âm thanh trong trẻo, mờ nhạt của tiếng trẻ con, và biết rằng mẹ mình đang trở về cùng bọn trẻ. Cô gần như bật khóc với nhận thức của việc họ suýt bước vào một tình huống chết người.

    Huxley bắn cho bọn họ một tia nhìn chết người khi chiếc Tahoe lăn bánh qua. Cô và Calvin nhìn theo cho tới khi nó ra khỏi tầm nhìn.

    “Cô không sao chứ?” cuối cùng ông hỏi, vẫn nhìn xuống đường. Cô băn khoăn liệu có phải ông cho rằng chúng sẽ quay lại.

    “Tôi ổn.” Giọng cô nhỏ nhẹ với cơn sốc, rất khó nghe. Cô hắng giọng và nhắc lại. “Tôi ổn. Neenah—“

    “Tôi không sao đâu,” Neenah lên tiếng, xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Bà vẫn nhợt nhạt, còn run rẩy, nhưng không phải vịn vào thứ gì để bước đi nữa. “Chỉ lẩy bẩy thôi, tôi chắc thế. Chúng đi chưa?”

    “Rồi,” Calvin nói. Ông cầm khẩu súng săn dễ dàng trong một tay, nòng súng bây giờ chĩa xuống, khi ông trao cho Cate ánh nhìn dò xét. “Đó là một ý tưởng hay, quay ngược những con tem.”

    Nó đã làm việc; nỗ lực nhỏ bé của cô nhằm phát đi tín hiệu đã có tác dụng!

    “Tôi đọc… tôi đọc được rằng một lá cờ treo ngược là một tín hiệu của tai họa.”

    Đầu ông hạ xuống trong cái gật đầu ngắn gọn.

    “Cô quá căng thẳng và run rẩy nữa. Tôi lái xe xuống đường, rồi đi bộ vòng lại, chỉ để kiểm tra và chắc chắn mọi chuyện vẫn ổn.”

    “Tôi không nghĩ ông chú ý.”

    Ông liếc nhìn mấy bì thư, xáo trộn nó trong tay, nhưng thậm chí không chớp mắt thể hiện phản ứng nào.

    “Tôi có chú ý.”

    Sự bĩnh tĩnh của ông làm cô cảm thấy sự run rẩy của mình còn sâu sắc hơn. Cô nhìn Neenah và nhận ra bà cũng thế, run rẩy khi bà cố gắng giữ mọi thứ với nhau. Với một tiếng nấc nghẹn ngào Cate thả rơi khẩu súng cô đang cầm và ôm chặt lấy Neenah, họ bám vào nhau để được thư giãn và cùng chống đỡ. Cô nhận thấy Calvin vòng cánh tay ông quanh cả hai bọn họ, thì thầm gì đó nhẹ nhàng và dễ chịu, nếu cô có thể hiểu những gì ông đang nói, nhưng thật sự thì từ ngữ đâu có quan trọng. Một phần trí não cô cảm nhận rằng ông vẫn giữ khẩu súng săn, và điều đó hoàn toàn thoải mái. Một lúc lâu, họ dựa vào sức mạnh đáng ngạc nhiên của ông; rồi cô nghe thấy tiếng hét của Tucker khi cậu bé chạy đua về phía họ, Tanner giữ tốc độ bên cạnh anh mình.

    “Chú Hawwis! Đó là một khẩu súng phải không ạ?”

    Giọng nói của hai đứa con đã xua đi căng thẳng và lau những giọt nước thấm đẫm bên dưới hàng mi của Cate, cô di chuyển xuống bậc cấp rồi ôm lấy chúng, kéo chúng thật chặt vào lòng mình.

     
    Chỉnh sửa cuối: 15/7/15
  4. meocontb

    meocontb Lớp 2

    @halucky ơi, có nhiều chỗ bạn dịch anh Cal là ông nghe già quá, cảm thấy như là ông của chị cate ấy. Cảm ơn bạn.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky thích bài này.
  5. halucky

    halucky Lớp 11

    @meocontb à, mục đích của tác giả là thế đấy. Bạn đợi tiếp phần sau sẽ được lý giải tại sao lại gọi là thế nhé. Lúc đầu mình cũng băn khoăn về cách gọi. Mình gọi theo tiến triển tâm lý nhân vật Cate. Lúc đầu, Cate luôn gọi là Mr. Harriss, sau này mới chuyển sang thành Calvin, sắp rồi
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    ttha, uyenki, lethuyvan7 and 4 others like this.
  6. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 9 (halucky)

    GOSS VÀ TOXTEL LÁI SUỐT CON ĐƯỜNG TRỞ RA ĐƯỜNG TRỤC CHÍNH mà không nói lời nào. Goss bằng lòng để sự im lặng tiếp diễn bởi vì đầu gã đau như búa bổ và cái tôi của gã bị đập bẹp như một con gián. Làm thế quái nào mà cái tên chăm chỉ chết tiệt kia tóm được gã từ phía sau như thế? Gã không nhớ đã nghe thấy gì, nhìn thấy điều gì, chỉ thấy sau gáy nổ tung với cơn đau và ánh sáng vụt tắt. Tên khốn hẳn phải đánh vào gã bằng báng súng.

    Điều tuyệt nhất về Toxtel là gã không tán chuyện. Gã không lãng phí thời giờ hỏi cái khỉ gió gì đã xảy ra, mặc dù, hiển nhiên là có chuyện.

    Cảm giác buồn nôn dâng lên trong cổ họng Goss, gã đành nói, “Tấp vào lề, tôi cần phải nôn.”

    Toxtel đánh chiếc Tahoe vào mép đường và dừng lại. Hai bánh trái vẫn còn trên lòng đường, nhưng vì lề đường không rộng nên khi chui ra ngoài, Goss gần như rơi vào một cái rãnh, hay một cái khe hoặc bất cứ cái khỉ gì mà họ gọi. Lấy lại thăng bằng nhờ một bàn tay bám vào cạnh chiếc SUV, gã lần đường tới tấm chắn chống va phía đuôi xe, cúi xuống với hai bàn tay giữ chặt trên đầu gối.

    Chính vị trí đó khiến cơn đau đầu của gã thêm tồi tệ, tất cả những thân cây, bụi cây và đống phân xanh lè gây ra một cơn chóng mặt dai dẳng, khó chịu.

    Gã nghe tiếng cửa xe bên ghế tài xế đóng sầm lại, rồi Toxtel đi vòng tới bên cạnh.

    “Anh ổn chứ?”

    “Choáng,” Goss điều khiển để nói. Gã hít vào hơi thở sâu, ngay cơn buồn nôn. Để cái tên chăm chỉ nhảy vào gã đã đủ tệ rồi, gã không muốn nôn trước mặt Toxel.

    Toxtel không chính xác là một người biết động viên khích lệ. Ngay cả một lời ủn ỉn cảm thông gã cũng không có. Thay vào đó gã mở cửa cốp sau và kéo va li của Layton ra.

    “Xem chúng ta có gì,” gã nói. “Tôi muốn chắc chắn ổ di động ở đây trước khi gọi cho Faulkner.”

    Goss xoay sở để đứng thẳng khi Toxtel mở cái túi xách, bắt đầu lôi mọi thứ ra. Cả bộ quần áo được kiểm tra, từng cái túi từng miếng đáp bằng nỉ, rồi vứt hết xuống đất. Một cái túi ni lông mua hàng đựng một chiếc Tracfone, trông có vẻ đầy hứa hẹn, nhưng khi Toxtel lật mặt sau lại, nó cho thấy không có gì thú vị hơn là cục pin. Kiên quyết, gã tháo toàn bộ chiếc điện thoại và vẫn không thu được gì.

    Có một đôi giày wingtips màu đen trong va li, Toxtel chuyển sự chú ý đến nó. Cầm từng chiếc giày với phần gót chìa ra, gã đập vào khung xe cho tới khi gót giày long ra. Không có ổ di động.

    Tiếp đến là bản thân cái va li. Toxtel bóc từng lớp, rà từng inch của nó, thậm chí cắt cả quai xách để kiểm tra.

    “Mẹ nhà nó!” gã chửi, quăng cái va li đi. “Nó không có đây.”

    “Có thể Laton mang ổ di động theo. Tất cả ông ta phải làm là trượt nó vào túi thôi.” Goss nói. Gã đã làm hỏng dịp tốt này để bẫy Faulkner rơi vào kết thúc, nhưng ngay lúc này đầu gã quá đau để gã nghĩ ra một kế hoạch khác.

    “Đó là nếu ông ta không lên kế hoạch quay lại. Chết tiệt, mặc dù ông ta có thể để nó trong túi mọi lúc. Tôi sẽ tin thế, nếu không có vài thứ đáng ngờ về cái va li này.”

    “Như là gì?” Goss uể oải hỏi. “Anh vừa cắt nó ra từng mẩu, mà không tìm thấy gì.”

    “Đúng, và nó là, thứ tôi không tìm thấy khiến tôi nghĩ mụ chó cái đó không đưa hết cho chúng ta.”

    “Như là gì?” Goss hỏi lần nữa.

    “Anh có nhìn thấy dao cạo, bàn chải đánh răng, lược, lăn khử mùi, hay thứ gì giống thế không?”

    Goss suy xét lại những chi tiết rời rạc, rồi ngay cả với cơn đau đầu như búa bổ, gã đi tới kết luận rõ ràng.

    “Cô ta không đưa chúng ta mọi thứ.”

    “Phần lớn đàn ông cất cái thứ tầm phào của họ ở trong bộ cạo râu. Dù không có nhiều quần áo ở đây. Tôi nghĩ còn một va li khác.”

    “Chó chết.”

    Goss ngồi xuống tấm chắn chống va đập, thận trọng cảm nhận điểm nút sự việc ở sau gáy. Cái chạm nhẹ nhất gửi một cơn đau nhói vào sọ gã, và tia sáng nhỏ nhấp nháy nhảy nhót trước mắt gã. Một cơ hội thứ hai đang hiện diện, nhưng gã không đủ tỉnh táo để nắm bắt xem nó là gì.

    “Chúng ta không thể quay về đó,” Toxtel nói dứt khoát. “Giờ cô ta biết chúng ta, và có khả năng cô ta đã gọi cho cớm.”

    Qua màn sương mờ của cơn đau, Goss nhìn thấy tình trạng khó xử của Toxtel. Gã có thể gọi cho Faulkner và nói với hắn rằng chuyện đã thất bại, bảo hắn cử ai khác tới - nhưng thế nghĩa là bỏ việc, mà không ai trong số chúng từng bỏ việc, từng nói không thể hoàn thành công việc.

    Không chỉ là tự ái cá nhân. Chúng đã kiếm tiền bằng cách chăm sóc mọi thứ. Cả hai bọn chúng đều có tiếng giải quyết công việc mà không gây ra nhiều phiền toái, và vì thế Faulkner giao cho họ nhiều vụ hơn. Để độ tin cậy của họ trượt đi, dù chỉ một lần, sự nghi ngờ sẽ luôn ở đó. Không phải như thể chúng đang nhận lương. Chúng được hưởng phần trăm theo từng phi vụ, và vì họ nhận những vụ khó khăn hơn, tiền thù lao cũng cao hơn, nghĩa là khoản tiền mất đi cũng lớn hơn.

    “Tôi vừa manh nha một ý tưởng,” Textel nói, quay lại nhìn xuống con đường. “Để tôi nghĩ thêm chút. Trước hết, anh cần bác sĩ không?”

    “Không.” Phản ứng là tự động. Khi lời nói phát ra, Goss thầm nghĩ về tình thế, bèn nhắc lại, “Không – trừ khi tôi đi ngủ mà anh không đánh thức tôi được.”

    “Tôi không mất hàng giờ ngồi bên cạnh giường anh để đánh thức anh dậy đâu,” Toxtel nói thẳng thừng. “Tốt hơn anh nên chắc chắn mình không sao.”

    Thế mới là Toxtel: với tất cả tấm lòng.

    “Đi thôi,” Goss ngắt lời. “Cho tôi biết khi kế hoạch tuyệt vời này thành hình.”

    Vấn đề là: đi đâu đây? Ít nhất chúng cần một nơi tạm bợ để ở, mà gã không nhớ có nhìn thấy dù một nhà trọ nhếch nhác kể từ lúc hạ cánh xuống đường băng. Toxtel lấy tấm bản đồ, mở ra trên mui chiếc Tahoe, trong khi Goss lục trong đám hành lý của mình xem gã có mang theo thứ gì đó giảm đau. Bộ cạo râu của gã mang lại một vài viên thuốc giảm đau được bọc kín trong bao nhựa mà gã đã mua ở sân bay, gã mở nó kêu đánh bốp cả hai viên thuốc rồi nuốt khan chúng. Còn một chuyện khác: chúng cần thứ gì đó để ăn và uống nữa. Ít nhất một thị trấn nhỏ mà chúng đã đi qua có thể cung cấp chuyện đó, và nếu may mắn sẽ có một nhà trọ bên đường.

    “Bản đồ này không nói với tôi cái chó gì.” Toxtel gầm gừ, gấp nó lại và nhét vào trong chiếc Tahoe.

    “Anh đang tìm gì?”

    Goss hỏi khi cẩn thận lần đường quay lại cửa hành khách và chui vào. Lỡ một bước chân gã sẽ rơi xuống ít nhất một trăm feet hay hơn. Đó không phải một cú rơi thẳng, gã có lẽ mắc vào một lùm cây và dừng lại thay vì rơi xuống hết chiều dài, nhưng gã đâu muốn trải nghiệm. Có vài điều sai lầm với tất cả cái lũ ngu ngốc kia những kẻ đi thích kiểu không gian hùng vĩ ngoài này. Theo như gã lo ngại, thiên nhiên đúng là chết tiệt.

    “Tôi cần một bản đồ hiển thị những dãy núi, đại khái thế.”

    “Bản đồ địa hình,” Goss nói.

    “Ừ. Kiểu thế.”

    “Tại sao chúng ta cần tìm một ngọn núi? Cứ nhìn quanh anh xem,” gã càu nhàu, vẫy một bàn tay chỉ về thế giới bên ngoài kính chắn gió. Có rất nhiều ngọn núi ở ngoài kia. Nhìn theo bất kỳ hướng nào, chẳng có gì ngoài dãy núi chết dẫm.

    KIA KÌA!

    “Thứ tôi cần,” Toxtel nói chậm rãi, “là để tìm hiểu xem có cách nào chúng ta cô lập được chỗ đấy. Chúng ta biết chỉ có duy nhất một con đường và nó kết thúc ở đó. Chúng ta có thể phong tỏa nó nên không ai rời đi được?”

    Cơn đau đầu của Goss bỗng dưng không còn quan trọng khi gã bắt kịp ý tưởng căn bản mà Toxtel đang đề xuất. Nếu gã từng nghe về một tình huống nhiều khả năng leo thang, thì đây là nó.

    “Chúng ta cần những tấm ảnh chụp trên không nữa,” gã trầm ngâm. “Để chắc chắn rằng không có vài đường mòn mà dân địa phương dùng nhưng không được in trên bất kỳ bản đồ quốc gia nào. Địa hình khá gập ghềnh; Tôi nghĩ rằng nếu ta chặn vài điểm, phần còn lại sẽ quá ghồ ghề để chúng thoát ra.”

    Toxtel gật đầu, khuôn mặt gã đang kích thích với đôi mắt nheo lại, biểu hiện đó nói rằng gã đang dấn thân vào tiến trình của hành động. Chuyện này sẽ tốn tiền, Goss nghĩ, và thêm nhiều người. Gã và Toxtel không thể tự mình xử lý chuyện này. Và chúng cũng cần ai đó biết về khu vực, dạng người không phản bội lại chúng. Goss biết nhược điểm của mình. Gã ở nhà được xây bằng bê tông, không bụi bẩn. Đặt gã ngoài này chống lại vài kẻ thô lỗ, những kẻ thường săn hươu hay thứ gì nhảm nhí như thế, kẻ mà toàn bộ tủ đồ là quần áo cải trang, thì gã sẽ gặp bất lợi nghiêm trọng. Tài sản lớn nhất của gã là bộ não, nên gã có ý định sử dụng nó.

    “Chúng ta phải chắc chắn tất cả khách của B&B đã rời đi,” gã lẩm bẩm, nghĩ tới việc lớn tiếng. “Mọi người sẽ mong họ quay lại, mong họ gọi điện tới, vài chuyện.”

    “Làm thế nào chúng ta biết được?”

    “Ai đó sẽ phải bước vào và kiểm tra, vài người địa phương – hoặc ít nhất ai đó trông không đáng ngờ.”

    Toxtel khởi động động cơ, cài số chiếc xe. “Tôi biết người tôi có thể gọi.”

    “Anh biết người ở đây à?”

    “Không, nhưng tôi biết người biết người nào đó, nếu anh nắm được ý định của tôi.”

    Goss biết. Gã dựa cái đầu đau nhức vào miếng tựa đầu, rồi nhăn nhó với áp lực, tìm cách xoay sang bên cho tới khi gã dựa vào thành cửa sổ. Tấm kính mát lạnh, cho gã một tí nhẹ nhõm. Gã nhắm mắt. Chúng không muốn lao vào bất kỳ thứ gì; chúng nên dành thời gian suy nghĩ về mọi chuyện, đập tan các chi tiết. Gã ngủ lơ mơ tưởng tượng về các dấu tick đặt bên cạnh các mục trong một danh sách: cắt dây điện, xong; cắt dây điện thoại, xong; chặn cầu, xong; bẻ gãy cổ tên khốn chăm chỉ, xong. Giống như đếm cừu, chỉ là tốt hơn.
     
    Chỉnh sửa cuối: 15/7/15
  7. meocontb

    meocontb Lớp 2

    Cảm ơn @halucky mong chờ diễn biến của cặp Cat-Cal này. Yêu @halucky lắm bởi sự nhiệt tình và tốc độ dịch thuật của bạn.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
  8. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 10

    NGÔI NHÀ ĐẦY NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG, tất cả đều muốn biết chuyện đã xảy ra. Gần như tự động Cate mang cà phê vào và bắt đầu phục vụ, nhưng Sheila nhìn vẻ căng thẳng của con gái mình nên kiên quyết nhắc, “Ngồi đi. Mọi người có thể tự làm được.”

    Cate ngồi xuống. Tucker và Tanner cũng ở trong phòng ăn; cô thường không cho phép chúng vào khi khách hàng ở đó, nhưng lần này khác. Đây là những hàng xóm tụ tập trong lúc gặp khó khăn, không phải khách hàng. Cô quan sát biểu hiện của hai cậu bé, cố gắng xem chúng có ảnh hưởng ngầm nào không. Chúng phấn khích, nhưng đó là tất cả. Khi chúng hỏi Calvin tại sao anh cầm khẩu súng, anh nói rằng có một con rắn trên gác mái nên anh phải loại bỏ nó. Đương nhiên chúng bị cuốn hút bởi cả khẩu súng săn và con rắn, đòi được nhìn thấy cả hai, rồi chúng thất vọng vì con rắn đã bò đi. Trong chừng mực mà chúng quan tâm, tất cả chuyện này và sự phấn khích đều về con rắn – nên Cate hy vọng không có gì sai sót. Chúng chỉ không biết con rắn ám chỉ người. Giờ đây chúng ở ngay giữa mọi chuyện, ánh nhìn chăm chú của chúng nảy từ người này sang người khác khi tình huống được thảo luận.

    “Cậu nên giữ chúng lại cho tới khi một phần chúng tôi tới được đây,” Roy Edward Starkey cằn nhằn với Cal. Ông đã tám mươi bảy tuổi, và ý kiến của ông thường chỉ trích một lúc khi kẻ xâm phạm dám làm hại một người của thị trấn, kẻ đó sẽ phải bị treo lên cái cây gần nhất.

    “Có vẻ thông minh hơn là đưa thứ chúng muốn, để chúng rời khỏi đây trước khi ai đó bị thương,” Cal nói bình tĩnh.

    “Chúng ta cần gọi cho cảnh sát trưởng,” Milly Earl nói.

    “Vâng, nhưng tôi là người có khả năng bị bắt giữ nhất,” Cal chỉ ra. “Tôi đã đánh vào đầu một gã.”

    “Tôi đồng ý với Milly,” Neenah lên tiếng. “Chúng ta phải gọi cho cảnh sát ngay đi. Tôi không bị thương, nhưng tôi sợ chết khiếp.”

    “Con rắn suýt cắn mẹ à?” Tucker hỏi, lại gần và dựa vào chân cô. Đôi mắt màu xanh của nó mở to kích động.

    “Nó tới gần,” cô nói trang trọng, chải bàn tay lên mái tóc đen của cậu bé. Tanner cũng xán lại gần, không rời ánh mắt khỏi khuôn mặt cô, nó cũng nhận được một trong những cái vuốt ve dịu dàng.

    “Wow,” Tucker thở ra. “Và chú Hawwis cứu mẹ ạ?”

    “Đúng vậy.”

    “Bằng khẩu súng săn,” Tanner nhắc, âm thanh khe khẽ, khi cô không tiếp tục.

    “Ừ, chú ấy cứu mẹ bằng khẩu súng săn.”

    Roy Edward nhìn xuống hai cậu bé, bị bối rối bởi sự giống nhau của chúng, hỏi một câu chẳng ăn nhập gì, “Đứa nào là đứa nào?”

    “Dễ thôi,” Walter Earl nói với một tiếng cười. “Nếu một đứa mở miệng nói, thì đó là Tucker.”

    Mọi người cười khúc khích, nên không khí trong phòng dễ chịu đi đôi chút.

    Trái tim Cate đau nhói với tình yêu thương, một cảm giác mãnh liệt của sự chở che dâng lên trong cô. Chúng quá bé, đầu chúng nghếch lên khi chúng cố gắng bắt lấy mọi lời lẽ trong căn phòng đầy người lớn đang trò chuyện. Chúng mới bốn tuổi, khả năng lớn trong cuộc sống của chúng ngay lúc này là học cách tự mặc quần áo. Sự an toàn và sức khỏe của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào cô. Cô quay về phía Sheila và nói, “Con muốn mẹ rời đi vào ngày mai, và mang chúng đi cùng. Giữ chúng cho tới khi tất cả chuyện này lắng xuống.”

    Sheila nắm lấy tay cô, siết chặt. “Con cho rằng chúng sẽ quay lại sao?” bà hỏi, đôi mắt nheo lại. Bà đã im lặng kể từ lúc trở về từ cuộc dạo chơi cùng cháu ngoại và nhận ra con gái bà được ôm giữ bởi một người mang súng, muộn màng Cate nhận ra Sheila đang cảm nhận cảm xúc che chở của chính bà.

    “Con lo sợ,” cô thừa nhận. “Nhưng tại sao chúng sẽ quay lại? Chúng không có một lý do, vì con đã đưa chúng va li, con biết chuyện này có lẽ không hơn phản ứng với cú sốc, nhưng con sẽ cảm thấy tốt hơn nếu mẹ giữ bọn trẻ an toàn. Điều khủng khiếp nhất về toàn bộ tình hình là nghĩ rằng ba kẻ ở đằng xa kia bước vào giữa mọi thứ.” Cô cảm thấy bụng quặn đau một lần nữa, cảm giác sợ hãi này gần giống khi sự việc xảy ra. “Con không biết phải làm gì—“. Giọng cô nghẹn ngào nên cô giữ chặt hàm mình để kiểm soát những giọt nước mắt trực trào.

    “Con biết ta muốn mang bọn trẻ đi một chuyến thăm thú nhiều thế nào, nhưng hãy ngủ đi tối nay và để xem ngày mai con có còn cảm xúc đó không.” Sheila dừng lại, rồi thêm vào, “Con không biết nó làm phiền ta thế nào để chơi công bằng đâu.”

    Lời bình luận rất Sheila đó kéo Cate ra khỏi màn nước mắt, ánh nhìn cô trao cho mẹ mình chứa đầy tình yêu thương và sự đề cao. “Con biết, chắc chắn.”

    Sherry Bishop đến bên, vỗ nhẹ vào vai Cate. “Cháu nên gọi cho cảnh sát trưởng.”

    “Không phải cháu phản đối ý đó,” Cate nói, điều khiển được một nụ cười chỉ ở mức độ hơi rung rung. “Cháu chỉ không nghĩ có gì đó họ có thể làm. Mấy gã đàn ông có khả năng đưa cháu tên giả, và chúng cũng đã bỏ đi khá lâu rồi. Chuyện này chỉ chứng minh ông Layton đang làm gì đó mờ ám, nhưng ngay cả đe dọa ai đó bằng một khẩu súng lục là trái pháp luật, điểm mấu chốt là, không ai bị thương. Nên cháu có thể làm một bản tường trình, nhưng thế gần như là hết. Tại sao phải bận tâm chứ?”

    “Chúng mang súng! Chúng lấy trộm đồ của cháu! Đó là trọng tội! Cháu phải gọi cho cảnh sát! Nó phải được ghi nhận, phòng trường hợp chúng quay lại.”

    “Cháu cho rằng cô đúng.” Cô vội liếc qua Calvin. “Tuy nhiên cháu sẽ không đề cập tới việc ông Harris đánh vào đầu một gã.”

    Cô nhìn đi chỗ khác ngay khi một sự lúng túng nhanh chóng đến kỳ quặc. Một ký ức thình lình xuất hiện trong đầu cô, về hình ảnh anh cầm khẩu súng săn chĩa vào đầu Mellor. Cô đã không nghi ngờ anh sẽ kéo cò súng, và cô nhận ra Mellor cũng có kết luận tương tự. Trong khoảnh khắc đơn lẻ đó cô nhận ra một phần con người của Calvin mà cô không từng mơ có tồn tại, cô không thể điều hòa giữa một người đàn ông chăm chỉ nhẹ nhàng, nhút nhát đến bối rối, với một người đàn ông có đôi mắt lạnh lùng và đôi bàn tay quá vững vàng trên thứ vũ khí chết người.

    Có vẻ chẳng ai khác ngạc nhiên bởi những chuyện anh làm, nên có lẽ cô là người duy nhất bị mù chăng. Thực tế giản đơn là kể từ cái chết của Derek, cô hoàn toàn tập trung vào việc nuôi nấng bọn trẻ và điều hành nhà nghỉ, không điều gì khác chạm vào được nhận thức của cô. Cô không tò mò về bất kỳ hàng xóm nào của mình, không hỏi bất kỳ câu hỏi nào sẽ mang lại thông tin cho cô về ai đó và cái gì mà họ là vượt qua bề ngoài cuộc sống thường ngày. Cô đã trải qua những năm tháng cô đơn bằng cách tự mình dừng lại, tự mình rẽ sóng đi, rồi đối phó với những gì mình phải làm, ngăn chặn những thứ khác. Choáng ngợp vì đó là cách duy nhất cô có thể sống sót.

    Còn gì khác nằm đằng sau lòng tốt của những người hàng xóm? Neenah là người bạn thân nhất của cô ở đây, nhưng Cate thực sự không biết gì về bà. Cô thậm chí không biết tại sao bà rời dòng tu. Là vì Neenah không muốn nói về nó, hay vì Cate chưa từng hỏi? Cô cảm thấy xấu hổ, và đau nhói bên trong bởi những năm tháng tình bạn bị lãng phí, khi cô có thể chìa tay ra nhưng lại không làm.

    Bây giờ tất cả họ có mặt ở đây, hàng xóm của cô, tụ tập ngay khi họ nghe thấy có rắc rối. Cô không nghi ngờ rằng nếu họ biết chuyện đúng lúc, họ sẽ đối mặt với Mellor và Huxley với bất kỳ vũ khí nào có trong tay. Sau ba năm quen biết những con người này, cô cảm thấy đây như lần đầu tiên cô thực sự trông thấy họ. Ngay lúc này Roy Edward đã ngồi xuống, dốc mọi thứ ra khỏi túi của mình cho Tanner xem, cố gắng lôi kéo nó bắt chuyện với mình. Việc đối phó của cô với Roy Edward trước đây khiến cô nghĩ rằng ông thành kiến và thiếu kiên nhẫn, nhưng ông có vẻ dễ kết giao vì Tanner đã bỏ ngón tay ra khỏi miệng và nấn ná lại gần ông, vẻ thích thú hiện rõ trên khuôn mặt nó khi nó xem xét một con dao bỏ túi và một khúc gỗ hạt dẻ ngựa.

    Milly bước tới vỗ nhẹ vào vai Cate. “Nếu cô không ngại tôi tiếp quản bếp của mình, tôi sẽ pha một chút trà cho cô và Neenah. Trà giúp được nhiều hơn cà phê khi bạn hoảng loạn. Không hiểu tại sao, nhưng nó là thế.”

    “Tôi thích có được ít trà,” Cate nói, kéo lên một nụ cười khác, mặc dù cô không thực sự muốn tí trà nào. Cô và Neenah đang uống trà khi Mellor bước vào nhà bếp và chĩa súng vào họ. Cô ngờ rằng Milly cảm thấy cần làm điều gì đó, và nấu nướng thuộc sở trường của cô ấy. Neenah đã nghe thấy lời đề nghị của Milly; Cate liếc qua căn phòng và ánh mắt họ gặp nhau. Neenah nhăn mặt một chút rồi rầu rĩ. Cảm giác của bà tương tự của Cate về việc uống trà lần nữa ngay lúc này.

    Không muốn hoãn lại cuộc gọi, cô cũng muốn cho mọi người có mặt ở đây biết Seth Marbury nói gì, Cate trốn vào căn phòng nhỏ của gia đình gọi tới văn phòng cảnh sát trưởng một lần nữa. Ông ấy không trả lời, nên cô để lại một lời nhắn thoại, rồi ngả người trên ghế sô pha và nhắm mắt lại, dùng sự yên lặng, êm ả tương đối của căn phòng trấn an lại thần kinh đang bị cọ sờn của mình. Cô có thể nghe thấy âm thanh trầm bổng trong phòng ăn, thỉnh thoảng cơn giận dữ sắc nét thay mặt cho họ, nhưng phần lớn cuộc thảo luận đã dịu xuống.

    Điện thoại kêu trước khi cô tập hợp sức mạnh quay trở lại, đó là Marbury gọi lại cho cô.

    “Tôi không cho rằng mình hiểu chính xác những gì bà nói.” Giọng ông quả quyết và cảnh giác, khiến cô nghĩ ông hiểu nhưng ông có vẻ chưa tin.

    “Hai người đàn ông đăng kí nhận phòng hôm nay,” cô giải thích, “rồi xuống gác sau đó một lúc, dí súng lục vào Neenah Dase và tôi, yêu cầu tôi giao cho họ những thứ mà Jeffrey Layton để lại. Tôi làm theo, và họ bỏ đi rồi. Có thể nói một cách chắc chắn rằng ông Layton đang làm gì đó mờ ám, và hai người đàn ông này cũng vậy.”

    “Tên họ là gì?” Marbury hỏi.

    “Mellor và Huxley.”

    “Tên đầu là gì?”

    “Để tôi xem.”

    Cô đứng dậy đi vào hành lang lấy quyển sổ khách hàng, rồi ngập ngừng khi bắt gặp Calvin Harris đang đứng ngay bên trong căn phòng, lắng nghe một phía của cuộc hội thoại. Anh đã giữ một vai trò quan trọng, nên cô vẫy tay nhắc anh đi sâu vào bên trong khi mình lấy cuốn sổ và mang nó vào cùng.

    “Họ ghi tên là Harold Mellor và Linonel Huxley.”

    “Họ trả bằng gì?”

    “Người đàn ông gọi đến cho tôi chiều hôm qua đặt phòng trước cho họ, cho tôi số thẻ tín dụng. Tôi nghĩ là cùng người gọi đến giả vờ là người của đại lý cho thuê xe. Tôi không chắc, nhưng giọng nói giống nhau. Máy hiển thị thông tin người gọi cùng ghi là Tên không xác định, Số không xác định trong cả hai lần.”

    “Tên trên thẻ tín dụng là gì?”

    “Là Harold Mellor, nhưng tôi biết đó không phải là cùng người đàn ông đến đây hôm nay; giọng của họ khác nhau hoàn toàn.”

    “Bà đã chạy hệ thống thanh toán chưa?”

    “Rồi, và nó bình thường.”

    “Đó có khả năng là một cái thẻ giả. Tuy vậy, có gì đó để chúng tôi kiểm tra. Bà có biết biển số xe của họ không?”

    “Không đâu.”

    Ghi lại biển số xe không phải việc cô thường làm khi khách thuê phòng - mặc dù cô cho rằng mình có lẽ nên bắt đầu.

    “Và họ rời đi mà không gây tổn hại cho bất cứ ai sau khi bà đưa chúng đồ đạc của ông Layton?”

    “Đúng vậy. Họ chưa gây hại cho ai.”

    Calvin ra hiệu rằng anh muốn nói chuyện với Marbury. Cate nhướn lông mày, lặng lẽ hỏi liệu anh có chắc chắn, và anh gật đầu.

    “Giữ máy,” cô nói với Marbury. “Ông Harris muốn nói chuyện với ông. Đây là điều tra viên Seth Marbury,” cô nói với Calvin khi kéo dài điện thoại tới anh.

    “Đây là Cal Harris,” anh nói, nghe êm ả như ngày thường của mình, Cate cảm giác một khoảnh khắc đảo lộn của thực tại chuyển đổi, như thể cô đánh mất thăng bằng. Cô nhìn chằm chằm vào anh trong sự hoài nghi, liệu anh có phải cùng một người đã quá điềm tĩnh, lạnh lùng khi chĩa khẩu súng săn vào đầu ai đó. Quá nhiều để thu nhận, rồi gần như bản năng cô thấy mình tập trung vào bàn tay khỏe mạnh đang cầm tai nghe. May mắn cho cô và Neenah, anh xử lý một khẩu súng săn thành thạo như anh dùng một cái búa hay một cái cờ lê.

    Marbury hẳn phải hỏi anh làm gì để sống. Anh trả lời, “Bất cứ việc gì cần, nghề mộc, đường ống nước, cơ khí hay sửa mái nhà.”

    Anh lắng nghe khoảng một phút. Cate nghe thấy giọng Marbury rì rầm nhưng không phân biệt câu nào.

    Calvin nói, “Khi bà Nightingale đưa tôi mấy lá thư để đem vào thị trấn, bà đã dán ngược con tem. Ông biết đấy – kiểu một ám hiệu.” Nhiều tiếng rì rầm nữa từ Marbury. “Vâng. Tôi nghĩ bà ấy trông có vẻ hoảng loạn, nên tôi bắt lấy cơ hội hành động như một kẻ ngốc là quay lại. Chỉ là ở một phía an toàn. Mang theo khẩu súng săn của tôi. Đó là lý do hai gã đó rời đi mà không gây tổn thương cho ai.” Lại tiếng rì rầm nữa, và một lúc sau anh nói, “Không, không viên đạn nào bắn ra, bởi bất kỳ ai. Khẩu Mossberg của tôi lấn át khẩu Taurus của gã – thứ mà nhân tiện, gã đã bỏ lại.” Một chút đùa cợt trong giọng nói của anh.

    “Ngày mai thì được,” anh cuối cùng nói, trả lại tai nghe cho cô.

    “Bà Nightingale,” Marbury nói, “Ngày mai tôi sẽ đến lấy lời khai của ông Harris. Có tiện cho bà làm một bản không?”

    “Không sao. Sau mười giờ là tốt nhất,” cô trả lời.

    “Không thành vấn đề. Tôi sẽ có mặt lúc mười một giờ.”

    Cate nhấn nút ‘tắt’ và cứ đứng đó, biết rằng mình cần gia nhập lại với nhóm người trong phòng ăn, nhưng quán tĩnh giữ đôi chân cô, lục sục tại chỗ của mình.

    “Chuyện này sẽ ra sao?” cuối cùng cô hỏi.

    “Sẽ ổn cả thôi.”

    Cô nhận ra anh chẳng hề lầm bầm trong suốt những giây phút căng thẳng, khủng khiếp trên gác mái, cũng như không một lần đỏ mặt. Anh hẳn là một trong những người vượt lên trên một sự kiện đặc biệt khi anh buộc mình phải làm, rồi trở về ổn định ở nơi thoải mái của riêng mình khi cơn biến động đi qua. Cô nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ có cơ hội nhìn thấy anh theo cách như vậy một lần nữa.

    “Calvin, tôi –“ cô dừng lại, thật bối rối cô cảm thấy má mình đỏ dần lên. “Tôi vẫn chưa nói với anh tôi biết ơn anh thế nào—“

    Anh trông sốc thực sự, nhìn chăm chú vào cô như thể cô có hai đầu. “Em không cần phải nói với tôi. Tôi hiểu mà.”

    Vì hai đứa trẻ, cô ngẫm nghĩ. Anh biết cô sẽ tê liệt thế nào nếu Sheila đưa bọn trẻ quay về trong lúc Mellor và Huxley vẫn còn ở đó. Cảm kích vì không phải giải thích, cô quay đi, vội vã trở lại phòng ăn. Anh theo sau chậm rãi hơn, rồi chịu tra hỏi từ hai cậu bé bốn tuổi, một lần nữa đòi biết con rắn to cỡ nào, và anh làm gì với nó.

    Cô kể lại với những người hàng xóm ngồi đó điều tra viên nói gì, và rằng ông ấy sẽ tới ngày mai lấy lời khai. Milly đã pha xong trà với sự hài lòng của mình, nên Cate buộc phải ngồi xuống, nhâm nhí nó giống như Neenah. Trước sự ngạc nhiên, thần kinh của cô bắt đầu dịu bớt, cảm xúc về mọi thứ không đúng lúc bắt đầu nhạt dần. Nó cứ thế cho tới khi ba vị khách leo núi quay về, mệt mỏi, bị tác động bởi gió máy nhưng hạnh phúc, và thế là cuộc tụ họp được giải tán.

    Vì không có nhà hàng nào ở Trail Stop, cái gần nhất cũng cách xa hơn ba mươi dặm, với chi phí trả thêm Cate sẽ phục vụ một bữa tối bao gồm bánh sandwich, khoai tây rán, và đồ tráng miệng nếu khách yêu cầu. Khách leo núi của cô đã đặt trước, nên cô bận rộn với thịt nguội và pho mát. Mẹ cô trông chừng hai cậu bé, mặc dù chúng một mực đòi lên gác mái để săn lùng con rắn, và cho nó ăn trong khi Cate phục vụ khách. Đến lúc cô và Sheila ngồi xuống, Cate quá mệt không thể ăn nổi. Cô biết đó là phản ứng của cơ thể cô với những sự việc căng thẳng trong ngày; cô kiệt sức tới nỗi giống như cô leo trèo cả ngày, rồi lại phải cuốc bộ thêm mười dặm nữa.

    “Mẹ, con buồn ngủ quá,” cô thì thầm, lấy tay che cái ngáp dài.

    “Sao con không ngủ sớm tối nay nhỉ,” mẹ cô gợi ý, bằng một tông giọng giống một lời đề nghị hơn. “Mẹ sẽ đưa bọn trẻ lên giường.”

    Cate ngạc nhiên, nhưng hoàn toàn đồng ý. “Con mệt chết đi được. Khi mẹ cho chúng vào giường, sao mẹ không đề cập tới chuyện đưa chúng về nhà với mẹ? Chúng chưa từng xa con vào buổi tối, nên có khả năng chúng sẽ chống cự đấy.”

    “Để chúng cho mẹ,” Sheila nói đầy tự mãn. “Đến lúc mẹ hoàn thành công việc, chúng sẽ nghĩ nhà Mimi tốt hơn cả Disneyland.”

    “Tuy nhiên chúng chưa được tới đó, nên chúng không thể so sánh đâu.”

    “Đừng bận tâm đến tiểu tiết. Đến sáng, chúng sẽ cầu mong mẹ cho chúng theo cùng. Nhưng con phải chắc chắn là mình muốn chúng đi. Mẹ vẫn cho rằng con nên gác chuyện này đến ngày mai, để chắc rằng con không nói thế chỉ vì chuyện xảy ra hôm nay.”

    “Tất nhiên ạ,” Cate nói. “Con muốn con của mình an toàn, mà ngay lúc này con cảm thấy không an tâm. Có lẽ con phản ứng thái quá, nhưng mặc kệ.”

    Sheila ôm chặt cô. “Con có quyền phản ứng như thế. Và mẹ sẽ không dùng nó chống lại con nếu con có thay đổi quyết định vào sáng mai.”

    “Ồ, cảm ơn mẹ, con cam đoan mà.”

    Cate nói và cười lớn. Cô ôm hai cậu bé và hôn chúc ngủ ngon, giải thích rằng Mommy bị mệt, sẽ đi ngủ sớm, còn Mimi sẽ đưa chúng vào giường tối nay, nên chúng hài lòng. Tất cả niềm phấn khích trong chúng cũng trôi đi; chúng ngáp dài và dụi mắt.

    Cate đánh răng, rửa mặt rồi ngã vào giường. Cô quá mệt mỏi, cơ thể cô như không xương, nhưng ý nghĩ của cô đuổi bắt loanh quanh như con sóc điên cuồng, hết bên này đến bên kia, không thể ổn định vào một thứ gì. Cô tiếp tục hồi tưởng những mảnh vụn trong ngày, như những hình ảnh trên tấm thẻ: khuôn mặt trắng bệch của Neenah, ánh nhìn trong đôi mắt xanh xám của Calvin khi ngón tay anh siết chặt trên cò khẩu súng săn – cô không thực sự chú ý vào lúc ấy, nhưng giờ cô đã nhớ, hết lần này đến lần khác cái co giật nhẹ của ngón tay anh nghĩa là anh có ý định bắn.

    Mellor hẳn nhìn thấy điều tương tự, cử động nhỏ phát lộ đó, nên đã quyết định làm theo Calvin yêu cầu. Cô rùng mình ớn lạnh, bèn cuộn người lại trong giường, kéo đôi chân gần cơ thể hơn để sưởi ấm. Cô thường thấy lạnh vào ban đêm, mà thậm chí lạnh buốt hơn trong bóng tối. Tối nay cô rúc bên dưới tấm chăn với nỗi sợ hãi theo cùng, sợ hãi cho những đứa con, sợ hãi vì bạo lực đã kéo đến ngôi nhà mình trong ngày, và cô cũng sợ hãi bởi bạn bè của mình.

    Tiềm thức cô tái hiện ánh mắt của Calvin. Cô quen anh được ba năm, nhưng cô cảm thấy như thể chỉ nhìn anh, thực sự nhìn anh hôm nay là lần đầu tiên. Cô còn khám phá ra rất nhiều điều về những người hàng xóm trong ngày hôm ấy, hiểu họ theo nhiều cách nhưng lần này khác hẳn. Nhận thức của cô về Calvin không đơn thuần là trải qua một sự điều chỉnh, mà nó chịu một sự thay đổi lớn lao.

    Sẽ không bao giờ cô có thể nhìn vào anh và chỉ thấy một người đàn ông chăm chỉ, tốt bụng mà nhút nhát đến buồn phiền.

    Tệ hơn, cô thấy như thể có nhiều thay đổi hơn cô nhận ra được, giống như có một sự chuyển biến lớn trong cuộc sống của cô, nhưng cô vẫn chưa chính xác tìm ra nó ở đâu, hay nó dịch chuyển đi bao xa rồi. Cô không biết phải làm thế nào, phải nghĩ gì, vì cô không biết mình đang đứng trên nền đất cứng hay vùng cát lún.

    Ký ức về đôi mắt nhạt màu của Calvin, biểu hiện trong đó, đã xé toạc sự sáng suốt trong cô, cô rơi vào giấc ngủ khi cố gắng giải câu đố liệu cô an toàn hơn, hay nhiều nguy hiểm hơn trước đây.

    Cal Harris đã từ lâu phát hiện ra rằng nếu anh đứng bên cửa sổ căn phòng tối đèn của mình, anh sẽ nhìn thấy ánh đèn ở cửa sổ phòng ngủ của Cate Nightingale. Nhà nghỉ B&B có lẽ tương đương với một khu nhà lớn và một phần nhỏ nhìn xuống đường, nhưng con đường có một góc cua nên nó cho phép anh nhìn thấy cửa sổ hai căn phòng phía trước. Cửa sổ đầu của phòng cặp sinh đôi. Cửa sổ thứ hai của phòng Cate.

    Anh đã vào phòng ngủ của cô khi anh sửa chữa đường ống nước trong phòng tắm. Cô thích đồ xinh xắn, như những chiếc gối tựa trang trí hoa văn đặt trên giường, và nhà tắm được trải thảm cốt tông phù hợp với rèm tắm, hay như tấm phủ trên nắp bệ vệ sinh. Phòng ngủ của cô cũng có mùi dễ chịu nữa, như mùi nước hoa thoang thoảng… và như mùi một phụ nữ. Anh nhìn vào giường cô để rồi trí tưởng tượng của anh trở nên hoang dã.

    Phản ứng của anh đối với cô quá mạnh đến nỗi anh không thể kiểm soát nổi. Anh đỏ mặt, lắp bắp như một cậu bé mười bốn tuổi, và trở thành trò vui không ngừng của những người hàng xóm. Trong ba năm qua, họ đã thúc giục anh mời cô đi chơi, nhưng anh đã không làm. Vì cái cách cô gọi anh là ‘ông Harris’ (Mr. Harris) và nhìn anh như thể anh là ông của cô vậy, anh biết cô chưa sẵn sàng để bắt đầu hẹn hò.

    Đã khá lâu kể từ lúc anh chĩa một vũ khí vào người khác với ý định kéo cò, nhưng tên khốn, Mellor, đã bước đi không hề nhận biết rằng đầu mình bị thổi bay như một quả bí ngô vỡ bung. Chỉ nhận thức Cate đang chứng kiến, và rằng cô sẽ bị tổn thương nhiều hơn nữa, đã giữ ngón tay của Cal lại trên cò súng. Anh không bao giờ muốn cô nhìn mình với cùng nỗi hoảng sợ trong đôi mắt cô khi cô nhìn vào Mellor.

    Tối nay cửa sổ phòng cô tối đen. Anh thấy ánh đèn trong phòng cặp sinh đôi bật lên, rồi tắt đi khoảng sau mười lăm phút, mà ánh đèn phòng Cate vẫn chưa sáng. Bằng trực giác anh đoán, cô bị kiệt sức nên đã vào giường; mẹ cô phải đưa bọn trẻ đi ngủ.

    Trong ba năm qua anh chờ đợi, cảm xúc thông thường đã từ lâu nhắc anh từ bỏ và rời đi, rồi anh đã không. Cho dù là sự bướng bỉnh đã giữ anh lại, hay những cậu bé đeo bám quanh anh, len lỏi vào trái tim anh, hay là bản thân Cate, anh không thể nói “Thế đủ rồi, tôi không chịu nổi nữa.”

    Nỗi khiếp sợ trong ngày đã phá vỡ vài rào chắn. Anh cảm thấy nó, nhận biết nó. Ngày hôm nay, lần đầu tiên, cô gọi anh là “Calvin.” Và cô đã một lần đỏ mặt.

    Anh lên giường với cảm giác thế giới đã dịch chuyển, và ngày mai anh sẽ đứng ở một vị trí mới.

     
    Chỉnh sửa cuối: 16/7/15
    maggie14, thuhuong244, ttha and 18 others like this.
  9. Breeze

    Breeze Mầm non

    Cám ơn @halucky nhiều, chị luôn mong chờ những phần tiếp theo mỗi ngày. Em dịch tốc độ thật đó, nhưng đừng quá gắng sức, giữ gìn sức khoẻ để có thể đi hết con đường.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky and meocontb like this.
  10. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 11 (halucky)

    SÁNG HÔM SAU, GOSS VÀ TOXTEL ngồi trong phòng trọ của Toxtel, một bản đồ trải trước mặt chúng trên cái bàn tròn ọp ẹp. Chúng đang uống thứ cà phê dở ẹc được pha bởi máy pha mỗi lần được bốn tách bé tí của nhà trọ rẻ tiền, và ăn bánh nướng mật ong đã để lâu mua ở một cửa hàng tiện ích. Thị trấn có một nhà hàng vợ - chồng phục vụ đồ ăn sáng, nhưng chúng đâu dám thảo luận công việc ở giữa nơi đầy người địa phương.

    Toxtel đẩy một bản sơ họa ngang qua bàn về phía Goss.

    “Xem đi, đây là cách bố trí của nơi này, như tôi nhớ. Nếu anh nhớ điểm gì khác, cứ nói. Thứ này khá chính xác đấy.”

    Toxtel đã phác họa một bản vẽ sơ bộ về Trail Stop với con đường chính dẫn đến đó, đưa vào vài thứ như cây cầu, dòng suối, con sông gầm rú bên phải, dãy núi cao lờ mờ bên trái.

    “Tôi cho rằng có một đường mòn dẫn vào dọc đâu đó từ bên phải, thứ phải nói lời xin lỗi với một con đường,” Goss nói. “Khó khẳng định được nó là một đường xe chạy hay thuộc kiểu đường mòn săn bắn.”

    Toxtel lưu ý điều đó, rồi kiểm tra đồng hồ đeo tay. Gã sẽ gọi cho ai đó – kẻ có thể gọi cho người nào khác, một người địa phương biết về khu vực – và là người quan tâm tới vấn đề đủ ít – cũng như tới gặp chúng ở đây trong phòng Toxtel lúc 9 giờ. Goss đủ thông minh để hiểu rằng chúng đang hành động mà chưa được sự đồng ý của sếp mình, và nếu không có hỗ trợ chúng không thể ngăn cản những người dân quê mùa, cục mịch đó ở Trail Stop. Chúng cần người biết về thiên nhiên hoang dã và thành thạo một khẩu súng trường. Goss không có vấn đề với một khẩu súng lục, nhưng gã chưa từng kéo cò một khẩu súng trường. Toxtel đã từng song lại nhiều năm trước đây.

    Cái tay người địa phương mà chúng gặp có vài người bạn mà gã có thể gọi giúp đỡ. Goss không phải một chuyên gia, ngay cả thế gã có thể khẳng định rằng có nhiều hơn ba đường thoát hiểm chúng có thể ẩn núp – đấy là chưa kể thực tế rằng thỉnh thoảng ba người bọn chúng cũng cần phải ngủ. Vì kế hoạch của Toxtel được tiến hành, gã hình dung chúng ít nhất phải có hơn hai người, mặc dù hơn ba người thì tốt hơn.

    Goss bằng lòng diễn tới cùng bất kể ý tưởng điên rồ nào Toxtel nảy ra; trên thực tế càng rồ dại càng tốt, vì chuyện đó làm tăng cơ hội toàn bộ tình huống sẽ làm Toxtel nổi nóng còn Salazar Bandini sẽ chú ý tới điều chính gã không muốn – kiểu một vụ lùm xùm tầm cỡ Liên bang – và sẽ khiến gã rất không vui với Yuell Faulkner.

    Goss cố gắng nghĩ ra một ý tưởng cụ thể, nhưng quá nhiều điều có khả năng thay đổi. Gã mong thỏa ý nguyện là những tình huống đó sẽ có mặt của bọn chúng trong đó để gã có thể lén lút làm rối tinh mọi thứ lên, khiến mọi việc tồi tệ thêm. Kết quả tốt nhất sẽ là chúng có ổ đĩa di động của Bandini mà không ai bị thương hay thiệt mạng – một kết quả tốt nhất cho Bandini, và sẽ là, nói rộng ra, kết quả tốt nhất cho Faulkner. Vậy thì gã phải làm cho điều thứ nhất chắc chắn không xảy ra, nên điều thứ hai cũng thế. Tuy nhiên gã sẽ không thấy phiền nếu tên khốn chăm chỉ ấy là một trong số bị bắn đâu.

    Thực tế, Goss không chết trong đêm thế nghĩa là gã không bị tổn thương não, nhưng gã vẫn còn đau đầu như búa bổ. Gã đã uống bốn viên giảm đau hạ sốt khi tỉnh dậy, trong khi chuyện đó lấy đi mọi khả năng tập trung của gã, gã hy vọng không bị yêu cầu làm thứ gì hôm nay hơn là chỉ cố gắng ngồi được và nói chuyện.

    Lúc 9 giờ thình lình một tiếng gõ cửa cộc lốc, Toxtel đứng dậy trả lời. Gã mở cửa, tránh sang một bên để vị khách của chúng bước vào.

    “Tên,” gã đàn ông nói ngắn gọn.

    Hugh Toxtel không ưa nịnh hót, cũng không phải một kẻ quá tự phụ để gã bị mất lòng bởi những thứ nhỏ nhặt. “Hugh Toxtel,” gã trả lời đơn giản như tên đàn ông hỏi mấy giờ. “Đây là Kennon Goss. Và ông là---?”

    “Teague.”

    “Có tên đầu không?”

    “Teague thôi.”

    Teague trông giống gã đàn ông Marlboro đi giữa bầy chó hoang ở bãi phế thải. Khuôn mặt hắn bị tác động quá nhiều bởi thời tiết để nói được tuổi của hắn, nhưng Goss đoán hắn ở độ tuổi ngũ tuần. Mái tóc muối tiêu, cắt ngắn sát da đầu. Có dòng máu của người Da đỏ ở đó, một vài thế hệ trở lại đây, được chứng minh bằng đôi gò má cao và tối, hai khe hẹp của đôi mắt. Nếu gã để bản thân thư giãn đi, nó sẽ không lộ ra tí nào.

    Hắn mặc quần jean, xỏ bốt kiểu người đi bộ đường dài, áo sơ mi kẻ ca rô xanh lá cây và màu vỏ cây nhét gọn gàng trong thắt lưng. Một con dao có vẻ đáng sợ nhét trong vỏ bao đeo cạnh quả thận phải, kiểu dao dùng vào việc lột da hươu. Chắc như quỷ là nó không bao giờ có đủ tiêu chuẩn như một con dao bỏ túi. Hắn còn mang theo một cái túi vải bố màu đen sờn cũ. Mọi thứ về Teague hét lên rằng “một kẻ phá luật đáng gờm,” nhưng nó không phải từ bất cứ điều gì hắn nói hay làm, đó là sự tự tin hoàn toàn hắn thể hiện, ánh mắt hắn nói rằng hắn sẽ moi ruột ai đó mà chẳng hề băn khoăn hơn việc đập nát một con ruồi.

    “Tôi nhận được tin anh cần ai đó hiểu biết về dãy núi,” hắn nói.

    “Chúng tôi cần hơn thế. Chúng tôi chuẩn bị đi săn,” Toxtel nói một cách chung chung, chỉ vào bản đồ đặt trên bàn.

    “Đợi chút,” Teague nói, lôi một thiết bị điện tử hình chữ nhật ra khỏi túi vải bố. Hắn bật nó lên, đi xung quanh quét căn phòng. Khi hài lòng không nghe thấy tiếng ‘bọ’, hắn tắt thiết bị và bật ti vi lên. Đến lúc đó hắn mới đi về phía chiếc bàn.

    “Tôi đánh giá cao một người cẩn thận,” Toxtel nói, “nhưng nói tôi trước nếu ông có FBI làm cản trở. Chúng tôi không cần một sự phiền phức như thế.”

    “Theo tôi biết thì không,” Teague trả lời, vẻ mặt không biểu lộ gì. “Không có nghĩa nhiều thứ không thể thay đổi.”

    Toxtel âm thầm đánh giá hắn. Cuối cùng, Goss nghĩ, nó chạm tới lòng tin: Liệu Toxtel có tin người liên lạc của mình? Niềm tin là mặt hàng còn thiếu trong công việc của chúng, bởi vì không có thứ như danh dự giữa những tên trộm cướp – hay kẻ giết người, trường hợp này có lẽ cũng thế. Niềm tin nào tồn tại được ở nơi mà lẫn lộn giữa cam kết – phá hủy chứ. Goss biết đủ để chôn vùi Toxtel, và Toxtel biết đủ để chôn vùi Goss. Gã cảm thấy an toàn hơn vì gã có vài mối quan hệ bạn bè.

    Cuối cùng Toxtel nhún vai và nói, “Đủ tốt.” Gã quay lại tấm bản đồ, nhanh chóng vạch ra tình hình, mà không đả động đến tên của Bandini; gã chỉ nói có một thứ rất quan trọng bị bỏ lại nhà nghỉ B&B và bà chủ không có ý định đưa nó cho chúng. Rồi gã nêu ra kế hoạch của mình.

    Teague cúi xuống tấm bản đồ, hai bàn tay bám chặt trên bàn, đôi lông mày tìm đến với nhau trong một cái nhíu khi vài thứ vận động trong não hắn.

    “Phức tạp,” gã lên tiếng.

    “Tôi biết. Cần thêm vài người biết mình đang làm gì.”

    “Đó là lý do ông ở đây,” Goss nói lạnh nhạt. “Hugh và tôi không thực sự đảm đương nổi với những kinh nghiệm vốn có về vùng đất hoang dã.”

    Đấy là điều đầu tiên gã đóng góp vào cuộc trò chuyện, nên Teague chợt lóe lên cái liếc nhanh về phía gã.

    “Thật khôn ngoan cho các anh khi nhận ra điều đó. Vài người không có khả năng đâu. Được rồi. Có vài thứ cần cân nhắc. Đầu tiên, các anh cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài thế nào? Không chỉ đường liên lạc tự nhiên, còn điện thoại, máy tính, vệ tinh?”

    “Cắt dây điện thoại và đường điện,” Goss nói. “Nó liên quan tới điện thoại, máy tính và thư điện tử qua vệ tinh.”

    “Nếu ai đó trong số họ có điện thoại vệ tinh thì sao? Anh để ý đến chuyện đó chưa?”

    “Điện thoại vệ tinh không phổ biến lắm,” Goss trả lời, “nhưng phòng trường hợp một trong những tên thô lỗ đó có một cái, chúng ta cần biết. Sẽ dễ dàng tìm ra nó ở một nơi nhỏ bé như thế. Tương tự, không khó để phát hiện ra bất kỳ chiếc xe nào đủ mới để có OnStar (hệ thống theo dõi GPS tự động) hay cái gì giống vậy.”

    “OnStar không hoạt động ngoài đó đâu,” đồng bọn của gã nói. “Không luôn cả dịch vụ điện thoại di dộng. Chúng ta an toàn ở đó.”

    Thế là tốt; tình huống này đã đủ phức tạp rồi.

    Do chỉ có hai chiếc ghế, chúng kéo cái bàn lại gần giường. Toxtel ngồi trên giường, trong khi Goss và Teague dùng hai chiếc ghế, chúng mất một giờ cùng tên đồng bọn nghiên cứu tỉ mỉ địa hình trên tấm bản đồ.

    “Tôi phải đi do thám, để chắc chắn vùng đất giống như tôi nghĩ, nhưng tôi cho rằng chuyện này là một kế hoạch khả thi,” Teague nói. “Trail Stop là điểm tận cùng của các đường dây tiện ích, công ty điện thoại cũng như công ty điện lực sẽ không biết dịch vụ đã bị gián đoạn – ngay cả nếu họ nhận ra, lấy mất cây cầu có nghĩa là họ không thể làm gì được. Nên chúng ta đưa kí hiệu ‘cây cầu bị xóa sổ’ lên đây” – gã chỉ vào nơi con đường từ Trail Stop nối vào đường chính— “và chặn đường với giá cưa xây dựng, chúng ta sẽ làm tốt thôi. Chuyện này sẽ không kéo dài lâu, có lẽ chỉ một ngày hay hơn. Đặt đủ áp lực lên người đàn bà đó và cô ta sẽ nhượng bộ. Chết tiệt, các anh biết đấy, phần còn lại của họ có thể hy sinh cô ta không chút hối hận. Các anh nói cô ta có một đứa con à?”

    “Đồ chơi vương vãi xung quanh. Mặc dù chưa nhìn thấy đứa nào.”

    “Có thể ở trường học. Vậy chúng ta đảm bảo rằng đứa trẻ ở nhà, bắt đầu điệu nhảy này vào chiều muộn hay thứ bảy. Mọi người có xu hướng không muốn rủi ro đến với con của họ. Sau khi các anh có thứ mình muốn, các anh cần phải biến đi thật nhanh. Người của tôi và tôi có thể làm họ chậm lại, nhưng tại một số điểm tôi sẽ phải rút lui và đưa đồ gỗ vào dần cản lại. Đến lúc đó, các anh chưa rời đi, mạng các anh cũng khó giữ được.”

    “Hiểu rồi,” Toxtel nói. Rồi gã cau mặt. “Nếu hạ cây cầu, chúng ta sẽ thoát ra bằng cách nào?”

    “Nhánh sông có thể lội qua ở vài điểm khác. Chúng ta phải làm là giữ mọi người không được vượt qua nơi đó cho tới khi chúng ta cho phép. Giờ, hãy nói về tiền.”

    Khi tên đồng bọn rời phòng trọ sau đó một giờ hắn có tiền của mình, hắn cũng có sự hài lòng cũng như thích thú, tất cả đó giữ cho hắn khỏi cười vào mặt chúng. Kế hoạch của Toxtel là một trong những điều ngu ngốc nhất hắn từng nghe trong đời, nhưng nếu Toxtel muốn trả cho hắn một gia tài nho nhỏ để làm cái công việc như trò hề Rube Goldberg này, hắn sẽ vui vẻ nhận tiền của gã. (Rube Goldberg là một nhà phát minh người Mỹ, người sáng tạo ra những hệ thống làm phức tạp hóa vấn đề từ những thứ đơn giản.)

    Kế hoạch là hoàn toàn khả thi, kèm theo là rất nhiều rắc rối và chi phí. Nó cũng phức tạp không cần thiết. Nếu là Teague, hắn sẽ mang theo hai tên nữa, lẻn vào ngôi nhà lúc 2 giờ sáng; người đàn bà sẽ đưa ra bất kể thứ gì mình có hoặc con cô ta mất mạng. Đơn giản. Thay vào đó, Toxtel sáng kiến ra phương thức phức tạp này là giữ toàn bộ cộng đồng làm con tin.

    Toxtel và Goss phải đi tới đó và xử lý bọn họ. Teague không cho rằng hai gã này ngu dốt để mà qua mặt, ngoại trừ chúng không ở đúng sở trường của mình. Chúng có khả năng quen với việc mình là người duy nhất mang vũ khí; còn ở ngoài này, mỗi người và ngay cả bà ngoại hắn cũng có một vũ khí. Giờ đây, cái tôi bị tổn thương và lòng kiêu hãnh bị sứt mẻ đã cho ra đời trò chơi và che mờ phán đoán của chúng, điều không bao giờ là tốt.

    Mặt khác, thực hiện công việc này là một thách thức, mà Teague yêu mến thách thức. Quá nhiều thứ phải xem xét, nhiều mảnh ghép thuộc về nơi này, hắn phải ở vị trí cao nhất của trò chơi. Có lẽ Toxtel và Goss không phải kẻ duy nhất để lòng kiêu hãnh ảnh hưởng tới quyết định. Khác biệt giữa chúng là, Teague nhận ra các yếu tố của niềm kiêu hãnh trong động cơ của hắn, và cho phép nó. Động cơ lớn nhất của hắn, dù vậy, là lòng tham: hắn thích thú với con số mà chúng trao đổi.

    Hắn quen thuộc với khu vực Trail Stop. Vùng đất xung quanh gồ ghề, hầu như không thể vượt qua. Ở vài chỗ lởm chởm, dãy núi gần như dựng đứng với mặt đá dốc và khe núi nguy hiểm. Ở phía bên kia, đường đi bị dòng sông chặn lại, và nó đúng là một dòng sông chết tiệt. Hắn không biết một ai, ngay cả những tay ưa vượt thác ghềnh, đặt một cái bè ở nơi đây dù xa thượng nguồn rồi. Trail Stop tồn tại chỉ vì nó cần thiết cho những thợ mỏ khai thác vàng từ trong núi ở thế kỷ mười chín, đầu thế kỷ hai mươi, họ đã rời khỏi nơi này đầy khó hiểu, để lại những khu mỏ bỏ hoang. Đó là phần nhô ra giữa dòng sông và dãy núi, một mẩu đất khá bằng phẳng khoảng vài dặm, ở đó có một cửa hàng tạp hóa phục vụ thợ mỏ đã lâu lắm. Cửa hàng tạp hóa vẫn còn đó, những thợ mỏ đã bỏ đi từ lâu cũng như những người khác, ngoại trừ một ít người không có nơi nào tốt hơn còn ở lại, người duy nhất tới đó là khách du lịch, thợ săn hoặc người leo núi đá.

    Hmm. Người leo núi đá. Đó là thứ nữa thêm vào danh sách của hắn: hắn phải chắc chắn không có vị khách leo núi nào trong nhà nghỉ B&B, vì họ có thể giúp đỡ một lối thoát mà hắn không thể chặn. Hắn không nghĩ thế, vì ngay cả có ai đó leo lên bề mặt đá của dãy núi phía đông bắc, họ vẫn còn vùng đất sắc nhọn rộng hàng dặm mới tới được sự trợ giúp, nhưng hắn vẫn thích đề phòng tất cả khả năng.

    Cái cách hắn đang hình dung ra, vấn đề lớn nhất của hắn là Joshua Creed. Không nhiều người mà Teague đề cao, nhưng Creed đứng đầu bảng. Vị thiếu tá lục quân về hưu có một căn nhà gỗ nhỏ ở Trail Stop, nên nó là lý do ông ta nhận đồ dùng của mình ở đó hơn là lái xe ba mươi dặm tới cửa hàng khác. Nếu ai đó cản trở công việc, đó sẽ là Creed.

    Có hai lựa chọn: giam chân Creed với người khác bên trong khu vực bị chặn và chấp nhận rủi ro ông ta không chỉ tổ chức bọn họ mà bằng cách nào đó còn sắp đặt một sự kháng cự, hoặc phong tỏa khu vực với Creed ở bên ngoài và hy vọng việc giả vờ làm việc trên cây cầu sẽ đánh lừa ông ta. Teague hình dung hắn phải sẵn sàng xoay sở với Creed nếu ông ta ở cùng người khác, nhưng ít nhất Teague biết nơi ông ta ở. Nếu Creed không có mặt ở Trail Stop, Teague không phải suy tính đến ông ta – Creed có ý định xem xét thứ ông ta thấy được.

    Teague quyết định tốt hơn nên bao gồm cả Creed. Thế có nghĩa là hắn phải thực hiện vài bước bổ sung, đưa vào vài thiết bị đặc biệt, chắc chắn Creed ở yên nơi bị bao vây.

    Lựa chọn thời điểm đúng lúc là tất cả. Mọi người thuộc về Trail Stop phải có mặt ở đó, còn ai không thuộc về phải rời đi khi cái bẫy được bật ra. Một người ngoài cuộc sẽ có người thân mong ngóng nghe tin từ họ, hoặc họ sẽ trở về nhà vào một thời gian nhất định. Một người hàng xóm chắc chắn sẽ hỏi những câu hỏi khó chịu nếu không thấy họ trở về nhà mình. Tất nhiên, dân địa phương có thể cũng gặp tai nạn, nên sẽ dễ dàng kiểm soát hơn nếu cái bẫy tình cờ bắt được một kẻ ngoài cuộc.

    Việc đầu tiên trong danh sách của hắn là đi thám thính.

    Cate ngủ quên, kết quả là, sáng hôm sau cô phải vội vàng để có được mẻ bánh và sẵn sàng cho đợt tấn công thông thường của các vị khách hàng. Tất nhiên, sau sự nhộn nhịp ngày hôm trước, dường như mọi người ở Trail Stop cảm thấy đều cần một chiếc bánh nướng, kể cả Milly Earl, người nấu ăn ngon nhất thị trấn.

    Ngay khi cặp sinh đôi ngủ dậy, chúng bắt đầu làm phiền Cate về chuyến thăm nhà Mimi, có vẻ Sheila đã làm tốt công việc là truyền ý tưởng cho chúng. Cate giả vờ miễn cưỡng, để kích thích sự thèm muốn của chúng lên nhiều hơn. Điều cuối cùng cô muốn là vác chúng, ép vào trong chiếc SUV của mẹ cô khi họ lên đường. Đồng thời, khi cô hành động miễn cưỡng như vậy, chúng sẽ nghĩ rằng cô không vui nếu chúng đi. Lừa gạt bọn trẻ bốn tuổi là một hành động công bằng.

    Sheila gọi tới hãng hàng không xem xét về việc đổi ngày khởi hành cũng như đặt vé cho hai cậu bé. Chuyến bay duy nhất bà có thể đặt được cất cánh lúc 11 giờ sáng hôm sau, thế nghĩa là bà và bọn trẻ muộn nhất phải rời đi lúc 6 giờ sáng. Bà phải lái xe tới Boise, trả chiếc xe thuê, trông nom cặp sinh đôi và đồ đạc của họ ở cổng, cũng như căn thời gian để họ ăn uống trước khi lên máy bay. Bà cũng gọi cho cha của Cate, báo ông biết bà về nhà sớm hơn so với lịch, mang bọn trẻ theo cùng.

    “Chuẩn bị ứng phó,” Cate nghe thấy mẹ mình nói và cười lớn.

    Điều tra viên sẽ đến lúc 11 giờ, nên ngay khi đám đông buổi sáng đi hết, Cate vội vã dọn dẹp nhà bếp và phòng ăn. Từng người leo núi đã chộp lấy một cái bánh nướng và rời đi từ sớm, háo hức cho một ngày nữa trên núi đá. Cate nhớ về lúc cô và Derek như thế, không gì trong tâm trí họ hơn là thử nghiệm sức mạnh và kỹ năng của mình trên dãy núi. Những vị khách này sẽ trả phòng vào sáng mai, nên đây là ngày cuối cùng của họ thưởng thức môn thể thao.

    Lúc 10 giờ 45 phút, cô lao lên gác để thay quần áo, chải tóc, và quết một chút son bóng. Lên được nửa đường, cô nghe thấy tiếng ngã đánh bịch một cái, rồi hai cậu bé hét lên và cười lớn trong phòng chúng. Kinh nghiệm nói với cô rằng chúng thường thích thú cười đùa với trò bật tung gối và lông bay, khi chạm tới đỉnh cầu thang, cô chạy chối chết.

    Cô phanh lại ở ngưỡng cửa, nhắm mắt làm ngơ trước hai con của mình. Cả hai đều trần truồng như nhộng, nhảy lên xuống, cười vang, liên tục bị ngã quỵ xuống sàn nhà. Phía sau, cô nghe thấy Sheila cũng chạy lên trên gác, hỏi với, “Chúng không sao chứ?”

    “Cái gì trên tai… hai con đang làm gì thế?” Cate hỏi, hoàn toàn lúng túng. Cô quay đầu, nói với Sheila, “Chúng ổn cả. Chúng cởi hết quần áo ra và nhảy chồm chồm lên xuống.” Cô nhìn trở lại bọn trẻ. “Dừng lại - các con, không nhảy nữa! Nói với mẹ các con đang làm gì.”

    “Chúng con đang giũ goobies,” Tanner lên tiếng, cho một lần nói trước Tucker, nhưng chủ yếu vì Tucker đang cười quá to không thể nói chuyện.

    “Con—“ Cate cố gắng nói rồi bật cười. Chúng trông thật hài hước, nhảy lên xuống và chỉ vào nhau “goobies,” chúng đang có một khoảng thời gian vui vẻ, tất cả cô có thể làm là lắc đầu và cười với chúng.

    Một tia sáng lóe bên cạnh, cô nhảy lên. Là Sheila, một máy ảnh kỹ thuật số trong tay bà.

    “Đấy,” bà nói hài lòng. “Có gì đó để gửi tối hậu thư cho chúng khi chúng mười sáu tuổi.”

    “Mẹ! Thế sẽ làm chúng bối rối đấy!”

    “Con đánh cược là chúng sẽ. Ta sẽ trả mọi giá để có thứ gì đó giống thế này giữ trên đầu Patrick. Ta sẽ in ra vài tấm khi về tới nhà. Chỉ cần đợi; con sẽ cảm ơn ta có ngày.”

    Chuông cửa kêu dưới gác, Cate nhìn vào đồng hồ đeo tay.

    Nếu là Marbury, ông đến sớm, nên giờ cô không đủ thời gian tắm rửa thay quần áo. Rên rỉ, cô nói, “Mẹ giúp chúng mặc đồ trở lại trong khi con mở cửa được chứ? Có lẽ là điều tra viên của hạt.”

    Cô chạy xuống gác, kéo mở cửa trước. Calvin Harris đứng đó, một cái hộp ở cửa hàng kim khí Earl trong một tay, hộp dụng cụ của anh trong tay kia; bên cạnh anh là một người chắc nịch mà cô không nhận ra, nhưng vì ông ấy có một bao súng lục đeo ở thắt lưng nên cô chắc đây là Marbury. Mái tóc ông màu nâu trung bình, ông mặc quần jean và áo phông polo, với chiếc áo gió màu xanh sẫm.

    “Bà Nightingale?” Không đợi cô trả lời ông nói tiếp, “Tôi là Seth Marbury, điều tra viên của văn phòng cảnh sát trưởng.”

    “Vâng, mời vào.” Khi bước lùi lại, cô ném cái liếc vội vã lên phía gác, nơi những tràng cười trẻ con vẫn chưa dứt.

    Cô nghe tiếng mẹ mình, mặc dù, âm thanh ngày càng tuyệt vọng, cô đã nhắc bọn trẻ dừng trò rung lắc goobies của chúng và mặc quần áo lại, rõ ràng lời nhắc nhở đã bị bỏ qua. Những tiếng nhảy thình thịch của chúng vọng xuống từ trần nhà.

    Cả hai người đàn ông nhìn lên.

    Cate cảm giác màu sắc đang lan rộng trên gò má nóng bừng.

    “Um… tôi có hai đứa sinh đôi,” cô giải thích với Marbury. “Chúng bốn tuổi.” Và đó là tất cả những lời giải thích cần thiết.

    “Tannuh, nhìn này!” cô nghe tiếng Tucker rõ ràng, cao lanh lảnh. “Anh làm được đường zich zắc này!”

    Zich zắc ư?

    Rõ ràng mất kiên nhẫn với sự dỗ dành không hiệu quả, Sheila dùng giọng nói nghiêm khắc nhất của mình – kiểu nghiêm khắc của một hạ sỹ quan huấn luyện - “Đủ rồi! Ta không muốn trông thấy thêm bất cứ goobies zich zắc nào nữa. Ta không muốn nhìn trò giũ goobies của các cháu, nhảy múa, nhảy dây, hét hò, hay bất cứ thứ gì các cháu có thể tạo ra. Ta muốn nhìn thấy các goobies này trong bộ quần áo. Được chứ? Nếu các cháu muốn về nhà với ta, chúng ta phải lên kế hoạch, ta không thể thực hiện nó nếu ta nhìn thấy goobies của các cháu trần truồng.”

    Những lời nói thành thật hơn chưa từng được nói ra, Cate nghĩ, khi cô nuốt vào một tiếng cười đang âm ỉ. Cô cố gắng không nhìn vào khuôn mặt của một trong hai người đàn ông, vì cô biết rằng nếu cô làm thế cô sẽ mất kiểm soát hoàn toàn. Hò hét goobies ư? Sheila thật biết cách hành xử.

    Dễ nhận thấy, cô không phải là người duy nhất cố gắng không đánh mất gì đó. Calvin rón rén đi về phía cầu thang, cẩn thận không liếc nhìn cô.

    “Tôi – uh – tôi chỉ lắp ổ khóa này vào cánh cửa gác mái,” anh nói, đó là tất cả rồi lao lên tầng hai.

    Cate hít vào một hơi sâu, rồi thở mạnh ra, nỗ lực làm dịu bớt khuôn mặt nóng bừng của mình.

    “Hãy tới phòng làm việc. Mẹ tôi sẽ làm cho tiếng ồn ào lắng xuống trong một phút thôi.”

    Marbury cười khúc khích khi cô dẫn ông vào phòng làm việc.

    “Chúng hẳn phải giữ cô luôn cảnh giác.”

    “Vài ngày nhiều hơn ngày khác. Hôm nay là một trong những ngày đó,” cô nói vẻ thiểu não. Cảm ơn Chúa, tiếng ồn ào từ phòng ngủ của chúng đã lắng xuống, sự cám dỗ của việc lập kế hoạch đến nhà Mimi phải lớn hơn trò vui giũ goobies chứ.

    Cô biết ơn vô hạn, Marbury không hỏi chuyện gì đang diễn ra trên gác, nhưng rồi điều đó khá rõ ràng. Ông ấy cũng từng có một đứa con nhỏ tuổi. Cô không muốn nghĩ về việc ông làm những thứ xa vời như thế. Cô chỉ muốn nghĩ về Marbury đúng như một nhân viên thực thi pháp luật.

    “Tôi vừa lấy lời khai của ông Harris,” ông ấy nói, và Cate đột ngột thấy khó khăn với các lời khai, vì cô không biết chính xác Calvin đã nói gì với ông. Anh có nhắc tới việc đánh vào đầu một gã, Huxley, không? Cô sẽ chấp nhận trò may rủi là, anh không nhắc tới, hay cứ cho là cô không nhìn thấy anh làm việc đó, nên cô bắt đầu từ đầu, thậm chí kể về chuyện ai đó nghe thấy Neenah và cô nói tới hai người đàn ông, và cô nghi ngờ họ thế nào.

    Khi cô kết thúc, Marbury thở dài, dụi mắt, cô nhận ra ông trông mệt mỏi; ông hẳn có nhiều chuyện trong địa hạt của mình, nhưng ông vẫn dành thời gian tới đây lấy lời khai của họ.

    “Hai gã này có lẽ đã đi xa rồi. Bà không nhìn thấy gì khác của chúng ngày hôm qua, đúng không?”

    Cate lắc đầu.

    “Tôi nên gọi cho ông sớm hơn ngày hôm qua,” cô thừa nhận, “tôi chỉ không nghĩ tới chuyện đó. Chúng tôi không sao nhưng choáng váng, nếu ông hiểu ý tôi. Mọi người đứng xung quanh nói chuyện về nó, cặp sinh đôi lắng nghe, và tôi –“ Cô xòe rộng bàn tay bất lực. “Nếu tôi gọi, ông có thể tóm được chúng ở con đường đèo duy nhất, ấy là nói như vậy.”

    “Tôi có thể buộc tội chúng, đúng, nhưng chúng sẽ được bảo lãnh, thoát ra, và chúng ta không bao giờ gặp lại chúng. Tôi ghét thế, nhưng hạt không có đủ nguồn lực cho chúng tôi dành nhiều thời gian truy tìm vài tên tội phạm không rõ nguồn gốc, đặc biệt khi không có ai bị thương và không có gì bị lấy đi ngoại trừ một cái va li mà không hề thuộc về bà. Bà chắc chắn không thứ gì giá trị trong va li chứ?”

    “Thứ giá trị nhất là đôi giày, tôi tự đặt chúng vào trong đó. Chúng ban đầu không ở trong va li.”

    Marbury hất nhẹ cuốn sổ của mình đóng lại.

    “Thế thôi. Nếu bà nhìn thấy chúng lần nữa, gọi điện ngay lập tức, nhưng chúng có thứ chúng muốn, nên tôi cho rằng chúng bỏ đi xa rồi.”

    Với khoảng cách là cả một đêm từ lúc đó đến lúc này nên Cate đồng ý với ông. Cô đã bình tĩnh hơn vào hôm nay, và bắt đầu ước cô không đề nghị mẹ mình mang bọn trẻ cùng bà về nhà, nhưng cô đã bắt đầu lăn bánh đoàn tàu, cô sẽ để kế hoạch của họ tiến hành, hơn nữa hai cậu bé quá phấn khích về chuyến thăm nhà Mimi.

    Những tiếng la hét xé tan bầu không khí, và Cate, từ lâu đã quen với các nét khác biệt trong tiếng hét của bọn trẻ, giải thích rằng đây là tiếng hét vui sướng.

    “Hẳn là chúng phát hiện ra ông Harris,” cô nói với Marbury. “Chúng thích hộp dụng cụ của ông ấy.”

    “Thật dễ hiểu,” ông nói, cười toe toét. “Một cậu bé, một cái búa – không thích sao được?”

    Họ rời khỏi phòng làm việc và trông thấy Calvin đang đi xuống cầu thang, đi trước là cặp sinh đôi, vừa đi vừa múa máy.

    “Mẹ ơi!” Tucker nói, hướng về phía cô. “Chú Hawwis cho chúng con cầm máy hoan!”

    “Máy khoan,” Cate tự động sửa lại, bắt gặp ánh mắt Calvin, vẫn bình tĩnh và vững vàng như thường lệ.

    “Máy khoan,” Tucker sửa lại, chộp lấy cái búa vòng qua một bên quần của Calvin và giật mạnh nó.

    “Dừng việc kéo quần chú Harris,” cô nói, “trước khi con làm nó tụt xuống.”

    Ngay khi những lời nói phát ra khỏi miệng, cô cảm thấy má mình bắt đầu nóng lên. Chuyện gì với cô vậy? Cô đã không đỏ mặt trong nhiều năm, nhưng dường như điều cô làm chẳng có gì ngoại trừ khiến cô đỏ mặt từ ngày hôm qua. Mọi thứ kiểu như đều có hai nghĩa, hoặc liên quan rõ ràng đến tình dục, và, vâng, viễn cảnh quần của Calvin tụt xuống chính xác là tình dục.

    Nhận thức làm cô choáng váng.

    Calvin? Tình dục?

    Bởi vì anh cứu mạng họ hôm qua? Cô đã phân cho anh một vai anh hùng và, theo cái cách nam – nữ đã đi vào truyền thống, vô thức phản ứng lại biểu hiện của phái mạnh? Cô đã đăng kí vài khóa học nhân chủng học vì nó rất thú vị, nên cô biết về động lực của bản năng tình dục. Đây hẳn là trường hợp đó. Phụ nữ phản ứng với những người đàn ông khỏe mạnh, uy quyền hay anh hùng. Ở thời thượng cổ, nó có nghĩa là cơ hội lớn hơn của sự sống còn. Giờ đây phụ nữ không phải làm thế, nhưng bản năng xưa cũ vẫn còn đó; một lý do giải thích cho sự quyến rũ của Donald Trump với quá nhiều phụ nữ như thế?

    Nhận thức xoa dịu cô. Bây giờ cô biết điều gây ra sự nhạy cảm bất thường này, cô có thể đối phó.

    Cô giới thiệu cặp sinh đôi với Marbury, tất nhiên chúng ngay lập tức chú ý tới khẩu súng lục, mở to đôi mắt đầy sợ hãi vì ông là một cảnh sát, tuy nhiên chúng hơi thất vọng vì ông không diện bộ đồng phục.

    Ít nhất chúng bị phân tâm đủ lâu để Cate hỏi Calvin, “Tôi nợ anh bao nhiêu vậy?”

    Anh lôi tờ hóa đơn cái khóa ra khỏi túi mình, đưa nó cho cô. Những ngón tay của họ chìa ra, cô phải chiến đấu với một cơn run rẩy toàn bộ cơ thể, bất giác cô nhớ lại đôi bàn tay rắn rỏi giữ khẩu súng săn, ngón tay anh siết chặt trên cò súng. Cô cũng nhớ lại cái cách anh ôm cô và Neenah sau đó, cánh tay anh ấm áp và trấn an vòng quanh họ, cơ thể gày gò của anh mạnh mẽ và cứng cáp đến ngạc nhiên trong cái quần yếm rộng thùng thình.

    Ôi, chết tiệt. Cô đang đỏ mặt lần nữa.

    Còn anh thì không.
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/7/15
  11. murasaki

    murasaki Mầm non

    Bạn có bản tiếng Anh cuốn" Cover of night" không? Nếu có bạn gửi cho mình theo địa chỉ : [email protected]. Cảm ơn bạn.
     
    Last edited by a moderator: 7/5/15
    halucky thích bài này.
  12. halucky

    halucky Lớp 11

    Last edited by a moderator: 7/5/15
  13. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 12 (halucky)

    “VẬY,” MẸ CÔ TÌNH CỜ HỎI KHI HỌ NGỒI TRÊN GIƯỜNG BỌN TRẺ ĐÊM ĐÓ, đóng gói đồ cho chúng, “có chuyện gì giữa con và Calvin Harris à?”

    “Không!” Sửng sốt, Cate gần như thả rơi chiếc quần jean cô đang gấp, nhìn chằm chằm vào mẹ mình. “Mẹ lấy đâu ra ý tưởng đó?”

    “Chỉ là… vài thứ.”

    “Như là gì ạ?”

    “Cái cách hai đứa ở gần nhau. Kiểu như nhìn nhau lén lút, ngượng nghịu.”

    “Con đâu nhìn lén lút.”

    “Nếu mẹ không phải mẹ con, cái giọng phẫn nộ thẳng thắn đó đã nói hết rồi. Mẹ biết rõ con quá mà.”

    “Mẹ! Không có chuyện gì cả. Con không – Con chưa – “ Cô dừng lại, đặt bàn tay vào lòng, những ngón tay vuốt bộ quần áo nhỏ. “Không kể từ khi Derek mất. Con không hứng thú ra ngoài hẹn hò với bất kỳ ai.”

    “Con nên chứ. Đã ba năm rồi.”

    “Con biết.” Và đúng thế - nhưng biết về chuyện gì đó và làm nó là hai việc khác nhau. “Chỉ là – mất quá nhiều thời gian và năng lượng để chăm sóc bọn trẻ cùng nơi này… thêm thứ gì khác, hay ai đó khác, sự hỗn tạp sẽ nhiều hơn khả năng con có thể xử lý. Và con chưa từng nhìn lén lút,” cô thêm vào. “Hôm nay con lo lắng về việc đưa lời khai cho Marbury bởi vì con không biết Calvin nói gì với ông ấy về chuyện đánh vào đầu Huxley. Nếu con có nhìn anh ấy ‘lén lút’, cũng vì lý do đó.”

    “Cậu ấy nhìn con.”

    Giờ thì Cate cười to. “Và rất có thể anh ấy đỏ mặt rồi nhanh chóng nhìn đi chỗ khác. Anh ấy rất nhút nhát. Con cho rằng con nghe thấy anh ấy nói nhiều hơn hai ngày so với lúc trước, kể từ khi chúng con tới đây sinh sống. Mẹ đừng suy luận gì hơn là chuyện đó. Anh ấy có lẽ nhìn lén lút tất cả mọi người.”

    “Không, cậu ấy không thế. Mẹ không nhận thấy cậu ấy đặc biệt nhút nhát. Khi cậu ấy lắp ổ khóa mới vào cánh cửa gác mái, thực tế là bọn trẻ đeo bám xung quanh, cậu ấy trò chuyện với mẹ giống như cậu ấy làm với Sherry và Neenah.”

    Cate ngừng lại, nhớ về chuyện mình nghe lỏm được Calvin tán chuyện với Sherry. Rõ ràng có nhiều người làm anh thoải mái, nhưng bản thân cô không phải là một trong số họ. Ý nghĩ đó gây nên một chút đau đớn kỳ quặc trong cái hõm dạ dày cô. Theo bản năng, cô ngượng ngùng bởi thấy mình xem xét đến nguyên nhân, cô buộc mình quay lại cuộc trò chuyện.

    “Dù thế nào đi nữa, trước khi mẹ bắt đầu kế hoạch gán ghép chúng con với nhau, hãy suy nghĩ một chút: không ai trong bọn con chính xác là một món ngon đáng để bẫy. Con thường xuyên túng quẫn, con có hai đứa nhỏ. Anh ấy là người siêng năng. Không ai trong bọn con gõ cửa nhà nhau cả.”

    Môi Sheila rung rung khi bà chiến đấu với một nụ cười. “Rồi xem, hai đứa là một cặp tốt đấy, vì cả hai đứa rất đồng đều, phù hợp.”

    Cate không biết nên thích thú hay lo sợ. Giờ đây, cô ở trình độ cao hơn người đàn ông chăm chỉ? Cô không nâng mình lên trở thành một kẻ hợm hĩnh, nhưng cô từng làm trong thế giới doanh nghiệp, cô có những tham vọng. Đó không phải là những tham vọng lớn, nhưng nó có tồn tại. Như cô thấy, Calvin hoàn toàn vừa lòng với những gì anh là. Mặt khác, do nghề nghiệp cô lựa chọn là sở hữu và quản lý một nhà nghỉ B&B, điều gì thuận lợi hơn là có một người đàn ông chăm chỉ của chính cô? Có Chúa biết cô không thể sống sót trong ba năm qua nếu không có anh.

    Cô bật ra một tràng cười. “Ồ, con từng cân nhắc tới việc đề nghị anh ấy chuyển tới.”

    Mẹ cô chớp mắt ngạc nhiên.

    “Cho anh ấy một phòng ăn, ở miễn phí đổi lại việc sửa chữa không công,” Cate giải thích, cười lớn lần nữa khi cô đứng dậy, lấy đồ lót của bọn trẻ ra khỏi ngăn tủ. Trong khi đứng, cô ngó đầu ra ngoài cánh cửa kiểm tra hai cậu bé, chúng đang chơi ô tô và xe tải ở hành lang. Cô đã đặt chúng ngoài đó để cô và mẹ mình có thể sắp xếp quần áo mà không cần đến sự giúp đỡ của chúng, đảm bảo tránh được việc cực kỳ lộn xộn. Chúng xây được vài pháo đài bằng bộ xếp hình, và đâm ô tô vào đấy. Thứ đó sẽ giữ chúng chắc chắn bận rộn một lúc.

    “Con yêu, đây là lúc cân nhắc bắt đầu hẹn hò với đàn ông lần nữa đấy,” Sheila tiếp tục. “Mặc dù, có Chúa biết quyền lựa chọn ở đây ít ỏi thế nào, Calvin là người duy nhất trong số họ. Nếu con trở về Seattle –“

    À, ra là thế, lý do thực sự ẩn sau việc mẹ cô bỗng dưng quan tâm tới Calvin. Cate làm khuôn mặt rầu rĩ. Đây chỉ là một chiến dịch khác nhằm thuyết phục cô rời khỏi Idaho.

    Cate chờ cho tới khi mẹ mình dừng lại lấy hơi, rồi giơ ra, chạm vào tay bà.

    “Mẹ, trong tất cả lời khuyên mẹ cho con, mẹ biết điều gì con trân quý nhất không?”

    Sheila lùi lại một chút, đôi mắt nheo lại nghi ngờ. “Không, gì thế?”

    “Khi Derek mất, mẹ giới thiệu cho con rất nhiều người, họ cho con lời khuyên về việc sống tiếp và hẹn hò, vân vân, nhưng con không nghe một ai, ngay cả mẹ nữa, bởi vì nỗi đau có thời gian biểu của nó, và nó khác nhau với từng người.”

    Nếu có điều gì Sheila ghét, thì đó là lời lẽ của bà chống lại chính bà. “Ồ, Chúa ơi!” bà nói với tông giọng chán ghét hoàn toàn. “Đừng nói với mẹ con cảm thấy đó là lời nói láo sâu sắc nhé!”

    Cate phá lên cười, rơi mạnh người xuống ngang giường Tanner, giơ hai nắm tay lên chiến thắng.

    Sheila ném một đôi tất cuộn rối vào cô. “Ranh con vô ơn,” bà lẩm bẩm.

    “Vâng, con biết: mẹ vất vả tới hai mươi ngày—“

    “Hai mươi giờ. Nó dường như giống nhiều ngày.”

    Cả hai cậu bé chạy vào.

    “Mẹ, chuyện gì buồn cười thế?” Tucker gặng hỏi, nhảy lên giường với cô.

    “Chuyện gì buồn cười?” Tanner lặp lại, nhảy sang phía bên kia của cô.

    Cate vòng tay ôm chúng. “Là Mimi. Bà đang kể truyện cười cho mẹ.”

    “Truyện cười gì thế ạ?”

    “Khi mẹ còn bé.”

    Đôi mắt chúng mở to, xoe tròn. Mẹ của chúng là một cô gái bé nhỏ là một khái niệm thật khó tin.

    “Mimi biết mẹ khi đó ạ?” Tucker hỏi.

    “Mimi là mẹ của mẹ mà,” Cate trả lời, vui mừng không phải nói điều đó mười lần thật nhanh. “Giống như mẹ là mẹ của các con.”

    Cô nhìn thấy môi của Tanner mấp máy khi nó lặng lẽ lặp lại cụm từ mẹ của mẹ. Nó bị mặc kẹt ngón tay trong miệng khi nó đánh giá Sheila với cường độ của một chùm tia laze.

    “Mẹ cảm giác như một con vật ở sở thú,” Sheila phàn nàn.

    “Sở thú?” Tanner hỏi quanh ngón tay, đầy quan tâm.

    “Sở thú! Mimi sẽ đưa chúng mình đi sở thú!” Tucker reo lên vui sướng.

    “Sập bẫy rồi,” Cate nói, cười toe toét với Sheila.

    “Ha ha. Mẹ tình cờ nghĩ rằng đó là một ý tưởng hay. Chúng ta chắc chắn sẽ đi sở thú,” bà kiên quyết hứa. “Nếu các cháu biết cư xử và lên giường khi được yêu cầu.”

    Một khi bọn trẻ nhìn thấy cô xếp quần áo của chúng vào trong va li, thế là hết đường, đúng như Cate biết nó sẽ. Niềm phấn khích của chúng gần như vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Chúng bắt đầu lôi ra những món đồ chơi mà chúng muốn mang theo cùng, thứ tất nhiên sẽ phải yêu cầu thuê một chuyến bay cho riêng mục đích ấy. Cate để Sheila xử lý tình huống, vì bà sẽ phụ trách bọn chúng trong vài tuần tới nên chúng cần tập thói quen lắng nghe bà hơn.

    Cuối cùng họ đóng gói xong, với một giới hạn nhất định đồ chơi cho mỗi đứa. Tới lúc đó cả hai đều mệt đứt hơi, Cate để Sheila lại với vài việc lặt vặt như cho chúng tắm và mặc đồ ngủ vào trong khi cô xuống gác, giải quyết việc chuyển đổi ghế ngồi của hai cậu bé trong chiếc Explorer của cô sang chiếc xe thuê của Sheila. Cô nên làm việc đó giữa ánh sáng ban ngày, cô nghĩ sau khi đánh vật với dây đai và khóa trong ánh sáng lờ mờ của mái vòm trên đầu. Cuối cùng chỗ ngồi được buộc chắc chắn, cô lê bước trở vào trong làm thẻ tên và địa chỉ cho chiếc ghế, vì họ phải ký gửi nó ở khoang hành lí của máy bay. Cô phải thực hiện một chuyến đi ra ngoài nữa để đặt tấm thẻ vào mỗi chiếc ghế.

    Đêm tháng Mười lạnh giá, Cate ước mình lấy một chiếc áo khoác trước khi ra. Cô dừng lại một lát, nhìn chằm chằm lên bầu trời lốm đốm sao. Bầu trời đêm quá trong đến nỗi dường như có hàng nghìn ngôi sao đang treo trên đầu, nhiều hơn rất nhiều cô từng nhìn thấy ở bất cứ nơi nào khác.

    Đêm tối bao quanh cô, nhưng nó không yên ắng. Tiếng gầm của dòng sông luôn hiện diện làm nền, kèm theo đó là tiếng lá cây xào xạc trong gió như lời thì thầm giữa các hàng cây. Những cành cây cao nhất đã bắt đầu chuyển màu; mùa thu đang rời đi rất nhanh, và khi mùa đông chiếm giữ, kinh doanh sẽ chậm hẳn tới độ trong vài tuần cô không có khách hàng nào đặt phòng. Có lẽ cô nên bắt đầu phục vụ bữa trưa trong suốt cái mùa buồn tẻ này, cô ngẫm nghĩ. Chỉ vài thứ đơn giản, như súp và món hầm, bánh sandwich; chúng rất dễ làm và giúp thu ít tiền. Khi tuyết rơi dày từ hai đến ba feet trên mặt đất, sự hứa hẹn của món súp, món hầm hay ớt nóng sẽ thuyết phục được cư dân ở Trail Stop. Chết tiệt, nó có thể đưa cả Conrad và Gordon Moon từ trang trại của họ tới.

    Câu hỏi của Sheila về Cal lướt trở lại tâm trí cô. Cô chưa từng kết nối một chút lãng mạn với anh từ xa – nhưng sau đó thì, cô đâu có ý nghĩ lãng mạn về bất cứ ai chứ. Cô vẫn không thể để tâm trí chấp nhận khái niệm đó, nhưng cô có cảm giác một chút đau đớn kỳ quặc trong lòng khi cô lần nữa tự hỏi lý do anh quá kín miệng khi ở gần mình. Nếu anh có thể tán chuyện với mọi người, tại sao lại không với cô? Có gì không đúng với cô ư? Có phải anh né tránh cô vì anh không muốn cô có ý nghĩ về anh? Ý tưởng gần như nực cười – song nó không phải thế. Cô có hai con nhỏ. Rất nhiều đàn ông không muốn dính líu tới người phụ nữ có con từ cuộc hôn nhân trước.

    Nhưng tại sao cô lại suy nghĩ theo cách này về Cal? Cô không có cơ sở cho giả thiết đó. Cô chưa từng quan tâm tới anh theo cách ấy, nên nếu anh có bất kỳ ý nghĩ nào như thế về cô, thì anh là diễn viễn giỏi nhất trên đời, vì anh chẳng hề hé lộ chút nào.

    Cô xô toàn bộ chủ đề đi. Rõ dở hơi, và cô đúng là lẩn thẩn để bản thân bị ám ảnh về nó. Việc cô nên làm là lập kế hoạch cho hai tuần sắp tới.

    Trong khi bọn trẻ đi vắng, cô có vài việc để làm, như dọn dẹp tủ lạnh, tủ để đồ ăn, đống đá xung quanh phạm vi bãi đậu xe để cho nó trông quy củ hơn là chỉ ít đá rải lên. Cô có thể lôi quần áo của bọn trẻ ra, đóng gói những thứ quá chật hay quá sờn rách, cất chúng lên gác mái. Cô nên quyên góp quần áo cho trại tế bần hoặc gì đó, nhưng cô không thể cho đi một phần của chúng. Cô vẫn giữ tất cả đồ sơ sinh của chúng, những bộ áo liền quần bé xíu, yếm dãi, tất, và cả những đôi giày nhỏ đáng yêu. Có lẽ đến lúc chúng bắt đầu tới trường, cô sẽ vượt qua được sự quyến luyến vô lý này với những bộ quần áo của chúng do chúng lớn quá nhanh; nếu không, cô nhìn thấy trước là toàn bộ ngôi nhà này phải dùng làm kho lưu giữ.

    Vâng, cô có rất nhiều việc giữ mình bận rộn khi bọn trẻ vắng nhà. Có lẽ vào cuối ngày cô quá mệt mỏi để mà khóc vì nhớ chúng quá nhiều.

    Điều đó nhắc cô rằng nếu cô không nhanh chóng trở vào, chúng sẽ ngủ mất. Cô sẽ không có cơ hội đưa chúng vào giường, đọc cho chúng một mẩu truyện trong hai tuần tới, nên cô không muốn bỏ lỡ dịp tối nay.

    Sheila vừa cho chúng mặc xong bộ đồ ngủ khi cô bước vào nhà tắm ướt át.

    “Tất cả sạch sẽ,” Tucker nói, tươi cười nhìn cô.

    Cô cúi xuống hôn lên đỉnh đầu cậu bé, ôm nó lại gần rồi duỗi thẳng nó trong vòng tay mình. Nó xích lại gần, đầu dựa trên vai cô, khiến trái tim cô nghẹn lại với nhận thức rằng những ngày này rồi sẽ trôi đi, chẳng mấy chốc chúng sẽ quá lớn để cô có thể bế được – chứ không phải chúng không muốn. Khéo lúc ấy chúng cũng không muốn cô ôm hay hôn chúng nữa.

    Cate bế Tanner lên, nó vòng tay quanh cổ cô và mỉm cười rạng rỡ. Cô lùi lại, nheo mắt nhìn nó, hiệu quả sẽ thêm một chút nếu cô không vỗ nhẹ lưng nó cùng lúc.

    “Con đang làm gì đó,” cô nói vẻ nghi ngờ.

    “Đâu có,” nó cam đoan, che một cái ngáp.

    Chúng đã mệt và sẵn sàng đi ngủ, nhưng còn quá háo hức để nằm xuống. Đầu tiên chúng không chọn được chúng muốn nghe truyện gì, rồi Tanner muốn một con khủng long để ôm, thế nghĩa là Tucker phải quyết định thứ đồ chơi mà nó muốn. Cuối cùng nó chọn nhân vật Batman, nó để lên trên tấm ga phủ.

    Tanner đặt con khủng long xuống và nhìn cô với vẻ nghiêm túc.

    “Con sẽ vào quân đội khi lớn lên,” nó tuyên bố.

    Tucker gật đầu, bị cuốn vào một cái ngáp dài nên không nói được gì.

    Tuần trước, chúng chọn làm lính cứu hỏa, nên Cate chỉ có thể tự hỏi làm sao chúng lại thay đổi nhanh thế.

    “Các con có biết nhà vua cất giữ quân đội ở đâu không?” cô hỏi với đôi mắt mở to nghiêm trọng.

    Cả hai lắc đầu, đôi mắt mở to.

    “Trong ống tay áo.”

    Vài giây kéo dài chúng nhìn chằm chằm vào cô im lặng, rồi bắt đầu cười khúc khích như chúng nghe truyện cười. Đôi khi cô phải giải thích truyện cười cho chúng rồi thất bại, nhưng chúng lại thích nó khi hiểu ra. Ở phía sau mẹ cô rên nhẹ, có lẽ bà nhớ rằng ở độ tuổi của cặp sinh đôi, nói lặp lại là một trò chơi, và giờ bà tin rằng sẽ nghe thấy truyện này ít nhất một trăm lần trong hai tuần tới.

    Cate đọc chúng nghe truyện chúng chọn, ru chúng ngủ trong năm phút. Cô hôn chúc ngủ ngon, rồi nhón chân ra khỏi phòng.

    Sheila nhận thấy những giọt nước trong mắt cô bèn ôm lấy cô. “Chúng sẽ ổn thôi, mẹ hứa. Chỉ cần đợi tới ngày đầu tiên tới trường; đó là lúc con sẽ khóc thét lên đấy.”

    Mặc những giọt nước mắt Cate bật cười. “Cám ơn mẹ, thật dễ chịu khi biết vậy.”

    “Ừ, nhưng nếu mẹ nói với con nó không làm phiền con chút nào thì sao, khi ngày đó tới con biết mẹ đã nói dối và không tin mẹ nữa. Tất nhiên,” Sheila trầm tư, “mẹ không khóc tí nào khi Patrick đi học. Mẹ nhớ, mình quay vòng, nhảy cẫng lên trên bãi cỏ.”

    Sheila tiếp tục hồi tưởng về Patrick, giữ Cate mỉm cười, cho tới khi họ lên giường. Tuy vậy, ngay khi Cate nói lời chúc mẹ cô ngủ ngon và đóng cửa, mắt cô ngấn đầy, cằm rung rung. Hai cậu bé chưa từng đi xa qua đêm trước đây. Sự chờ đợi sẽ phá hủy cô mất. Chúng sẽ ở rất xa; nếu có chuyện gì xảy đến, phải mất hàng giờ đằng đẵng cô mới tới được với chúng. Cô không được nghe tiếng chúng chơi đùa cả ngày, tiếng hò hét và tiếng cười của chúng, cả tiếng chúng chạy thình thịch xung quanh. Cô không thể ôm chúng thật chặt, cảm giác cơ thể nhỏ bé tựa sát vào mình để biết rằng chúng không sao.

    Hối tiếc, cô ước chi đừng mở miệng về việc đưa chúng về nhà cùng mẹ mình, nhưng lúc đó cô đã quá hoảng sợ, bị tác động mạnh - một phản ứng hoàn toàn bình thường khi một khẩu súng dí vào đầu cô. Ý nghĩ duy nhất có được là đưa bọn trẻ tránh xa bất kể nguy hiểm nào.

    Cô không biết cắt những sợi dây lại khó khăn đến vậy. Hay cô cũng không có ý định cắt nó bây giờ? Khi chúng năm tuổi mới đúng lúc. Hay sáu. Thậm chí có thể là bảy tuổi.

    Cô cười với chính mình, tiếng kêu ậc nước bị giữ lại trong một tiếng nấc. Một phần cô muốn chúng tự lập hơn, vì trở thành bà mẹ đơn thân của hai cậu bé hiếu động không phải dễ dàng. Cô cảm giác như thể mình không bao giờ có thời gian giải lao, như thể mình phải cảnh giác từng phút mỗi ngày, bởi vì chúng có thể gặp rắc rối trong một tíc tắc. Nếu chúng lớn hơn, có tinh thần trách nhiệm hơn, cô có thể thư giãn một chút. Cô chỉ không muốn chúng lớn hơn và có trách nhiệm hơn ngay lúc này.

    Những lời động viên không giúp được gì; cũng không thuyết phục được gì. Cô khóc trong giấc ngủ, sẵn sàng nhớ bọn trẻ quá nhiều đến nhói đau.

    Sáng hôm sau Cate dậy sớm hơn thường lệ nên cô giúp mẹ mình đưa hai cậu bé cùng đồ đạc của họ chất vào trong chiếc SUV, cũng như nấu bữa sáng hàng ngày. Cô nấu cháo yến mạch nóng cho chúng vì không khí trước rạng đông hết sức giá lạnh, nhưng chúng quá buồn ngủ, chỉ ăn được nhiều hơn vài miếng. Biết rằng chúng không thể chịu được cả chặng đường tới Boise mà không đói, cô chuẩn bị cho mỗi đứa một túi nhựa kéo khóa đựng ngũ cốc và kèm theo hai quả táo để dự phòng.

    Bình minh vẫn chưa hé rạng khi họ dắt hai cậu bé ra ngoài. Ngay cả bầu không khí lạnh cũng không đánh thức chúng nhiều lắm. Chúng leo vào chỗ ngồi của mình, nhìn thật đáng yêu trong chiếc quần jean và đôi giày thể thao, áo sơ mi vải flannel mở cúc khoác ngoài áo phông. Chúng cưỡng lại việc mặc áo khoác, Cate đành ra ngoài khởi động chiếc SUV trước thời hạn, bật đèn sưởi bên trên, bên trong chiếc xe trông đẹp đẽ và ấm áp. Chúng ổn định chỗ, mỗi đứa cầm một món đồ chơi đã chọn. Cate hôn từng đứa, dặn chúng phải nghe lời Mimi, rồi ôm mẹ mình.

    “Mẹ đi an toàn,” cô điều khiển giọng nói để không run rẩy quá nhiều.

    Sheila ôm lại cô, vỗ nhẹ vào lưng cô giống lúc Cate còn bé. “Con sẽ ổn thôi,” bà nói dịu dàng. “Mẹ sẽ gọi điện khi về tới nhà, và mẹ sẽ gọi hoặc gửi thư điện tử hàng ngày.”

    Cate không muốn nhắc tới từ nhớ nhà sợ hai cậu bé nghe thấy – cô không muốn gieo một hạt mầm, phòng trường hợp chúng hiểu từ đó nghĩa gì – nên cô nói, “Nếu chúng khóc—“

    “Mẹ sẽ xử lý được,” Sheila cắt ngang. “Mẹ biết con chấp thuận chuyện này khi con đang sợ hãi, rồi không có gì xảy ra nên con cho rằng con đang lo lắng thái quá, nhưng… thật không may. Con đã đồng ý, và mẹ đang thực hiện. Mẹ không muốn cắt ngắn chuyến thăm viếng của mình, nhưng mẹ sẽ sử dụng phần thời gian còn lại khi mẹ đưa bọn trẻ về nhà.”

    Không có gì giống những lời bình luận không vô nghĩa của mẹ cô làm sáng tỏ thế giới của bà, Cate nghĩ, cười lớn khi cô bước vào một cái ôm khác. Rồi mẹ cô ngồi vào sau vô lăng, Cate cúi xuống nhìn lần cuối vào hai cậu bé. Tucker đã ngủ. Tanner trông buồn ngủ, nhưng vẫn kịp trao cho cô ánh nhìn tinh nghịch và một nụ hôn gió. Cate giả vờ bị chao đảo bởi ảnh hưởng nên cậu bé cười khúc khích.

    Chúng sẽ không sao, cô nghĩ khi nhìn đèn hậu biến mất trên con đường rải đá dăm. Cô nghi ngờ về bản thân mình.

    Từ điểm quan sát của mình, Teague theo dõi chiếc SUV chậm lại khi tiến gần cây cầu, rồi tăng tốc độ. Ánh sáng từ bảng điều khiển cho thấy một người phụ nữ trung niên ngồi sau tay lái. Ghế hành khách trống không.

    Giả thiết hợp lý là, rời đi sớm thế này, người phụ nữ phải có một chuyến bay. Hắn không thể tưởng tượng tại sao một người phụ nữ đơn độc lại tới giữa cái xứ hư vô cho một kỳ nghỉ cô độc, nhưng có lẽ bà ta là một giám đốc điều hành chịu nhiều áp lực, chỉ muốn thoát khỏi mọi thứ, và Trail Stop chắc chắn là một nơi hoàn hảo cho việc đó.

    Trong suốt những giờ ngắn ngủi hắn đã do thám cộng đồng. Hai chiếc xe thuê được đậu một phía khá xa nhà nghỉ B&B, có nghĩa là giờ chỉ còn một chiếc. Hắn đưa mắt tìm nó. Đảo mắt khắp ngôi nhà, hắn nhìn mọi góc độ, quyết định vị trí tốt nhất cho tay chân của mình có tầm ngắm hiệu quả. Vài con chó cất tiếng sủa, nhưng hắn rất quen với chuyển động bí mật cũng như không ai trong số họ thật sự báo động; không ánh đèn nào được bật, nên hắn đoán rằng người dân đã quen việc thỉnh thoảng có tiếng chó sủa.

    Người nơi đây sẽ không co lại và chấp nhận cái chết. Họ sẽ chiến đấu lại bằng mọi khả năng, có lẽ mỗi nhà đều có vài loại vũ khí trong đó. Ngoài này, với gấu, rắn và nhiều động vật hoang dã khác, ít nhất phải trả tiền để có một khẩu súng lục cầm tay. Hắn không lo lắng về súng lục; chúng không hiệu quả khi bắn xa. Cũng thế với súng săn. Những khẩu súng trường sẽ là vấn đề thực sự, một điều chắc chắn rằng có vài người săn hươu, nên họ sẽ có thứ vũ khí mạnh mẽ bắn ra loại đạn gây tác động mạnh.

    Hắn đánh dấu vài ngôi nhà có thể bắn trả hiệu quả, nếu hắn sắp đặt vị trí đúng cho tay chân của mình, sẽ là vài chỗ. Các ngôi nhà quá rộng, lại thêm nhiều khoảng đất trống để chúng vượt qua an toàn. Có lẽ tổng cộng ba mươi, ba lăm ngôi nhà. Con đường cua về bên trái của khu vực có hình dấu phẩy ghồ ghề, đặt hầu hết các ngôi nhà trên bờ sông, bờ phải, điều đó là tốt vì nó sẽ nhóm mọi người trên bờ sông nơi họ đúng là không có chỗ nào khác để đi. Không chỉ là có một địa hình dốc bảy mươi foot ở bên đó, chính dòng sông cũng là một rào cản hiệu quả.

    Bất kỳ nỗ lực trốn thoát nào nhất thiết phải đến từ bên trái, nơi có ít nhà hơn để ẩn náu. Dãy núi phía bên đó gần như không thể vượt qua, nhưng trước khi bắt đầu điệu nhảy này, hắn có ý định tự mình khám phá chúng, tìm xem có lối thoát ra con đường không. Những người này sẽ biết nếu sân sau nhà họ có một hầm mỏ bị bỏ hoang xuyên qua hẻm núi dẫn tới tất cả các ngả đường. Nếu có chuyện đó, hắn muốn biết.

    Rồi bước tiếp theo sẽ là xác định vị trí của Joshua Creed.

     
    Chỉnh sửa cuối: 17/7/15
  14. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 13 (halucky)

    KHI TEAGUE MỞ CỬA HÀNG HIÊN dẫn vào phòng ăn nhà nghỉ B&B, mùi bánh nướng thơm ngon xộc vào mũi. Hắn dừng lại, hít một hơi sâu. Căn phòng rộng lấp đầy những chiếc bàn nhỏ và nhiều người, một vài người đứng quanh một tay cầm cốc cà phê và bánh nướng trong tay còn lại, thay vì kiếm một chỗ ngồi – à không còn nhiều ghế trống lắm.

    Hắn cẩn thận nhìn quanh, thấy một hay hai khuôn mặt quen thuộc. Hắn có thể gọi tên một khuôn mặt, đó là Walter Earl, người sở hữu cửa hàng kim khí nhỏ ở đây. Thế nghĩa là Earl có thể gọi tên khuôn mặt hắn, buộc hắn phải cẩn thận hơn để không nói hay làm điều gì đáng ngờ, và khi kế hoạch này lan truyền đi, hắn không thể để bất kỳ người dân địa phương nào nhìn thấy hắn.

    Tiếng rì rầm trò chuyện giảm xuống khi sự xuất hiện của hắn được để ý, mọi người nhìn chằm chằm vào hắn, cũng như không hề e dè. Thậm chí một số còn quay lại trên chiếc ghế của mình để nhìn hắn. Có lẽ điều tai tiếng hai chàng trai thành thị đã gây ra khiến dân địa phương đề phòng một chút, chứ không phải họ chưa từng ngần ngại dò xét người lạ.

    Niềm hứng thú của họ bị dập tắt khá nhanh. Hai chàng trai thành thị hẳn nổi bật lên như con cá mập trong bể cá bảy màu – mặc dù chúng nhanh chóng nhận ra những con cá bảy màu này có răng. Teague trông giống bọn họ, vì hắn đúng là một người trong số họ. Hắn đi đôi bốt cũ, quần jean bạc phếch do nhiều năm sử dụng, và chiếc áo vải flannel nhạt màu chống lại cái lạnh đột ngột của thời tiết nơi đây. Trên đầu hắn đội cái mũ lưỡi chai John Deere màu lục, chắc chắn không phải là mới. Hắn có thể là bất kỳ ai trong số họ.

    Một phụ nữ bước vào phòng ăn, bê một khay đầy bánh nướng và bơ, cô ta hạ xuống một chiếc bàn, khéo léo đặt từng đĩa bánh trước mặt mỗi người rồi phết bơ vào giữa. Mứt và thạch đã được sắp xếp sẵn trên từng bàn. Cô mỉm cười với Teague khi đi qua và nói, “Tôi sẽ quay lại ngay với ông.”

    Từ miêu tả của Goss, hắn biết đây là bà chủ. Thật hài hước làm sao khi Toxtel và Goss miêu tả lại khác nhau thế. Toxtel nhún vai và nói, “Cô ta không có gì nổi bật. Tóc nâu, mắt nâu. Trung bình.” Goss, lại khác, mỉm cười và nói, “Cô ấy có cặp mông rất tuyệt, như một vận động viên. Tròn và rắn chắc. Ngực nhỏ. Vóc người gầy, lêu nghêu ngoại trừ cặp mông đó. Có lẽ giống vận động viên điền kinh. Tóc dài, gợn sóng, và điều này mới hay, cái miệng nhìn là muốn hôn.” Toxtel thì khịt mũi với điều đó, nhưng Goss lờ gã đi. Sự khác nhau nói cho Teague nhiều điều về hai gã đàn ông cũng như về bà chủ B&B.

    Tên cô ta là Cate Nightingale. Một cái tên không kêu lắm, Nightingale. Tên kiểu gì nhỉ?

    Hắn đã kiểm tra nên biết rằng cô không phải một người địa phương. Cô ta trở thành người Trail Stop như nào? Vài người buôn bán nhỏ chỉ kiếm vừa đủ nhờ bám vào việc cung cấp dịch vụ cho cộng đồng cũng như các trang trại lân cận, nhưng Chúa biết, họ không thu được nhiều. Tuy vậy, với những người sinh ra ở đây, đây là nhà và một vài trong số họ vẫn ở lại dù cảm xúc thường nhật xúi giục họ bỏ đi cách đây nhiều năm.

    Kết thúc việc phân phát khay đầy bánh nướng, cô quay trở lại với hắn. “Tôi mang gì cho ông đây? Bánh nướng, hay chỉ cà phê thôi?”

    Cô ta có giọng nói thật dễ chịu. Cô ta không giống người sẽ lấy đồ không thuộc về mình, nhưng đấy không phải vấn đề của hắn.

    Như chợt nhớ ra dáng vẻ của mình, hắn giật cái mũ lưỡi chai ra khỏi đầu, nhét nó vào túi quần sau.

    “Ừ - tôi đang tìm Joshua Creed, nhưng những chiếc bánh nướng nhìn rất hấp dẫn. Một chiếc, làm ơn, và một cốc cà phê.”

    “Có ngay.” Cô nhìn quanh. “Ngồi bất cứ chỗ nào ông muốn; ở đây chúng tôi rất thoải mái. Chỉ cần hỏi bất kỳ người nào về ông Creed, và nếu người đó không biết ông ấy ở đâu, ai đó khác sẽ biết thôi.”

    Hắn gật đầu và cô lao qua cánh cửa vào nhà bếp, nơi hắn thoáng thấy một phụ nữ khác đang làm việc. Không có dấu hiệu của một đứa trẻ, theo kinh nghiệm của hắn, một đứa trẻ sẽ được biết đến khi xuất hiện. Nếu có một đứa ở đây, nó có lẽ đủ tuổi để ở trường, và sẽ về nhà vào buổi tối.

    Một chiếc bàn bị chiếm giữ bởi một nhóm người, hắn nhận ra nhờ quần áo khác kiểu của họ. Người leo núi, hắn nghĩ, bắt đủ kịp cuộc trò chuyện của họ để xác nhận dự đoán của hắn. Và từ cách họ đang mặc, họ sẽ không ra ngoài leo núi. Họ sẽ về nhà hôm nay sao? Kỳ cuối tuần mới chỉ bắt đầu, nhưng có lẽ họ có kế hoạch đi leo núi một địa điểm khác. Họ có vẻ buồn bực, để xem, xe của họ được đóng gói khi họ rời đi.

    Hắn tiến đến chiếc bàn nơi Walter Earl đang ngồi, gật đầu trang trọng thừa nhận.

    “Xin lỗi đã cắt ngang,” hắn nói, “nhưng có ai trong số các ông biết tôi có thể tìm ông Joshua Creed ở đâu không?”

    “Không ai trong chúng tôi biết ông nhỉ?” Walter Earl hỏi với biểu hiện hơi khó xử.

    Teague giả vờ nghiên cứu ông. “Có lẽ. Khuôn mặt ông trông quen quen. Tên tôi là Teague.” Có vẻ không được thông minh, vì Earl sẽ nhớ tên thật của hắn sau này.

    Khuôn mặt Walter dãn ra. “Ra vậy. Ông đã vào cửa hàng một, hai lần phải không?”

    Một lần, để có được vài hộp đạn súng săn, nhưng ở một nơi như này mọi người có xu hướng nhớ bất cứ ai không được nhìn thấy hàng ngày.

    “Đúng thế,” Teague trả lời. Có thể là chuyện tốt khi ông già này nhớ hắn; nó đặt hắn trong tâm trí người khác là một người từng được biết đến.

    “Josh đưa một người khách đi săn hươu,” Walter thông tin. “Thứ Hai, phải không nhỉ?” Ông nhìn những người khác để xác nhận.

    Có vài cái gật đầu. “Nghe đúng đấy,” một người khác trả lời. “Tôi không nhớ ông ấy nói khi nào trở về.”

    “Sẽ là hôm nay hoặc ngày mai; ông ấy thường kéo dài cuộc săn của mình bốn hay năm ngày. Đó là giới hạn chịu đựng lớn nhất của ông ấy về bọn họ.”

    “Trong trường hợp đó, ông ấy nên đưa gã kia trở về vào ngày hôm qua,” một người khác nói, và tất cả họ cùng cười.

    Hắn cho phép mình một nụ cười khẽ, theo đuổi câu chuyện. “Một người xấu, hử?”

    “Chỉ là anh ta đề cao bản thân mình thôi. Đúng không Cate?” Walter nói khi người phụ nữ Nightingale tiến lại gần với bánh nướng và cà phê của Teague.

    “Đúng không cái gì?”

    “Vị khách gần đây nhất của Josh, người ở cùng với ông ấy hôm thứ Hai, là một gã thật sự dễ thương.”

    Cô khịt mũi. “Vâng, cháu chỉ thích bài học địa lý ông ấy giảng thôi.” Cô quay về phía Teggue. “Ông sẽ ngồi đâu?”

    “Tôi đứng được,” hắn lên tiếng, nhận lấy đĩa và cốc từ cô. “Cảm ơn ma’am.”

    Cô mỉm cười và gạt đi. Hắn quan sát cô xem xét mức cà phê từng cốc khi đi ngang qua rồi thẳng tới máy pha, nơi cô nhấc cái bình ra khỏi tấm giữ nhiệt, đi một vòng quanh phòng rót thêm cà phê nóng. Vì hắn là đàn ông, hắn cũng nhìn vào mông cô. Như Goss nói, nó quả là bắt mắt.

    “Cate là một phụ nữ ngọt ngào,” Walter nói, Teague nhìn quanh nhận thấy tất cả mọi người ngồi trên bàn đang dò nhìn mình với mức độ công kích khác nhau. Họ bảo vệ cô, đúng không nhỉ?

    “Không cần nhìn cô ấy như thế,” một ông già gần chín mươi tuổi lên tiếng. “Cô ấy tự biện hộ được cho mình.”

    Điều gì khiến họ cảm thấy cần cảnh báo hắn tránh xa Cate Nightingale? Teague nặn ra một nụ cười khác, đó là giới hạn của hắn, và nâng một bàn tay lên.

    “Tôi chỉ có ý là cô ấy nhắc tôi nhớ tới con gái mình,” hắn nói dối. Hắn không có con gái, nhưng những kẻ lố bịch già cả này đâu có biết.

    Nó hiệu quả. Tất cả bọn họ đều thả lỏng, nụ cười lại lộ ra. Walter dựa lưng vào ghế, quay lại chủ đề ban đầu.

    “Josh phải quay lại đây khi khách hàng của ông ấy rời đi, không phải sao. Ông ấy không ở đây thường xuyên như chúng tôi. Ông có muốn để lại một lời nhắn vào máy trả lời của ông ấy không?”

    “Không, đừng bận tâm. Có người chỉ tôi có thể tìm thấy ông ấy ở đây,” Teague trả lời. “Anh chàng tôi quen đang cố tìm một người hướng dẫn cho vài vị khách hàng quan trọng, những người quyết định thoát khỏi sự nhàm chán để đi săn, nên tôi nghĩ tới Creed. Anh chàng ấy muốn ai đó ngay chứ không cần để lại một lời nhắn. Tôi sẽ bảo anh ta chuyển tới cái tên tiếp theo trong danh sách vậy.” Hắn dừng lại. “Trừ khi Creed có điện thoại vệ tinh?”

    Walter xoa cằm. “Nếu ông ấy có, ông ấy chưa từng đề cập tới. Ông có thể gọi tới một điện thoại vệ tinh từ một điện thoại thông thường không?”

    “Phải có khả năng chứ; nếu không thì chẳng có điểm nào để liên lạc,” ông già gắt gỏng.

    “Đoán là ông đúng,” Walter thừa nhận. Ông nhìn lại Teague. “Josh là người dẫn đường tốt nhất ở đây, không vấn đề gì. Khách hàng của ông ấy thu được chiến lợi phẩm thường xuyên hơn với bất kỳ ai khác. Thật tiếc bạn ông bỏ lỡ ông ấy.”

    “Tổn thất của anh ta,” Teague nói ngắn gọn. Giữ cốc cà phê trong một tay, đặt cân bằng cái đĩa trên miệng cốc, hắn nâng bánh nướng lên, cắn một miếng to. Vị giác của hắn bùng nổ với vẻ khoái chí. Hắn có thể phát hiện vị óc chó, táo, quế và nhiều thứ khác hắn không gọi được tên. “Chết tiệt,” hắn lẩm bẩm, cắn một miếng khác.

    Walter cười to. “Cate là một người nướng bánh đích thực đúng không? Cứ mỗi lần ăn một cái, tôi không hiểu làm thế nào cô ấy lại nướng được loại bánh ngon thế - nhưng kể từ ngày Scone, tôi mong cô ấy nướng bánh thường xuyên hơn.”

    Teague đã nghe về bánh nướng, nhưng chưa từng nếm thử nên hắn không tin vào lời đồn. Hắn ghét đồ ăn trang trí màu mè, không thường động tới một chiếc bánh nướng, nhưng hắn vui mừng vì đã ăn chiếc này. Giả sử cô Nightingale sống qua phi vụ của Toxtel, Teague nghĩ hắn phải ghé qua B&B lần nữa; những chiếc bánh nướng thật tuyệt.

    Hắn đã có được thông tin cần thiết về Creed, không còn gì để làm ngoại trừ theo dõi đồng hồ và xem chuyện xảy ra. Liệu đứa trẻ có xuất hiện sau giờ học? Những người leo núi có rời đi? Có người khác đến trọ ở B&B? Và nếu Creed không hay đến Trail Stop đủ để coi là thường xuyên, hắn phải nảy ra cách khác để vô hiệu hóa ông ta, thứ có thể gây ra vụ lộn xộn.

    Sau khi đám đông khách ăn sáng giải tán, cô và Sherry dọn dẹp xong, Cate nhận lại phòng từ những vị khách leo núi và nhìn họ rời đi. Cô không có khách nào khác cho tới cuối tuần sau – một nhóm leo núi khác – điều mà cô nhận thấy lúc này là không tốt. Với sự vắng mặt của bọn trẻ, cô muốn được bận rộn hơn.

    Sherry ra về sau khi công việc dọn dẹp kết thúc, Cate chỉ còn lại một mình trong ngôi nhà.

    Sự yên lặng thật buồn tẻ.

    Không ai đến ngay lập tức, cô không phải vội vàng dọn dẹp tất cả các phòng, nhưng cô vẫn dốc sức ném mình vào nó. Sau khi lột bỏ các giường ngủ và bắt đầu với đống đồ cần giặt, cô dọn nhà tắm, hút bụi, phủi bụi, thậm chí lau các cửa sổ.

    Rồi cô bước vào phòng bọn trẻ, có thể hoặc không phải một ý tưởng hay. Cần thiết phải dọn dẹp, nhưng ở đây – xếp đồ chơi của chúng, lau dọn tủ quần áo, sắp xếp quần áo của chúng – nhắc cô nhớ tới sự vắng mặt của chúng. Cô cố gắng không nhìn đồng hồ treo tường, nhưng không tránh được việc nhìn vào đồng hồ đeo tay, để đoán xem giờ này họ đi tới đâu. Có khả năng, tất nhiên, cô không biết liệu máy bay có bị hoãn một đến hai tiếng không, mặc dù cô hy vọng mẹ mình sẽ gọi trong trường hợp ấy, biết rằng cô sẽ rất lo lắng nếu không nhận được cuộc gọi báo họ về tới nơi an toàn đúng giờ.

    Cô không nghỉ ăn trưa, vì chuẩn bị đồ ăn cho mình dường như không hiệu quả. Thỉnh thoảng cô sụt sịt. Chuyện này cảm giác như nỗi đau, thật ngớ ngẩn, cô biết rõ nỗi đau khổ là thế nào mà. Cảm giác mất mát một phần của cô vẫn còn dai dẳng, thậm chí những sợi dây ràng buộc của cô không hề bị cắt đứt, chỉ kéo dãn một chút … nếu vài trăm dặm được coi là ‘một chút.’

    “Sợi dây ràng buộc, cái mông ấy,” cô lẩm bẩm một mình. “Hơn cả dây rốn.” Và đó là sự so sánh cực đủ khiến cô cười to, nhưng chỉ được một lát. Bọn trẻ không sao. Cha mẹ cô có thể không ổn vào lúc chuyến thăm viếng kết thúc, còn hai cậu bé sẽ rất hào hứng. Cô đã làm việc chăm chỉ để mang lại cho chúng cảm giác an toàn tuyệt đối, cũng như sự tự tin để chúng có thể bay cùng bà ngoại cho một kỳ thăm viếng hai tuần. Chúng háo hức được lên máy bay. Chúng từng được bay trước đây, tất nhiên, lúc chúng còn ẵm ngửa nên không nhớ. Cô nên vui mừng về hai trái tim bé nhỏ dũng cảm.

    Ngoại trừ hai tuần là quá dài. Cô chỉ nên đồng ý một tuần thôi.

    Khi điện thoại kêu không lâu sau ba giờ, cô nhấc máy.

    “Chúng ta đã về tới nơi,” mẹ cô nói, nghe vẻ kiệt sức.

    “Mọi thứ ổn chứ ạ? Có rắc rối nào không?”

    “Mọi việc suôn sẻ; không có vấn đề gì. Chúng thích đẩy xe hành lý. Thích thú quan sát máy bay cất cánh và hạ cánh. Thích phòng vệ sinh bé tí mà cả hai dùng. Hai lần. Các phi công dừng lại nói chuyện với hai đứa trước khi cất cánh, và giờ chúng có một đôi cánh, thứ mà không bay được.”

    Chúng có lẽ vẫn đeo bộ cánh ấy khi về nhà, Cate thầm nghĩ, nước mắt lấp lánh dù cô đang mỉm cười.

    “Thứ đầu tiên chúng nhìn thấy khi về nhà là cái máy cắt cỏ,” mẹ cô tiếp tục. “Giờ cha con đang ở ngoài đó với hai đứa ngồi trong lòng, lái chúng chạy vòng vòng. Các lưỡi dao được tháo ra,” bà thêm vào.

    Cate còn nhớ lái máy cắt cỏ cùng cha mình, một cảm xúc ủy mị trong tim cô khi biết rằng giờ đây ông đang làm chuyện đó với con của cô.

    “Nên giờ con ngừng sụt sịt đi,” Sheila nói. “Chúng không chỉ có một vụ bùng nổ, chúng còn làm mẹ kiệt sức, giờ đến lượt cha con, điều đó cho con một cảm giác trả thù ấm áp tuyệt vời nhé.”

    “Có đấy,” Cate thừa nhận. “Cảm ơn mẹ.”

    “Không có gì. Con muốn mẹ gửi ảnh cho không? Chúng ta đã chụp cả đống.”

    “Thôi, mất nhiều thời gian để tải ảnh về, vì con chỉ có một cổng nối qua điện thoại. In chúng ra và mang cho con vài tấm khi chúng trở về.”

    “Được. Hôm nay con làm việc thế nào?”

    “Dọn dẹp như một người điên.”

    “Tốt. Giờ thì con có những buổi chiều rảnh rỗi, làm tóc đi nhé.”

    Cate cười to, đây là lần đầu tiên cô thực sự nhận ra mình có thể cắt tóc. Ít nhất cắt tỉa một chút, sẽ không tốn nhiều lắm, và cô đánh liều một lần. “Con nghĩ mình sẽ.”

    “Dành nhiều thời gian cho bản thân con. Đọc sách. Xem phim. Sơn móng chân.”

    Sau khi gác máy, Cate nhận ra rằng cha mẹ có ý định dành cho cô một ít thời gian thư giãn cũng như đem lại cho bọn trẻ khoảng thời gian vui chơi. Cô đánh giá cao sự quan tâm của họ, cô chắc chắn nghe lời, cố gắng chiều chuộng bản thân. Với suy nghĩ đó, sau khi kiểm tra thư điện tử, xử lý những đơn đặt phòng đến thông qua trang Web, kết thúc việc giặt giũ, cô in một danh sách nguyên liệu cho chuyến mua sắm lần tới – cho vài công thức nấu ăn cô muốn thử - cô sửa soạn cho mình bữa ăn tối – bánh sandwich bơ nướng – cô làm theo lời khuyên của mẹ mình là sơn móng chân.

     
    Chỉnh sửa cuối: 23/6/15
  15. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 14 (halucky)

    ĐÊM ĐÓ TEAGUE HẸN GẶP TOXTEL và Goss lần nữa. Ba tên khác hắn gọi tới: đầu tiên là em họ hắn – Troy Gunnell, cháu trai – Blake Hester, và bạn cũ – Billy Copeland. Troy và Bill rất thông thạo về dãy núi cũng như phối hợp đồng đội giống hắn; Blake khá ổn, nhưng tài nghệ chính, và là lý do mà gã được tham gia, là tài thiện xạ của mình. Nếu có bất cứ tầm ngắm khó khăn nào cần thực hiện, Blake sẽ là người kéo cò.

    Sáu người bọn chúng xem xét kỹ bản đồ hết lần này đến lần khác. Teague đã mất gần một ngày lập ra nó, thật vậy, sử dụng sự kết hợp giữa bản đồ giao thông, bản đồ địa hình, ảnh vệ tinh, và sơ họa tự hắn làm về khu vực. Trong khi ở Trail Stop, hắn cũng đã lén lút chụp ảnh bằng một máy ảnh kỹ thuật số, rồi in ra những tấm hình trên máy tính của mình. Dùng những bức hình và trí nhớ, hắn vẽ một bản đồ sơ lược về Trail Stop, có thể hiện vị trí các ngôi nhà và khoảng cách giữa chúng.

    “Sao chúng ta cần biết các ngôi nhà ở đâu?” Goss hỏi, nhìn chán nản vào bản đồ. Có vẻ thiếu kiên nhẫn trong giọng gã, ngoại trừ thật sự hứng thú. Gã trông khá hơn ngày hôm trước; khi Teague nhận xét về điều đó, gã thú nhận mình phải hứng chịu một cú đánh vào đầu bởi tên đàn ông chăm chỉ ở Trail Stop, kẻ mà Toxtel miêu tả là một tên khốn gầy giơ mông với khẩu súng săn to đùng.

    “Vì đây không phải những người chỉ giơ tay lên và đầu hàng,” Teague giải thích. “Một hoặc hai người có thể, nhưng phần lớn còn lại sẽ phát rồ lên, cố gắng chiến đấu chống lại. Đừng đánh giá thấp họ. Những người đó trưởng thành với thú săn bắn ở trong núi, và vài tên thiện xạ chết tiệt trong số họ đấy. Bằng cách lựa chọn các điểm bắn, chúng ta có thể vô hiệu hóa các đường đạn của họ; cộng thêm chúng ta cần họ tụ hợp càng đông càng tốt. Khiến dễ dàng hơn để quan sát họ. Xem các ngôi nhà trải rộng thế nào?” hắn hỏi, lần theo bản đồ. “Với những vị trí ngắm bắn mà tôi lựa chọn, chúng ta có tầm ngắm trực tiếp tới hai lăm trong số ba mốt ngôi nhà.”

    “Thế còn nhà nghỉ B&B?” Toxtel hỏi.

    Teague vẽ một đường đứt đoạn từ một vị trí ngắm bắn hắn chọn tới nhà nghỉ. Tầm ngắm trọn vẹn chỉ tới được một phòng góc ở tầng trên bên phải; mọi nơi khác đều bị chặn bởi một ngôi nhà khác.

    Toxtel cau mày nhìn đường đứt đoạn. Gã hiển nhiên hy vọng có được nhiều hơn. “Ông không thể di chuyển vị trí của mình để có được góc bắn tốt hơn sao?”

    “Không, nếu không sắp xếp lại với độ dốc chết tiệt này.” Teague khai thác một điểm khác trên bản đồ, ở góc đông bắc của Trail Stop.

    “Vậy tại sao ông không?”

    “Đầu tiên, tôi không phải một con dê núi chết tiệt; đó gần như một vách đá dựng thẳng đứng. Thứ hai, nó không phải sự phung phí hiệu quả, vì bất kỳ nỗ lực để thoát ra sẽ không đi theo hướng đó. Chúng ta đã để lại cho họ một lối ra duy nhất, và nó là qua đây.” Hắn lần theo một con đường chạy ngoằn nghoèo ngang qua vùng đất bán đảo, nơi mà Trail Stop nằm trên, rồi xiên góc về hướng tây bắc qua một vết cắt sâu vào dãy núi.

    “Sao ông không chặn chỗ trống đó luôn?” Goss hỏi.

    “Lần cuối cùng tôi nhìn thấy, chỉ có bốn người chúng tôi. Sáu, tính cả hai anh, nhưng như tôi biết không ai trong các anh có kinh nghiệm với một khẩu súng trường. Tôi đúng chứ?”

    Goss nhún vai. “Tôi không. Không thể nói gì về Toxtel.”

    “Một chút,” Toxtel nói miễn cưỡng. “Không nhiều.”

    “Vậy, thống nhất là bốn người chúng tôi sẽ phải chia nhau các ca gác, mỗi ca mười hai tiếng. Thế là đủ khó khăn rồi. Lúc đầu, mỗi người chúng tôi với súng trường sẽ có mặt ở ba điểm ngắm bắn, nhưng sau khi chúng tôi dồn họ vào góc xa bên trái, vị trí này ở cây cầu sẽ được chuyển qua cho hai anh. Họ sẽ không biết súng trường lại được tập trung ở hai địa điểm đó, dù sao đi nữa về mạn bên phải, dòng sông tạo ra một rào cản hiệu quả rồi.”

    “Ban đêm thì sao? Ông có kính hồng ngoại không?” Goss hỏi.

    Teague cười nhe răng hung dữ. “Tôi có thứ tốt hơn thế. Ống kính FLIR.”

    “FLIR? Cái khỉ gió đó là gì?”

    “Phát hiện – theo dõi mục tiêu bằng hồng ngoại. FLIR (Forwad- looking infrared). Cảm biến với thân nhiệt cơ thể. Ngụy trang có thể đánh lừa hồng ngoại, nhưng không thể đánh lừa bộ dò tìm nhiệt. Tầm nhìn của bọn tôi sẽ bị hạn chế với ống kính, nên bọn tôi sẽ phải cảnh giác, nhưng bằng cách thu hẹp lại vị trí nơi chúng tôi phải quan sát, bọn tôi có thể bù đắp được thiếu sót đó.”

    Suy nghĩ của Teague hướng về cái ống kính. Có một điều, nó nặng, ba pound là ít. Nghĩa là hắn và tay chân không thể giữ súng trường suốt khoảng thời gian, chúng cũng cần được nghỉ ngơi. Bộ pin chỉ kéo dài khoảng sáu tiếng – trong điều kiện tốt nhất, tức là khoảng tám mươi độ. Hắn nghĩ may mắn thì chúng duy trì được năm tiếng thôi. Thời gian chiếu sáng đang rút ngắn lại mỗi ngày, nó buộc mỗi tên phải thay đổi bộ pin ít nhất một lần mỗi ca, và có lẽ hai lần nếu thời tiết chuyển lạnh. Đêm qua nhiệt độ hạ thấp xuống tầm bốn mươi độ. Tuyết không phải là bất thường trong tháng Chín, vì thời tiết có thể chuyển xấu mà không báo trước. Để an toàn, hắn nên kiếm mười hai bộ pin có thể sạc lại, cộng với bộ sạc siêu công suất có thể xử lý hơn một bộ cùng lúc.

    “Billy đã có những giá cưa tháo lắp được, sơn chúng cho giống kiểu của chính quyền, để chặn đường và giữ những kẻ thọc mạch tránh xa. Chúng tôi cũng đặt một biển hiệu bằng từ tính của công ty xây dựng trên chiếc xe bán tải chúng tôi dùng, nó sẽ giống như công việc đang được tiến hành trên cầu. Tôi không lo về người của chính quyền. Điều tôi lo là công ty điện lực và điện thoại. Mọi thứ họ có đều được vi tính hóa. Liệu họ có biết khi Trail Stop chìm trong bóng tối?”

    Blake lên tiếng lần đầu tiên. Gã hai mươi lăm tuổi, cao sáu foot, với mái tóc đen và đôi mắt giống hệt chú mình. “Không cần thiết. Họ không biết nếu một khách hàng riêng lẻ gặp rắc rối đâu, ngay cả khi đường dây bị sự cố; ai đó phải thông báo vấn đề. Trail Stop là điểm cuối của đường dây; không có gì xa hơn. Còn nếu họ phát hiện ra – chết tiệt, cây cầu bị loại bỏ, họ không thể đi qua. Họ sẽ làm gì à? Chờ cho chính quyền sửa chữa cây cầu, thế đấy.”

    Teague cho rằng đã rõ nên gật đầu ngắn gọn. “Công việc sẽ như thế. Tất cả hai anh phải làm” – hắn liếc nhìn Toxtel và Goss – “là thuyết phục họ, các anh hoặc là người của chính quyền hoặc là người của công ty xây dựng đến sửa chữa cây cầu. Không ai trong số hai anh giống một công nhân xây dựng, nên người của chính quyền sẽ dễ tin hơn – nhưng anh phải bỏ áo vét ra.” Điều cuối cùng đó là nhắm vào Toxtel. “Quần kaki, bốt, áo sơ mi vải flannel, áo khoác. Đó là thứ hai anh mặc trong nhiệm vụ này. Và kiếm thêm hai cái mũ bảo hộ cho giống nhân viên thừa hành.”

    “Lịch trình như nào?” Goss hỏi.

    “Thêm vài chi tiết nhỏ tôi cần xem lại.” Creed không phải là “nhỏ”, nhưng chúng không thể biến kế hoạch thành hành động cho tới khi Teague xác định được vị trí người dẫn đường. “Ngày mai hai người các anh đi tìm quần áo và dụng cụ thích hợp. Tôi ổn với đồ dùng của mình. Và khi đi mua sắm, đừng quên đồ cắm trại. Không ai trong chúng ta rời khỏi Trail Stop cho tới khi điệu nhảy kết thúc, thế nghĩa là cần tới thức ăn, nước, đèn lồng và đồ sưởi. Trời có thể lạnh khủng khiếp vào ban đêm, thời tiết đang thay đổi. Đồ lót giữ nhiệt. Bổ sung nhiều tất và đồ lót. Bất cứ thứ gì khác các anh nghĩ ra, hãy đóng gói và sẵn sàng, để chúng ta di chuyển sau buổi trưa mai. Tôi sẽ cắt dây điện và điện thoại lúc hai giờ, sau đó chúng ta sẽ rút cầu.”

    * * *

    Không cách nào gọi tới căn nhà gỗ của Creed khi mà không hy vọng ông có mặt ở đó, nhưng đến sáng thứ Bảy, Cal Harris đoán rằng Creed hẳn đã chào tạm biệt khách hàng và có được thời gian nghỉ ngơi của chính mình. Ông già Roy Edward Starkey đã đánh giá vị khách là một cái nhọt trên mông, và Roy Edward quả đúng là một thẩm phán đạt giấy chứng nhận. Thế nghĩa là Creed cần thời gian ở một mình nhiều hơn bình thường, để phục hồi bản thân vì đã không bóp cổ tên khốn đó.

    Trước hết, Cal tự thết đãi bản thân bằng một chiếc bánh nướng và một cốc cà phê ở nhà của Cate, chỉ để quan sát cô di chuyển giữa các khách hàng, và để nghe giọng cô. Mẹ cô đã đưa cặp sinh đôi về nhà cùng bà, anh tán thành ý tưởng đó. Một mặt, anh thấy thiêu thiếu hai cái đuôi phiền nhiễu bé xinh. Mặt khác, đây là lần đầu tiên trong ba năm anh biết Cate để bọn trẻ rời xa vòng tay mình, cơ hội thực sự đầu tiên để anh có được cuộc trò chuyện riêng tư – để anh có thể chắp nối hai từ với nhau mà không lắp bắp và biến thành củ cải đỏ như một tên ngốc.

    Cate chỉ liếc nhìn anh khi cô phục vụ bánh nướng, mặc dù khi anh phóng cái nhìn vào cô anh thấy đôi má cô ửng hồng và cô có vẻ lúng túng. Anh không biết điều đó tốt hay xấu. Anh muốn cô nhận biết về anh, nhưng không muốn cô không thoải mái. Thế là không tốt, đúng không?

    Toàn thể cộng đồng đều biết, và còn thích thú nữa, tình thế khó khăn của anh. Mọi người lúc nào cũng đứng về phía anh, dù cho anh đã cảnh báo họ dừng việc cố tình phá hoại đường ống nước, đường dây điện, chiếc Explorer, hay bất cứ việc gì khác mà đầu óc phong phú của họ có thể dựng lên để đẩy hai người bọn họ về phía nhau – như thể nếu anh nhét đầu bên dưới chậu rửa, chổng mông lên trời sẽ kích thích sự chú ý ở cô. Bên cạnh đó, tất cả “những sự cố sửa chữa” nhỏ nhặt này đã thêm vào căng thẳng cho cô, cô đã có đủ mớ bùi nhùi mà không cần sự giúp đỡ của họ. Vì Chúa, cô là một góa phụ trẻ với cặp sinh đôi bốn tuổi, cố gắng điều hành thành công một nhà nghỉ kiểu Victoria nhiều năm tuổi ở giữa nơi hư vô này.

    Từ khi anh chắc chắn rằng việc anh đang sửa chữa là một trong những trò phá hoại nhỏ, như việc Sherry nới lỏng điểm kết nối bên dưới chậu rửa khiến nó rò rỉ, anh đã từ chối để Cate trả tiền mình. Ngay cả khi nó là việc sửa chữa chính đáng, anh cũng cắt giảm chi phí của mình xuống. Anh muốn Cate kinh doanh thành công, không muốn cô thua lỗ mà quay về Seattle. Anh sẽ không tính cô tí chi phí nào, ngoại trừ anh cần phải sống. Có một lượng công việc đáng ngạc nhiên cho anh làm ở đây, xem xét theo cách cộng đồng nhỏ thế nào; anh trở thành một người chuyên sửa chữa bất kể thứ gì cần và cả những công việc kỳ quặc nữa. Anh rất khéo tay, mặc dù lợi thế của anh thuộc lĩnh vực cơ khí, anh phát hiện ra mình có thể sửa chữa một khung cửa sổ, hay lắp dựng cửa ra vào. Neenah đã nhờ anh phục hồi lại bồn tắm cũ bằng gang của bà, anh đang nghiên cứu nó, và anh đoán rằng dễ sắp tới anh trở thành một người sửa chữa bồn tắm lắm.

    Một nghề chết tiết cho một người đã dành phần lớn cuộc đời với khẩu súng trường trong tay.

    Suy nghĩ đó đưa anh trở lại lý do anh cần gọi cho Creed.

    Hai người họ là một cặp, anh nghĩ với niềm thích thú. Trao họ vũ khí, chỉ họ kẻ thủ, và họ hoạt động như chiếc đồng hồ Thụy Sĩ. Nhưng ném người phụ nữ mà họ muốn ngay trước mặt, không thể nhầm được là cả hai bọn họ không thể lần tới được với hai bàn tay và chiếc đèn pin. Creed còn tệ hơn Cal; ít nhất Cal có một lý do để mà chờ đợi, vì Cate vẫn còn bao bọc trong cơn sốc từ cái chết của chồng mình. Ba năm là quãng thời gian dài chờ đợi, nhưng nỗi đau lấy mất sự ngọt ngào của chính nó; ngay cả sau khi cô phục hồi, có thể cất tiếng cười trở lại, cô đã bảo vệ bản thân bằng cách dựng lên một bức tường ngăn giữa cô và bất kỳ người đàn ông nào đủ tư cách. Anh hiểu, nên anh đánh giá cao sự chờ đợi như một giải thưởng, anh đã treo ở đó. Sự kiên nhẫn của anh đã được đền đáp; lúc này đây bức tường đã có dấu hiệu rạn nứt, anh sẵn sàng theo cùng, giúp đỡ với một cú huých khuỷu tay.

    Creed, tuy vậy, khi nhắc đến người phụ nữ mà ông quan tâm, là người khó khăn nhất mà Cal biết đã chứng minh bản thân là một kẻ nhút nhát.

    Khoảng mười giờ, đoán là Creed có thể hy sinh một chút thời gian nghỉ ngơi, Cal gọi điện tới. Và có tiếng máy trả lời.

    “Thiếu tá, tôi Cal đây. Gọi cho tôi. Việc quan trọng.”

    Anh hình dung Creed cau mày với cái máy khi lắng nghe, cố gắng quyết định có hay không nhấc tai nghe. Bình thường Creed sẽ từ chối một cuộc gọi cho tới khi ông hồi phục trở lại và sẵn sàng trả lời, nên Cal nhấn mạnh từ ‘quan trọng’ để kích thích sự tò mò của ông. Creed biết Cal luôn cân nhắc từng sự việc; nếu ông ở đó, ông nên gọi lại trong vòng vài phút.

    Cal đợi cuộc gọi. Điện thoại vẫn không hề kêu.

    Ô, khỉ thật. Khả năng là, sau chuyến đi săn kéo dài năm ngày, Creed đã vào thị trấn để bổ sung đồ dùng vì ông đã sẵn sàng cho vị khách tiếp theo. Những đồ thiết yếu lặt vặt ông có thể nhặt được ở Trail Stop, nhưng một cỡ nòng đầy đủ ông cần tìm thì nhiều hơn khả năng mà cộng đồng có thể cung cấp. Chết tiệt, có khi ông đang đi gặp một khách hàng mới, mặc dù Cal hơi nghi ngờ chuyện đó. Ông hiếm khi thực hiện các chuyến đi săn liên tiếp. Ông treo giá dẫn đường cao quá đáng, nên ông có đủ khả năng đáp ứng một cuộc sống xa xỉ ở mức độ nhỏ mà ông muốn; quá nhiều chuyến đi đồng nghĩa ông không có thời gian thưởng thức cuộc sống đó. Trớ trêu là, ông càng đưa giá cao, ông càng nhận được nhiều lời đề nghị, Creed từ chối các công việc ở khắp mọi ngõ ngách, dường như càng khiến ông được mời nhiều hơn, nên mọi người để lời đề nghị của mình được chấp nhận bằng cách hỏi sớm hơn và thường xuyên hơn.

    Khi Cal một lần nói với ông, thành công là một vòng tròn luẩn quẩn – Creed đã trả lời với một sự nhắc nhở rằng Cal đang làm vài việc không thể lý giải được. Cal đã phản ứng lại rằng, trong khi của quý của Creed còn đủ mềm để làm chuyện đó mà ông không làm, từ đó cuộc trò chuyện của họ dã đám tới độ hai cựu chiến binh thủy quân lục chiến, người từng vững vàng trải qua nhiều trận đánh đã phải nhăn nhó đầy chán ghét.

    Sau khi chờ đủ lâu, Cal quay lại với công việc hiện tại là thay thế các bậc lên xuống bị võng phía hiên sau của bà Box. Khi kết thúc, anh giúp Walter lắp đặt mấy kệ để đồ trong cửa hàng kim khí. Rồi anh quay về nơi ở của mình phía trên cửa hàng thực phẩm, kiểm tra máy trả lời, nhưng Creed vẫn chưa gọi lại.

    Neenah đang di chuyển các bao thức ăn, tuy bà khỏe hơn phụ nữ bình thường, Cal vẫn lại giúp. Nhiều ngày không có việc gì, thay vì ở trong phòng ngủ của mình, việc bê các bao thức ăn năm mươi pound giúp anh giữ được hình dáng.

    Neenah nói ít đi và một chút thu mình kể từ sự việc tình cờ với hai gã đàn ông ở nhà Cate. Bà vốn là một phụ nữ trầm tĩnh nhưng thân thiện. Cal ngờ rằng đó là lần đầu tiên bà trực tiếp chứng kiến cảnh bạo lực, nên bà còn quay cuồng. Bà đang cố gắng tự mình giải quyết nó, mà anh không nghĩ bà nên thế, nhưng anh không phải người có thể giúp.

    Khi đêm xuống cuối cùng Creed cũng gọi lại, Cal rất tức giận. “Ông làm gì mà để lâu thế,” anh cáu kỉnh.

    Creed dừng lại, Cal gần như có thể nhìn thấy mắt ông lác đi, còn hai hàm răng nghiến chặt.

    “Tôi vừa trải qua sáu ngày với cái lỗ đít chết tiệt lớn nhất bên này dãy Rocky” ông trả lời. “Hắn được cho là phải rời đi ngày hôm qua, nhưng tên con hoang bị bong gân mắt cá chân chó chết, tôi phải mang hắn năm dặm chết tiệt tới trại, rồi giữ tay chó của hắn cho tới khi tôi đưa hắn tới được phòng khám và chụp X quang, rồi đẩy hắn lên cái máy bay chết tiệt về nhà lúc năm giờ chiều nay. Vậy cái chó gì quan trọng hả?”

    Trong những năm qua, Cal và những người khác trong nhóm của họ đã học được rằng, tâm trạng của Creed được đo bằng bao nhiêu lần ông chèn từ chết tiệt vào trong một câu. Đánh giá từ số lượng quả bom – C ông vừa khạc ra, tâm trạng của ông chỉ cách một centimet tới độ giết người.

    “Hai gã đàn ông đã thô lỗ với Neenah và Cate,” Cal nói. “Cách đây hai ngày.”

    Sự im lặng trên đường dây tăm tối và lạnh giá; rồi Creed dịu giọng, “Chuyện gì xảy ra? Họ có bị thương không?”

    “Hoảng sợ, chủ yếu thế. Một gã dí khẩu súng lục vào thái dương Neenah nên bà ấy bị một vết bầm. Tôi đập gã còn lại một nhát vào đầu bằng khẩu Mossberg của mình, rồi nhắm bắn gã uy hiếp Neenah.”

    “Tôi sẽ tới ngay,” Creed nói, tiếng dập máy xộc thẳng vào tai Cal.
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/7/15
  16. hoahuynh2011

    hoahuynh2011 Lớp 1

    Mình lại được theo dõi một tác phẩm nữa của Linda Howard. Cảm ơn halucky nhiều nhiều.
     
    halucky thích bài này.
  17. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 15 (halucky)

    TEAGUE GẦN NHƯ Ở NGAY BÊN NGOÀI căn nhà gỗ của Creed khi cửa trước bật mở. Gã đóng băng tại chỗ, tự hỏi nếu nơi này được trang bị cảm biến chuyển động hay camera hồng ngoại thì hắn đã không phát hiện ra trong suốt lúc do thám, và có hay không việc Creed sẽ bắn hắn trước, rồi cố gắng nhận dạng hắn sau. Creed lao sầm vào chiếc bán tải, nhấn ga, chiếc xe rê đi thành hình zích zắc, lằn vết bánh trên lối đi trước khi Teague kịp phản ứng.

    “Cứt thật!” Teague chộp lấy chiếc Motorola CP150 hai sóng móc ở thắt lưng, nhấn ngón cái vào nút ‘talk’. “Đối tượng đang rời đi trong chiếc bán tải, hướng về phía đường. Theo dõi ông ta.”

    "Còn anh thì sao?"

    “Cử ai đó đến đón tôi. Đừng để ông ta thoát – và đừng để ông ta nhìn thấy anh.”

    “Rõ.”

    Vẫn chửi thề, Teague cẩn thận quay ngược lại lối mòn đã đi tới. Hắn có thể chọn cách tốt hơn là di chuyển xuống đường xe chạy, nhưng làm thế cũng để lại dấu giầy, nên hắn sẽ ở lại lối đi ghồ ghề. Hắn băn khoăn chuyện gì xảy ra khiến Creed cuốn đi như một con mèo với cái đuôi vùi trong lửa, và hắn nên chăng đợi ở đây, thực hiện phát súng bất cứ khi nào Creed quay lại, thay vì bám đuôi.

    Vấn đề là, Creed có thể sẽ đi nhiều ngày, mà Teague không có ý ngồi không nhiều ngày như thế. Hắn muốn biết nơi Creed đã tới. Thậm chí đúng hơn là, hắn thà đuổi theo hành động, còn hơn ngồi chờ nó đến với mình – cách đó thú vị hơn.

    Chưa đầy nửa giờ sau khi Creed gác máy, một tiếng đập như sấm rền trên cánh cửa khiến Cal tự hỏi thứ gì đó sẽ bật ra khỏi bản lề nếu anh không kịp mở cửa. Nó không khóa, nên anh gào lên, “Vì Chúa, xoay nắm cửa đi!”

    Creed ào vào trong phòng như một trận tuyết lở, quai hàm se lại, bàn tay nắm chặt y như Cal biết nó sẽ thế.

    “Có chuyện gì?” Creed yêu cầu trong một tiếng gầm khàn khàn.

    “Nó bắt đầu thứ Hai vừa rồi,” Cal nói, quay đi vớ lấy hai chai cổ dài từ cái tủ lạnh sập xệ màu xanh bơ của mình. Anh mở bật nắp, đưa một chai cho Creed, người nhận nó siết chặt tới nỗi Cal tự hỏi liệu ông có ý định bóp vỡ cái chai trong bàn tay trần hay không. “Một người ở nhà nghỉ của Cate nhảy dù qua cửa sổ và lái xe đi, để lại đồ đạc.”

    Ngay lập tức đôi mắt màu nâu lục nhạt của Creed có biểu hiện phân tích mà Cal biết rất rõ.

    “Tôi ở đó vào sáng thứ Hai,” Creed nói. “Cô ấy bận hơn bình thường. Ông ta chạy trốn khỏi ai?”

    “Không biết là ai hay tại sao. Ông ta không quay lại. Sang ngày thứ Ba, Cate thông báo ông ta mất tích, nhưng vì ông ta biến mất như làn hơi, văn phòng cảnh sát trưởng không làm gì nhiều hơn là kiểm tra bệnh viện địa phương và cho bà chủ nhà nghỉ biết là sẽ chú ý tới dấu hiệu của một vụ tai nạn. Cũng trong ngày thứ Ba, một gã gọi cho Cate giả vờ là người của đại lý cho thuê xe, cố gắng lần ra dấu vết người đàn ông này. Sau đó, Cate gọi tới đại lý cho thuê xe thì hay họ không có ghi chép về việc ông ta từng thuê một chiếc xe của họ.”

    “Có thông tin nhận dạng người gọi không?” Creed hỏi.

    “Không hiển thị tên và số người gọi. Tôi đoán nhà mạng sẽ cho ta nhiều thông tin hơn, nhưng tại sao họ phải làm thế chứ? Không tên tội phạm nào bị bắt giữ, không mối đe dọa nào được thực hiện. Tương tự với khách hàng của Cate – ông ta không trốn trả hóa đơn, nên hành vi phạm tội chưa cấu thành, cảnh sát không hứng thú đâu.”

    “Tên ông ta là gì?”

    “Layton. Jeffrey Layton.”

    Creed lắc đầu. “Chưa từng nghe về ông ta trước đây.”

    “Tôi cũng thế.” Cal ngửa đầu, đổ xuống ít bia lạnh. “Rồi, đến thứ Tư, hai gã đăng kí thuê phòng của Cate.”

    Anh giải thích tại sao Cate nghi ngờ, và một trong hai gã đã nghe trộm được cô và Neenah nói chuyện trong bếp.

    “Chuyện tiếp theo họ biết, gã đàn ông tự gọi mình là Mellor bước qua cánh cửa với khẩu súng lục trong tay, yêu cầu Cate đưa chúng đồ đạc Layton đã bỏ lại.”

    “Tôi hy vọng cô ấy không tranh cãi,” Creed nói dứt khoát.

    “Cô ấy không. Cùng lúc đó, tôi đang trên đường vào thị trấn, tôi ghé qua lấy thư của cô ấy. Tôi cho rằng cô ấy hành động thật kỳ lạ, kiểu hốt hoảng, không tập trung, và khi cô ấy đưa thư cho tôi, cô ấy dán ngược con tem.”

    Anh nhìn thấy biểu hiện của Creed biến đổi đột ngột.

    “Cô gái thông minh,” ông nói hài lòng.

    “Tôi nắm lấy tình thế, lừa phỉnh lũ ngốc, đậu xe tải dưới đường, lôi khẩu súng săn sau chỗ ngồi ra. Rồi tôi lẻn trở lại, vào trong. Phát hiện một gã ở trong tiền sảnh, đang lén nhìn ra ngoài qua cửa sổ. Nện báng súng vào đầu gã, và đi tìm Cate. Tôi nghe tiếng trên tầng, theo họ lên gác mái, Cate đang lôi va li của Layton ra, gã kia đang giữ chặt tóc của Neenah, đầu bà ấy nghiêng hẳn sang bên, nòng súng lục dí vào thái dương bà. Tôi nhắm vào gã ta, thuyết phục gã rằng cách duy nhất gã còn sống ra khỏi đây là hạ vũ khí và thả Neenah. Cate đưa chúng va li, rồi tôi nhìn chúng rời khỏi.”

    Anh đã bỏ qua nhiều chi tiết không kể, nhưng Creed biết anh đủ lâu để có thể đọc được giữa các câu chữ; ông biết chính xác Cal đã chơi ú òa với hai gã đàn ông thế nào.

    “Vào thứ Tư à?”

    “Đúng,” Cal xác nhận.

    “Mẹ kiếp.”

    Đâu cần phản ứng. Bản tính Creed sẽ là săn tìm chúng, bắt chúng phải trả giá – rất đắt – nhưng vụ việc đã xảy ra cách đây ba ngày, chúng đã đi xa rồi.

    Creed phát ra một âm thanh thất vọng trong cổ họng, rồi chùng mình trong chiếc sô pha cũ của Cal.

    “Họ không sao chứ?” ông hỏi. “Neenah và Cate?”

    “Cate run lẩy bẩy, nhưng có mẹ cô ấy ở đây giúp đỡ, cộng với cặp sinh đôi chiếm mất tâm trí cô. Neenah không có ai – ý tôi là, về khía cạnh riêng tư. Tất cả hàng xóm đều tụ tập lại, nhưng cả ông và tôi đều hiểu phản ứng sẽ ra sao khi mọi người rời đi để lại họ một mình.”

    Creed rướn người về phía trước, chống khuỷu tay lên hai đầu gối xòe rộng, bàn tay thả xuống lủng lẳng. Cal quan sát ông kỹ càng khi tiếp tục, “Tôi có thể nói rằng bà ấy đang có khoảng thời gian khó khăn phải đối phó. Bà ấy thu mình, và bà ấy có những quầng thâm bên dưới mắt như bị thiếu ngủ. Thêm nữa vẫn còn vết bầm lớn trên mặt bà.”

    Bàn tay Creed co lại thành nắm đấm, nhưng ông không dời khỏi sô pha.

    Cal cúi xuống, nhìn viên sĩ quan chỉ huy cũ của mình, nói rất nhẹ nhàng, “Ông là kẻ nhát gan nếu ông không giữ lấy người phụ nữ ấy lúc này khi bà ấy cần được an ủi.”

    Creed giật bắn mình, mở miệng định phóng ra một tràng đả kích, rồi ngậm ngay lại.

    “Chết tiệt,” ông nhắc lại. “Chết tiệt!” Rồi ông dậm mạnh chân tới cửa, rời đi, những bậc thang bên dưới đôi bốt của ông kêu lên thình thịch khi ông bước hai bậc một lúc.

    Miệng cong lên một nụ cười khẽ, Cal đóng cửa.

    Teague không tin vào may mắn của mình. Thỉnh thoảng ánh nắng chỉ rót xuống một người đàn ông, bây giờ không phải thế sao? Trong tất cả các nơi, tên khốn Creed đã lái xe thẳng tới Trail Stop.

    Có lẽ không có cơ hội nào tốt hơn chuyện này. Giờ chưa phải là muộn nếu hắn muốn, nhưng phần lớn mọi người ở Trail Stop ở độ tuổi trung niên, thậm chí vài ông già bà cả, nên không giống như chúng tìm được một quán bar độc thân mỗi đêm và ở lại đó cho tới khi trải qua vài giờ ngắn ngủi. Có vài người trẻ tuổi, như người phụ nữ Nightingale, và vài người trông cùng độ tuổi với cô ta. Hắn đánh cược rằng mọi người đều đang ở trong nhà ấm cúng. Suy nghĩ về nó, hắn đánh cược rằng – đánh cược bằng sự thành công của kế hoạch, từ sự quan sát mọi người và kỹ năng của hắn đọc được họ.

    “Nhanh lên,” hắn thì thầm vào điện thoại.

    “Tôi đang nhanh đây,” Billy thì thầm trả lời. Gã đang chuẩn bị phá cầu, đặt kíp nổ vào gói thuốc nổ mà gã ăn trộm từ một công trường xây dựng cách đây vài tháng. Teague tin vào sự chuẩn bị; hắn chỉ không biết khi nào hắn cần thổi bay thứ gì đó xuống địa ngục. Billy phải di chuyển cẩn thận vì những phiến đá bên dưới cầu bị ướt bởi bụi nước, nên trơn trượt; một bước sai lầm là gã đi ngay lập tức xuống con suối chảy xiết, bị cuốn ra con sông giết người.

    Từ từ Billy theo đường rời khỏi gầm cầu, cẩn thận tháo từng vòng dây khỏi tay mình. Teague có thể dùng kíp nổ không dây, nhưng bằng kinh nghiệm của hắn nó không đáng tin cậy – chưa kể nó sẽ thu hút người khác bằng vài dấu hiệu nổi bật. Không tốt. Tiễn đưa cuộn dây trong địa hình này sẽ mất thời gian, giữa lúc đó Creed có thể đã rời đi, như phần lớn mọi thứ khác trong đời, nhưng dùng dây nổ là quyết định nên Teague vẫn thực hiện.

    Cháu trai hắn, Blake đã được bố trí ở điểm ngắm bắn gần nhất, ống kính hồng ngoại gắn liền với súng trường. Ngay khi Billy chuyển cuộn dây qua Teague, gã cũng sẽ vào vị trí ngắm bắn tiếp theo.

    Troy, em họ hắn, đang ở trên cột điện gần nhất với kìm cách điện, đợi tín hiệu từ đồng bọn. Vì Trail Stop quá nhỏ và biệt lập, công ty điện lực và công ty điện thoại dùng chung những cây cột. Troy sẽ cắt dây điện trước, rồi đến dây điện thoại – sau đó Teague sẽ thổi bay cây cầu.

    Creed chần chừ trên hiên nhà Neenah, nắm tay ông giơ lên đập cửa nhà bà. Ông quá đau lòng nên thay vì lái xe, ông đi bộ tới nhà bà, chỉ khoảng một trăm yard tới cửa hàng thực phẩm với một ngôi nhà khác ở giữa, nhưng một trăm yard không hãm lại từng búi cảm xúc trong ông.

    Chỉ nhận thức rằng ông sẽ làm bà sợ chết khiếp nếu ông bắt đầu đập lên cánh cửa đóng kín nhà bà. Ôi khỉ thật, bà có lẽ đã nghe thấy ông dậm bước trên hiên nhà với tất cả sự nhẹ nhàng, duyên dáng của Paul Bunyan (gã thợ rừng khổng lồ) và chạy qua cửa sau đầy hoảng sợ. Ông nhăn nhó. Cái quái gì với ông thế này? Ông đã dùng cả cuộc đời, hai cuộc đời chứ, di chuyện lặng lẽ đằng sau từng hàng quân địch, rồi vượt qua dãy núi chết tiệt kia: giờ thì đột nhiên sao ông lại dậm mạnh chân như thế?

    Ông biết lý do. Đó là nhận thức đột ngột đến thắt ruột rằng Neenah có thể dễ dàng chết vào hôm thứ Tư – và không chỉ ông không thể làm gì để bảo vệ bà, bà sẽ chết mà không biết ông cảm thấy ra sao. Ông đã sống cả phần đời biết rằng mình không có cơ hội, và giờ thì quá muộn. Tất cả những lời ông bào chữa cho bản thân trong những năm qua – lời bào chữa rất hay – bỗng dưng dường như khá khập khiễng. Cal không sai. Ông đúng là một kẻ hèn nhát.

    Creed từng cảm thấy sợ hãi trước đây; mỗi người lính tài nghệ đều thế. Ông từng rơi vào tình huống rất căng thẳng đến nỗi phải từ bỏ hy vọng thư giãn cơ vòng của mình – nhưng ông chưa từng đông cứng đến không thể cử động.

    Ông cố gắng bênh vực thần kinh. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì? Neenah có thể từ chối ông, đó là tất cả.

    Chỉ ý nghĩ đó đã đủ làm máu ông đông lại và khiến ông muốn bỏ chạy. Bà có thể từ chối ông. Bà có thể nhìn ông và nói “Không, cảm ơn” như thể bà đang gạt bỏ thứ không quan trọng hơn một thanh kẹo cao su. Ít nhất nếu ông không hỏi, ông không bao giờ phải đối mặt với sự thật chắc chắn rằng bà không muốn ông.

    Nhưng nếu bà muốn thì sao? Có khả năng bà nói có, chỉ cần ông dám hỏi?

    Cứt thật. Phát điên mất. Chết tiệt. Ông hít vào một hơi thở sâu và gõ cửa – nhẹ nhàng.

    Một khoảnh khắc im lặng kéo dài, ông chiến đấu với cơn tuyệt vọng dâng trào. Đèn nhà bà vẫn bật; sao bà không trả lời. Lẽ nào bà ngó qua cửa sổ trong khi ông lập cập ở đây, nhận ra là ai và không muốn nói chuyện với ông. Ôi địa ngục, tại sao bà nên nói chuyện chứ? Ông có là gì với bà đâu; ông chắc đến chết tiệt điều đó, bằng cách giữ cho bà một bến bờ rộng lớn trong nhiều năm. Ông không nói gì với bà hơn là vài lời nhận xét lịch sự bất cứ khi nào ông ở trong cửa hàng thực phẩm, điều mà không thường xuyên lắm.

    Đúng là địa ngục. Ông gõ cửa lần nữa.

    “Đợi một chút,” tiếng trả lời yếu ớt, rồi ông nghe tiếng bước chân đến gần.

    Cách cửa vài feet bà do dự hỏi, “Ai đấy?”

    Đó có lẽ là lần đầu tiên bà hỏi trước khi mở cửa, ít nhất ở đây tại Trail Stop này, ông nghĩ dứt khoát, và ông ghét cảm giác an toàn của bà bị phá vỡ.

    “Joshua Creed.”

    “Chúa nhân từ,” ông nghe tiếng bà lẩm bẩm; rồi tiếng khóa lạch cạch, bà mở cánh cửa ra.

    Bà đang chuẩn bị lên giường. Bà mặc một chiếc váy ngủ màu trắng với sợi dây dài màu xanh thắt gọn gàng quanh eo. Ông chưa từng nhìn thấy mái tóc nâu bạc của bà ngoài kiểu vuốt ra sau khỏi khuôn mặt và được giữ bằng một chiếc khăn, kiểu mà ông thấy rất lỗi thời, hoặc búi lại thành một búi. Nó giờ đây được buông ra, thẳng và trơn bóng, lòa xòa quanh khuôn mặt và hai bờ vai.

    “Có chuyện gì sao?” bà hỏi lo lắng, tránh sang bên để ông bước vào. Bà đóng cửa phía sau ông.

    “Tôi vừa nghe chuyện xảy ra hôm thứ Tư,” ông trả lời, giọng ông có một chút dữ dội, ông quan sát tất cả biểu hiện mờ dần khỏi khuôn mặt bà. Bà nhắm mắt, giấu chặt lòng mình; trái tim ông thắt lại khi nhận ra Cal đúng, bà không xử lý vụ việc tốt lắm và không có ai cùng chia sẻ. Bà đã ở một mình cả thời gian dài, ông ngẫm nghĩ, thật lạ vì mọi người ở Trail Stop đều coi bà như một người bạn. Bà đã ở đây khi ông nghỉ hưu rời khỏi quân đoàn, thay đổi chút ít trong suốt nhiều năm. Theo hiểu biết của ông, bà không hề hẹn hò. Bà quản lý cửa hàng thực phẩm, thỉnh thoảng ghé thăm vài người bạn, còn buổi tối bà về nhà một mình. Câu chuyện là thế. Đó là cuộc sống của bà.

    “Em ổn cả chứ?” ông hỏi, giọng nói trầm trầm của ông phát ra nhỏ hơn một tiếng gầm gừ. Trước khi ông có thể ngăn mình, ông giơ tay ra, nhẹ nhàng vuốt tóc bà khỏi thái dương phải ra sau nên vết thâm đen lộ ra hoàn toàn.

    Bà run rẩy, nên ông nghĩ bà có lẽ sẽ giật lùi lại, nhưng bà không.

    “Tôi ổn,” bà nói tự động, giống như bà đã trả lời cùng câu hỏi rất nhiều lần trước đây.

    “Thật chứ?”

    “Vâng, tất nhiên.”

    Ông di chuyển lại gần hơn, bàn tay chạm vào lưng bà. “Sao chúng ta không ngồi xuống,” ông gợi ý, hướng bà về phía sô pha.

    Hai chiếc đèn là tất cả thắp sáng phòng khách ấm áp của bà, ông không chắc lắm, nhưng ông cho rằng màu sắc của bà đã sưởi ấm thêm.

    “Tôi xin lỗi, tôi nên có—“ Bà đột nhiên ngừng lại, đổi hướng tới chiếc ghế đơn, với sự thay đổi tế nhị của cơ thể ông ngăn cản điều đó, hướng bà lại chiếc sô pha. Bà ngồi xuống giữa đệm, cứng đơ, như thể đôi chân bỗng nhiên biến mất.

    Creed ngồi xuống bên cạnh bà, đủ gần để đùi ông sẽ chạm vào đùi bà nếu ông chỉ cử động một chút. Ông không, đột nhiên nhớ ra bà từng là một nữ tu.

    Thế có nghĩa bà còn là một trinh nữ? Ông đổ mồ hôi, vì ông không biết. Không phải ông sẽ quan hệ với bà đêm nay hay thứ gì giống thế, nhưng – có người đàn ông nào từng chạm vào bà chưa nhỉ? Bà đã từng hẹn hò khi còn là một thiếu niên? Nếu bà hoàn toàn không có kinh nghiệm, ông không muốn làm gì khiến bà sợ hãi, nhưng làm thế nào ông phát hiện ra?

    Và tại sao bà không còn là tu sĩ nữa? Điều duy nhất ông biết về các tu sĩ là câu “Theo người tới một tu viện,” chính xác chẳng có nghĩa gì với ông. Vâng, ông đã từng xem vài tập phim Nữ tu bay khi còn nhỏ, nhưng tất cả đó nói với ông rằng khi nâng hay đẩy một trở ngại kéo dài, cuộc chiến đã hoàn thành. Sự giúp đỡ lớn là thế đấy.

    Được rồi, ông rất lo sợ. Nhưng chuyện này không phải về ông. Mà về Neenah. Neenah đang hoảng loạn mà không có ai để tâm sự.

    Ông thư giãn, ngồi lùi lại để cái gối tựa dày đỡ lấy mình. Căn phòng thật nữ tính, ông ngẫm nghĩ, nhìn ngắm bóng đèn và những cây xanh, những bức ảnh, cuốn sách và cả những đồ trang trí khác, vài đồ thêu thùa được ghim vào một khung gỗ tròn đặt bên cạnh. Một cái ti vi, mười chín inch, được nhét trong một thứ trông giống một tủ ly kiểu cổ, với đầy những cuốn sách xếp bên trên. Một lò sưởi chiếm lĩnh bức tường bên trái, và than hồng đỏ rực nói cho ông biết rằng bà đốt đống lửa để chống lại cái lạnh đầu mùa.

    Bà không thư giãn; vẫn ngồi thẳng đờ: ông không nhìn thấy gì ngoại trừ lưng bà. Đủ tốt. Có lẽ bà đang gặm nhấm vài cảm xúc mà không thể gọi tên.

    “Tôi từng ở trong quân đoàn lính thủy đánh bộ,” cuối cùng ông lên tiếng, quan sát vai bà thẳng lại trong sự chú ý bất ngờ. “Hai mươi ba năm. Tôi trải qua nhiều trận đánh, với nhiều tình huống cam go. Một số trong đó tôi cho rằng mình không thể thoát khỏi, nhưng tôi vẫn làm, thỉnh thoảng tôi run dữ dội đến nỗi răng va lập cập vào nhau. Sự kết hợp giữa cú sốc và chất adrenaline làm được vài điều với bạn, cho bạn khoảng thời gian để vượt qua nó.”

    Một khoảnh khắc im lặng chạy xuyên giữa họ, như một sợi dây liên lạc. Ông có thể nghe thấy hơi thở của bà, hít vào – thở ra rất nhẹ nhàng, cả tiếng sột soạt khẽ khàng khi bà cọ xát nếp gấp váy ngủ giữa các ngón tay. Rồi bà thì thầm, “Nó kéo dài bao lâu?”

    “Tùy thuộc.”

    “Vào gì?”

    “Vào em có ai đó để trò chuyện không,” ông trả lời, vươn tay ra, nhẹ nhàng nắm lấy vai bà, xoa dịu lưng bà.

    Bà không nỗ lực chống lại, nhưng ông có thể cảm nhận sự ngạc nhiên, miễn cưỡng ban đầu của bà. Ông dịu dàng kéo bà vào vòng tay mình, ôm bà lại gần. Bà ngước lên nhìn ông, biểu hiện trong đôi mắt xanh thuần khiết đầy nghiêm trang, thắc mắc, cùng do dự.

    “Shhh,’ ông thì thầm, như thể bà phản đối. “Chỉ thả lỏng thôi.”

    Bất cứ điều gì bà nhìn thấy trên khuôn mặt ông hẳn đã trấn an bà – Chúa ơi, sao bà có thể mù quáng thế? với một tiếng thở dài bà xua đi dòng chảy cứng rắn khỏi thân mình, để bản thân lún xuống, tựa vào một bên cơ thể ông, chìm vào hơi ấm của ông, khi ông kéo bà gần hơn.

    Bà mềm mại, ấm áp, và có mùi thật hấp dẫn. Các giác quan của ông bơi lội giữa sự gần gũi của bà, tình trạng điên cuồng vì cuối cùng cũng được ôm bà, cảm nhận bà và hít thở mùi vị của bà. Bà vùi khuôn mặt vào vai ông, run rẩy. Vai bà khẽ giật giật, ông thì thầm gì đó thật nhẹ nhàng khi ông ôm bà lại gần.

    “Em không khóc,” bà nói, giọng nghẹn lại, yếu ớt.

    “Dịch ra phía trước nào nếu em muốn. Một chút sụt sịt giữa những người bạn có là gì chứ?”

    Bà bật cười, âm thanh bị cơ thể ông chặn lại, bà nghiêng đầu ra sau nhìn ông.

    “Em không thể tin anh nói điều đó.”

    Ông hôn bà. Ông đã muốn làm thế, lạy Chúa, nhiều năm rồi, nên khi bà ngẩng mặt lên, môi bà chỉ cách của ông có vài inch, nên, ôi chết tiệt, ông đã làm vậy. Ông khum lấy khuôn mặt bà trong bàn tay, hôn bà dịu dàng nhất có thể, nhưng vẫn cho bà nhiều không gian để bà lùi lại nếu bà muốn – bà không. Thay vào đó, bà nắm chặt vai ông bằng một tay, hôn lại ông, đôi môi hé mở, lưỡi bà dễ dàng đưa ra chạm vào của ông.

    Mặt đất chao đảo; một tiếng nổ dữ dội làm rung chuyển cả ngôi nhà. Một phần nhỏ của Creed cho là do chấn động của nụ hôn, nhưng phần lớn hơn trong ông biết điều tốt hơn, ông vòng hai cánh tay quanh bà khi ông lăn cả hai người rời khỏi ghế sô pha, xuống sàn nhà, phủ lên bà sự che chở bằng chính cơ thể mình.
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/7/15
  18. hathao

    hathao Lớp 2

    Nể tốc độ dịch của HLK quá. Sau dự án này HLK có dự định triển khai tiếp dự án nào không? Luôn luôn ủng hộ bạn.
     
    Breeze and halucky like this.
  19. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 16 (halucky)

    NGAY KHI TEAGUE THỔI BAY CÂY CẦU, Bill, Troy, và Blake bắt đầu nằm xuống chĩa súng vào những ngôi nhà ở vành ngoài. Chúng không chủ ý cố gắng bắn trúng ai, nhưng chúng chẳng quan tâm nếu có thế. Điều duy nhất giữ tay chúng lại một chút là nhận thức rằng một trận tắm máu sẽ đưa vài nhân viên chấp pháp ở Idaho xuống đây khi vụ việc bị vỡ lở, điều dự báo có thể hơi khó chịu.

    Blake dùng một khẩu Weatherby Mark V Magnum 257, một phần thực sự ngọt ngào của công việc, rất đầm tay. Billy có một khẩu Winchester; Troy, một khẩu Springfield M21. Khẩu Weatheby và Winchester là loại súng trường săn bắn cực tốt; khẩu Spring phù hợp hơn cho việc bắn tỉa. Vũ khí ưa thích của Teague là một khẩu Parker-Hale M85, với một hệ thống chân đế giữ ổn định. Cả Springfield và Parker-Hale là loại súng trường bắn ở khoảng cách xa, có khả năng vươn xa trúng vào ai đó cách một dặm, nếu người kéo cò có đủ kỹ năng.

    Teague đã cân nhắc sự khác nhau của từng loại vũ khí khi lựa chọn. Blake và Billy sẽ nhận ca đêm, lúc mà ống ngắm hồng ngoại cần đến. Ống ngắm có một giới hạn; bất cứ thứ gì ở ngoài bốn trăm yard sẽ không hiển thị. Nên súng trường của chúng sẽ hiệu quả nhất với những khoảng cách tầm trung. Troy và Teague có thể dùng ống nhòm siêu mạnh cả ngày, và những khẩu súng trường tầm xa của chúng sẽ đặt sự kính sợ thiên Chúa lên bất kỳ ai chúng nhìn thấy di chuyển về phía cộng đồng. Đây nữa, những ống ngắm hồng ngoại, nhưng Troy và Teague sẽ không phải phụ thuộc hoàn toàn vào thứ đó.

    Goss và Toxtel được bố trí di chuyển lại gần nơi cây cầu bị thổi tung, xoay tròn lao xuống dòng suối đang đổ xô vào núi, vài mảnh vỡ được giữ lại. Với khẩu súng lục, chúng phải chịu trách nhiệm với những hành động ở tầm ngắn, điều mà Teague không hề mong đợi.

    Tiếng nổ gầm rú và cơn mưa mảnh vụn tiếp theo vẫn chưa chấm dứt khi mọi người chạy ào ra khỏi nhà, xem xét chuyện gì xảy ra. Bình tĩnh và thong thả, bốn tên đàn ông bắt đầu nổ súng, lái những công dân gương mẫu của Trail Stop lùi lại xa dần.

    Ngay khi ánh đèn vụt tắt, Cal di chuyển, cầm lấy đèn pin chống thấm nước và hướng tới cửa. Nếu mất điện ở cửa hàng thực phẩm, một trong những ngôi nhà đầu tiên trên đường vào Trail Stop, thì gần như chắc chắn mất điện toàn bộ cộng đồng – mà Cate đang ở nhà một mình. Anh ra tới cửa khi vụ nổ đánh anh bật ngã; anh cuộn mình lại khi chạm đất, đèn pin siết chặt trong tay nên anh không đánh mất nó.

    Bom.

    Anh đã ở trên mặt đất khi phát súng đầu tiên nổ.

    Bóng tối, tiếng nổ, luồng gió dội lại, đẩy anh vào ngay tình trạng chiến đấu. Chất adrenaline ào ào qua cơ thể anh, anh không dừng lại để suy nghĩ, không phải suy nghĩ, vì đó không phải bản năng thứ hai của anh, mà là bản năng đầu tiên. Đút đèn pin vào túi quần, anh mở cửa, bò ra ngoài cầu thang bên ngoài. Không có lan can bảo vệ dọc quanh cầu thang, chỉ có một khung bị biến dạng kích thước hai nhân bốn. Anh bám chặt vào mép cầu thang đu người qua, treo mình vài giây trước khi thả người vào bóng tối. Vì không nhìn rõ mặt đất, thật khó để lường trước và điều khiển cú tiếp đất của mình, nhưng sự quen thuộc cho phép anh xét đoán với độ chính xác không hơn bộ ria mèo. Anh khuỵu gối xuống, giảm bớt chấn động của cú va chạm, khom mình đi tới phía sau chiếc bán tải đậu gần đấy.

    Tai anh bị ù sau tiếng nổ, nhưng anh có thể định vị hướng các phát súng đến từ… chính xác: phương hướng … bốn điểm bắn khác nhau. Đạn súng trường, bay ngang qua con suối. Anh nhận ra tiếng nổ đến từ phía cây cầu; có lẽ một chiếc xe phát nổ trong lúc băng qua nó, nhưng anh không chắc lắm, âm thanh nghe không giống thế. Vì không có gì khác theo hướng đó, bản năng nói với anh rằng cây cầu đã bị thổi bay. Tại sao và do ai là câu hỏi phải nằm chờ. Giờ anh phải tới chỗ Cate.

    Một vòng tròn nặng nề đập vào một góc bức tường phòng khách của anh, thổi bay nhiều mẩu gỗ qua chiếc bán tải. Bất cứ ai ở phía bên kia con suối đang bắn có hệ thống vào những ngôi nhà.

    Tính từ cây cầu, cửa hàng thực phẩm là ngôi nhà thứ ba bên phải; nhà Neenah đầu tiên, và là ngôi nhà hứng chịu nhiều nhất. Creed đã tới nhà bà, thế nghĩa là Cal cần cân nhắc tới khả năng vị sĩ quan chỉ huy cũ của mình có thể đã ra đi, hay ít nhất bị thương. Anh không thể tính đến sự trợ giúp từ hướng đó.

    Anh cúi người thấp xuống, núp sau động cơ chiếc bán tải, trườn tới giật mở cửa hành khách. Khẩu súng săn Mossberg cất sau chỗ ngồi, cùng vài hộp đạn. Anh kéo mạnh mở nắp túi bên chân phải chiếc quần vải thô của mình, đút đạn vào đó, rồi đóng nắp túi lại bằng cách ấn chặt vào miếng dính Velcro. Có một thứ khác anh chắc sẽ cần tới, nên anh chộp lấy chiếc hộp nhỏ màu xanh, chứa đồ sơ cứu.

    Hầu như bị át đi bởi tiếng súng trường, những tiếng hét chói tai của nỗi sợ hãi và đau đớn vọng tới tai anh. Anh nhận ra, mọi người đều ra khỏi nhà, có lẽ họ bị lôi ra khỏi nhà có chủ đích. Giờ đây họ ở bên ngoài, như vịt đang ấp.

    “Nằm xuống!” anh gào lên khi nhảy lùi lại sang bên phải, cố gắng núp sau một ngôi nhà, một thân cây – bất cứ thứ gì – chắn giữa anh và nơi những khẩu súng trường được sắp đặt. “Mọi người tìm chỗ núp đi! Trốn sau ô tô!”

    Khoảng trống giữa các ngôi nhà khá rộng; Trail Stop là một cộng đồng được xây dựng lỏng lẻo. Khi vượt qua một khoảng trống, anh cúi đầu, chạy chối chết, zich zắc như một hàng dài xe cộ ùn tắc. Một trong những tay súng bắt được anh liền gửi tới ngay một viên đạn loẹt xoẹt sau đầu. Anh cuộn người, phóng đi, và cuối cùng đâm đầu xuống phía sau ngôi nhà bên cạnh, cào bàn tay xuống đá dăm lạo xạo, rồi đau điếng khi cái vòi nước bên ngoài nhà đập vào vai anh.

    Khỉ thật! Bọn chúng có ống kính nhìn xuyên đêm hoặc có thể là cảm biến hồng ngoại. Cái chó chết gì đang diễn ra thế không biết? Những tên kia là ai? Cớm ư? Hay một kiểu lực lượng tác chiến? Hay một nhóm người ưa phiêu lưu mạo hiểm, tập tành với cuộc sống hoang dã? Không quan trọng. Chúng không bắn bâng quơ. Chúng nhìn thấy anh nên chúng có thể nhìn thấy mọi người.

    Mặc dù vậy, chúng không thể nhìn xuyên tường.

    Để giảm thiểu các đường đạn không bị cản trở, anh cần lợi dụng thật nhiều những ngôi nhà, xe cộ, thân cây hay vật thể rắn nào giữa anh và vị trí của chúng. Thế nghĩa là càng chếch xa khỏi Cate, vì con đường không chia đôi Trail Stop ở chính giữa; nó cong về bên trái, tách hai phần ba vùng đất – gồm phần lớn các ngôi nhà - ở bên phải. Không hề có sơ kế hoạch bố trí nào ở Trail Stop; mọi người xây nhà bất cứ nơi khỉ gió nào họ muốn, chẳng cần hòa hợp hay lý do.

    Anh thầm tính vị trí các ngôi nhà trong lúc chạy. Nhà Cate nằm tận cùng bên trái của cộng đồng, phía dân cư thưa thớt, nhưng không hoàn toàn bị phơi trần. Gara của cô nằm phía sau; có hơn hai ngôi nhà chắn sau đó bên trái. Nếu cô chỉ ở bên trong, ở tầng trệt …

    Nhưng phòng ngủ của cô ở tầng trên cùng, anh không biết góc tấn công chính xác của các tay súng. Có thể lúc này cô đang nằm trên sàn giữa một vũng máu –

    Anh nghiến răng, xua đi hình ảnh đó, vì anh không thể hoạt động trong một thế giới mà không có Cate Nightingale trong đó.

    Mặt đất bên dưới anh mấp mô, gồ ghề, làm anh chậm lại, cộng thêm anh không nhìn thấy gì. Khi chạy, anh vượt qua đám người từ những ngôi nhà vòng ngoài, đang đổ xô về phía tiếng súng đầy hỗn loạn. Phần lớn họ đều có đèn pin; vài người trong đó mang súng trường hay súng săn.

    “Tắt đèn pin đi!” anh chắn họ khi băng qua. “Đừng tiến xa nữa! Chúng có kính hồng ngoại đấy!”

    Nhóm nhỏ dừng lại. “Ai đấy?” một người hỏi, nửa lo lắng, nửa thận trọng.

    “Cal,” anh hét lên trả lời. “Lùi lại đi! Lùi lại!”

    Rồi một viên đạn may mắn – lạy Chúa, anh hy vọng nó là may mắn, hy vọng không tên nào có được kỹ năng ấy – thổi bay một thân cây chỉ cách anh vài bước chân. Một lần nữa, anh cuộn tròn trên mặt đất, chớp mắt làm ngơ con đau nhói, núp phía sau một thân cây lớn.

    Một mảnh gỗ dài đâm phập vào anh chỉ ngay bên trên lông mày trái. Anh kéo nó ra và lau đi vết máu bằng mu bàn tay đang cầm hộp sơ cứu, nên cái hộp đập tiếp vào mặt anh. Tốt đấy, Harris, anh tự nhủ đầy chế giễu. Làm cái điều cần thiết đi.

    Bây giờ anh e sợ may mắn không theo cùng họ. Đó là những phát súng chính xác, chính xác đến chết tiệt. Anh nhanh chóng dự tính khoảng cách. Anh còn cách bờ suối bên kia bốn trăm yard nữa.

    Điều đó nói với anh vài thứ về loại súng trường được dùng, và kỹ năng của người sử dụng chúng. Nó cũng nói với anh rằng, anh đã ở ngoài phạm vi hữu dụng của kính cảm biến hồng ngoại, và anh cũng vượt ra ngoài phạm vi của kính nhìn xuyên đêm. Phát súng tầm ngắn nào lúc này sẽ chỉ là may mắn. Không có nghĩa rằng anh không thể bị bắn trúng; nó chỉ có nghĩa là không tay súng nào có thể theo dõi anh bằng ống kính.

    Anh từ bỏ mọi kỹ năng lẩn trốn của mình, đơn giản chỉ là chạy.

    * * *

    Cate đi ngủ sớm – thật sự sớm. Cô luôn có cặp sinh đôi để chăm sóc và tập trung vào, giờ thiếu vắng chúng, như thể tâm trí cô nhắc nhở cơ thể cô rằng, “Được rồi, bạn có thể nghỉ ngơi.”

    Cô có ý định dùng cả ngày lôi quần áo mùa đông ra và giặt giũ. Trước khi đóng gói chúng, tất nhiên, cô đã giặt sạch, nhưng quần áo luôn có mùi ẩm mốc sau khi cất trong hộp. Cô lôi ra một cái hộp, lấy hết đồ được giặt trong đó ra, thế chỗ bằng một số quần áo mùa hè trong tủ đồ của mình, nhưng rồi cô không tìm thấy chút hứng thú nào để tiếp tục công việc vặt này.

    Cô nghĩ tới việc sắp xếp đống đá quanh phạm vi bãi đậu xe của mình, nhưng thay vì thế, cô nhặt lên cuốn sách mà cô đã có thời gian đọc vài chương trước khi ngủ gà ngủ gật. Sau giấc ngủ trưa kéo dài một tiếng, cô tỉnh dậy thấy chếnh choáng, dường như chẳng có gì quan trọng hơn là xem ti vi, điều mà cô không thường làm. Cô phát hiện ra chương trình thứ Bảy dở ẹc.

    Cô nghĩ về việc thử nghiệm một công thức nấu ăn cô mới tìm ra cho món mì ống và súp thịt viên, cô cho rằng bọn trẻ sẽ thích, và xem liệu có dễ để làm, phục vụ khách hàng khi cô mở rộng việc bán đồ ăn trưa mùa đông này. Cô vào bếp, bắt đầu lôi các nguyên liệu ra, rồi cất mọi thứ trở lại, cô mở một hộp mỳ ống và thịt viên hiệu bếp trưởng Boyardee của bọn trẻ. Cô ăn thịt viên còn đổ đi chỗ mì ống.

    Cô buồn ngủ và thấy mệt mỏi, cô có thể đi ngủ ngay được. Chẳng có ai cần chăm sóc, không có việc lặt vặt nào cần làm, không có ai để trò chuyện. Cô đành đi tắm, mặc vào bộ đồ ngủ bằng vải flannel vì hai đêm gần đây trời hết sức giá lạnh, cảm giác thật sự xuống sức, cô lên giường sau bảy giờ một quãng ngắn.

    Mãi lâu sau, một tiếng nổ khủng khiếp lắc cô ra khỏi giấc ngủ sâu, trong một khoảnh khắc tâm trí cô hoàn toàn trống rỗng, cô không thể nghĩ mình đang ở đâu hay mình đang làm gì, cô nằm trên giường chớp mắt trong bóng tối bao trùm xung quanh. Rồi cô tỉnh dậy đủ để nhìn vào đồng hồ, chỉ để khám phá ra những con số điện tử màu đỏ không ở nơi quen thuộc của chúng. Điện đã mất.

    “Chết thật,” cô lẩm bẩm, vì cô không có pin dự phòng, thế nghĩa là cô phải đứng dậy, đi tìm cái đồng hồ hẹn giờ chạy pin cô có nhiều năm rồi – nếu không cô sẽ ngủ quên vào buổi sáng. Hoặc thế, hoặc ngồi dậy chờ cho tới khi có điện. Cô nằm đó tự hỏi liệu có phải tiếng ồn là do máy biến áp phát nổ, như thế sẽ lý giải cho việc mất điện. Hoặc có một cơn bão dữ dội và rồi tia sét đánh vào đâu đó.

    Lúc sau cô nghe thấy nhiều tiếng ồn lớn hơn, khác nhau từ phía tiếng nổ phát ra, trong khi ngôi nhà ngừng rung chuyển. Những tiếng ồn không phải là lớn, nhưng ngày càng rõ, vọng lại. Có khá nhiều người nữa. Cô mong họ sẽ dừng lại, vì cô buồn ngủ lắm …

    Nhận thức đánh vào cô như cái tát trúng giữa mặt, làm nghiêng ngả thế giới sang một bên. Ôi lạy Chúa. Đó là tiếng súng!

    Từ phòng cặp sinh đôi phát ra tiếng kính vỡ.

    Cô lao ra khỏi giường, mù quáng vớ lấy đèn pin cô luôn để trên bàn gần giường ngủ, phòng trường hợp bọn trẻ cần cô giữa đêm. Bàn tay cô quờ qua nó, hất nó sang bên; nó rơi mạnh xuống đất loảng xoảng, rồi lăn tròn.

    “Chết tiệt!”

    Cô phải có đèn pin; bên trong ngôi nhà tối như lăng mộ vua Tut; cô sẽ ngã lên vài thứ và bẻ gãy một cái xương nếu cứ gắng gượng vượt qua nó trong bóng tối hoàn toàn. Cô quỳ xuống trên bàn tay và hai đầu gối, bò xung quanh sàn phòng ngủ, từ từ mò mẫm bàn tay ra trước mình. Sau vài lần quờ quạng trong lo sợ, không chạm vào gì thú vị hơn đôi dép đi trong phòng, cô sờ thấy kim loại mát lạnh. Cô bật nút bấm, chùm sáng phát ra, ánh sáng trả lại môi trường quen thuộc xung quanh, xua đi cảm giác hoảng loạn vì mất phương hướng.

    Cô chạy ra hành lang, bản năng hướng cô sang trái, về phía phòng cặp sinh đôi. Âm thanh tiếng kính vỡ hãm cô dừng ngay lại. Bọn trẻ đâu có đấy, chúng an toàn ở Seattle với bố mẹ cô, và … và … ai đó đang nã súng vào nhà cô?

    Sợ chết khiếp, cô nghĩ mình ngất xỉu mất, cô run rẩy dựa vào tường, đưa tay ra tìm sự trợ giúp. Không biết cụ thể chuyện gì đang diễn ra, tâm trí cô thực hiện một cú nhảy dài theo bản năng, và từ “Mellor!” vang lên.

    Mellor và Huxley. Chúng đã quay lại.

    Cô đã khiếp sợ chúng làm thế; đó là lý do cô gửi bọn trẻ đi. Cô không biết tại sao hai gã đàn ông quay lại hay chúng muốn gì, nhưng không nghi ngờ, cô biết chúng là người đang gây ra chuyện này. Chúng đang ở dưới gác, thậm chí lúc này đang đợi cô? Cô mắc kẹt trên đây ư?

    Không. Chúng hẳn ở bên ngoài, vì chúng đang bắn vào ngôi nhà. Đây là nhà cô, tổ ấm của cô, cô biết mọi ngóc ngách, mọi góc độ, mỗi lối ra. Chúng không thể giam cô ở đây. Dù thế nào cô cũng sẽ thoát.

    Cô nhận ra ánh đèn pin sẽ chỉ vị trí của mình, liền tắt nó đi. Bóng đêm dường như tối hơn lúc trước, tầm nhìn của cô tiêu tan trong phút chốc, cô muốn bật đèn. Cô phải chấp nhận nguy hiểm, cô nghĩ ngợi, và bật đèn lên lần nữa.

    Ưu tiên số một, cô phải mặc quần áo và xuống tầng trệt.

    Cô chạy đua về phòng mình, chộp lấy quần jean, một chiếc áo nỉ, và đôi giày thể thao, chăm chú lắng nghe tiếng động phát lộ, để nhắc cô nếu chúng đã vào trong nhà. Tiếng súng vẫn tiếp tục, có vẻ hơi xa. Từ bên ngoài vọng tới tiếng la hét, tiếng khóc của nỗi sợ hãi hoặc cơn đau. Cô không nghe thấy tiếng gì bên trong.

    Khi tới đầu cầu thang, cô chiếu đèn pin xuống. Không thấy gì bất thường, cô liền bước xuống vài bậc đầu tiên, chiếu đèn pin quanh hành lang và tiền sảnh. Trống không như thường ngày. Cô bước qua phần còn lại của cầu thang nhanh hơn, cảm thấy bị đặt vào tình thế nguy kịch, dễ bị tổn thương, gần như bỏ qua ba bậc cuối cùng.

    Vũ khí. Cô cần vài thứ vũ khí.

    Mẹ kiếp, cô có hai đứa trẻ trong nhà mà lại không giữ vũ khí nào quanh đây.

    Ngoại trừ những con dao. Cô là một đầu bếp. Cô có rất nhiều dao. Cô cũng có loại vũ khí của riêng phụ nữ, một cái chày cán bột. Được. Bất cứ thứ gì phát huy tác dụng.

    Giữ đèn pin chiếu xuống sàn để chùm sáng khó bị phát hiện, cô dễ dàng đi vào bếp, bước thẳng tới hộp đao, lôi ra con to nhất, con dao của bếp trưởng. Nó vừa vặn trong tay cô như một người bạn cũ.

    Lặng lẽ, cô di chuyển trở lại hành lang, nó nằm giữa ngôi nhà, đó là nơi cô bị giam giữ ít nhất, và là nơi cô có thể đi theo bất cứ hướng nào.

    Cô tắt đèn pin, đứng đó trong bóng tối, lắng nghe, chờ đợi. Cô đứng đó trong bao lâu chẳng hề quan trọng. Cô nghe thấy hơi thở khắc nghiệt của chính mình, cảm nhận nó hổn hển trong cổ họng. Đầu óc cô choáng váng. Cô cảm thấy trái tim chạy đua trong hoảng loạn, cảm giác tim đập va vào lồng ngực đến đau đớn. Không, cô không thể hoảng sợ - không được hoảng sợ. Hít lấy một hơi thở sâu, sâu như cô có thể, cô giữ nó, dùng nó bơm phồng hai lá phổi để ép vào trái tim mình, giữ lấy nó, buộc nó đập chậm lại. Đó là một thủ thuật cũ cô dùng trong lúc leo núi, bất cứ khi nào cô bắt gặp cơ thể phản ứng tự động áp đảo cả sự tập trung và kỷ luật của mình.

    Chậm lại … chậm lại … cô nghĩ đã tốt hơn … chậm hơn, chậm hơn … cô nhẹ nhàng thở ra, hít một hơi khác, kiểm soát lần nữa. Cảm giác chóng mặt giảm đi. Dù chuyện gì đang xảy ra, cô sẵn sàng đối mặt với nó bây giờ hơn hẳn một phút trước đây.

    Tiếng ngã uỵch trên hiên trước, nhanh và nặng nề, tay nắm cửa lắc dữ dội.

    “Cate! Em có sao không?”

    Cô bước lên trước một bước rồi đông cứng. Một người đàn ông. Cô không nhận ra được giọng nói. Cả Mellor và Huxley đều biết tên đầu của cô, vì cô đã giới thiệu với chúng.

    “Cate!”

    Toàn bộ cửa trước rung lên như có thứ gì đó đập mạnh vào nó, rồi lại đập mạnh nữa. Khuôn cửa dường như rên rỉ.

    “Cate, Cal đây! Trả lời tôi đi!”

    Thở phào nhẹ nhõm, và một tiếng kêu bật ra khỏi cô. Cô bắt đầu bước tới khi cánh cửa từ bỏ sức chống chịu, mở đánh rầm một cái khỏi chốt. Một ánh đèn pin đột nhiên quét qua mặt cô làm cô không nhìn thấy gì. Cô giơ một cánh tay lên che mắt, dừng lại một chút cố gắng để nhìn. Cô chỉ có thể phác họa hình ảnh một người đàn ông phía sau chùm sáng chói lóa, anh di chuyển nhanh, rất nhanh không cho cô rời khỏi lối của mình.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/6/15
  20. halucky

    halucky Lớp 11


    Chương 17 (halucky)

    NHƯ THỂ ĐỤNG PHẢI MỘT BỨC TƯỜNG. Cơ thể anh va vào người Cate với một lực đủ để đánh bay con dao khỏi tay cô, rơi loảng xoảng xuống hành lang. Chùm sáng từ đèn pin của anh nhấp nhô tới lui trước khi xoáy tròn sang bên. Cô lảo đảo lùi lại, vội vàng bám vào thứ gì đó, bất kể thứ gì để tránh khỏi ngã rồi cô phát hiện ra bản thân đang bám chặt vào một cái eo gầy gầy nhưng rắn chắc. Cô không thể ngã được, vì một vòng thép kẹp chặt quanh lưng cô, giữ cô dựa vào anh vững chãi.

    Một cảm giác phi thực sắc nét khiến cô lần nữa choáng váng khi thời gian sụp đổ, thế giới co lại thành một tâm điểm bé tí, giữ cô thăng bằng bên mép vách đá. Không có gì trong chuyện này là thực; không thể thế. Cô chỉ là Cate, một phụ nữ bình thường sống một cuộc sống bình thường; mọi người không bắn vào cô đâu.

    “Ổn rồi,” Cal thì thầm vào tóc cô. “Tôi có được em rồi.”

    Cô nghe thấy những từ ngữ, nhưng chúng không gây ra chút xúc cảm nào vì anh là một phần của toàn bộ sự không thực này. Đây không phải người đàn ông cô đã biết trong ba năm qua. Ông Harris sẽ không ôm cô thế này, không phá cửa nhà cô và băng qua sàn nhà như một anh chàng chiến binh báo thù phá cách, cầm khẩu súng săn trong một tay –

    Ngoại trừ anh.

    Cơ thể mà cô đang bám chặt vào, rắn chắc và cơ bắp, đang tỏa hơi nóng. Anh thở dốc, như thể vừa mới chạy, đầu anh cúi xuống ấn vào đầu cô. Và cái cách anh ôm cô – Cô đã không được ôm theo cách này trong một thời gian dài nên cô càng kinh ngạc xen lẫn hoài nghi. Ông Harris ư? Cal ư?

    Cơ thể cô thì thầm, vâng. Điều đó thậm chí còn bối rối hơn, nghiêng cô ngày càng xa khỏi thế cân bằng. Cô là kiểu người hư hỏng gì thế này, sao lại đi có phản ứng tình dục kỳ quặc với người đàn ông chăm chỉ khi toàn bộ cộng đồng rõ ràng đang làm bùi nhùi cho một cuộc tấn công? Có vẻ giống một cuộc chiến tranh ngoài kia, nhưng cô cảm thấy hai bọn họ được bao bọc bởi một hình nón nhỏ riêng tư mà không bị xâm phạm. Trong một khoảnh khắc vòng tay anh siết chặt, uốn cong cô lại gần hơn, vì thế cô cảm nhận được chỗ phình ra của bộ phận sinh dục của anh thúc tới, kiếm tìm … rồi anh buông cô, cúi xuống nhặt đèn pin.

    Cate đứng bất động, tuyệt vọng cố gắng đưa bản thân quay trở lại thời điểm chỉ nửa giờ trước khi mọi chuyện diễn ra, trước vụ nổ và những loạt đạn, và sự chuyển biến của tất cả những gì cô biết hay nghĩ rằng cô biết.

    Móc dây đeo khẩu súng săn qua vai, Cal cũng nhặt con dao cô đánh rơi lên, nghiên cứu lưỡi dao bản rộng với vẻ hài lòng không lay chuyển. Anh chĩa đèn pin xuống sàn nhà, chùm sáng mạnh mẽ dội lại đủ cho cô nhìn được anh, và lần nữa giác quan cô quay cuồng.

    Cô chưa từng nhìn anh mặc gì khác ngoài bộ áo liền quần rộng thùng thình, nhuốm đầy dầu mỡ, nước sơn, vết bẩn hay thứ gì khác anh mặc trong ngày làm việc bình thường. Cô đóng đinh anh vào tâm trí mình bằng hình ảnh một người đàn ông chăm chỉ gày gò, nhút nhát, lạc hậu nhưng hữu ích. Quan điểm đó bị lung lay khi cô nhìn thấy biểu hiện trong đôi mắt anh khi anh chĩa nòng súng săn vào Mellor, và giờ nó bị phá hủy mãi mãi.

    Anh vẫn đi đôi bốt thường ngày, nhưng chỉ đó thôi. Chiếc quần ka ki thắt chặt ở eo, và bất chấp thời tiết giá lạnh, anh chỉ mặc độc chiếc áo phông cổ tròn, thứ đang khoe bờ vai rộng và thân hình mảnh mai, rắn như đá tạc. Thậm chí chỉ với ánh sáng từ đèn pin cô nhìn thấy ánh mồ hôi trên cánh tay trần của anh, cánh tay gân guốc, mạnh mẽ. Mái tóc anh vẫn bù xù, nhưng không còn dấu hiệu e thẹn, giờ vẻ mặt đó kiên định đến khắc nghiệt.

    Cate khó mà thở nổi. Cô đang đứng trên mép vài bờ vực trong thâm tâm, cô sợ phải di chuyển, sợ cô sẽ … sẽ sao nhỉ? Cô không biết, nhưng cảm xúc của sự bất ổn làm cô lo sợ cũng nhiều như hàng loạt phát súng bên ngoài.

    Ai đó xuất hiện nơi ngưỡng cửa vừa bị phá hỏng, Cate ngạc nhiên ông ta cũng mang một khẩu súng hoặc súng săn, hoặc súng trường.

    “Cate không sao chứ?” ông ta hỏi, và Cate nhận ra giọng của Walter Earl.

    “Cháu ổn, Walter,” cô trả lời, bước lại phía cửa. “Milly thế nào? Có ai bị thương không?”

    “Milly đang ngồi trên bãi cỏ sau nhà cô. Theo tôi trốn ở nơi nào đó thấp là thông minh hơn cả, nên đó là nơi bà ấy đang ở. Mọi người đang kéo đến. Vài người nói đó là điều anh nhắc nhở làm, nên họ thực hiện theo. Có phải ở đây chúng ta đã thoát khỏi tầm đạn?”

    “Không,” Cal lên tiếng. “Dù sao, không phải với súng trường.”

    “Cửa sổ trong phòng cặp sinh đôi trúng đạn,” Cate nhẹ nhàng chỉ ra, và nỗi ghê sợ đánh vào cô lần nữa. Nếu chúng còn ở đây thì sao? Chúng sẽ sợ hãi lắm, có khả năng bị thương … cũng có thể chết. Trái tim cô ép lại trong đau đớn dù mới chỉ suy nghĩ.

    “Vậy chúng ta làm gì ở đây?” Walter hỏi.

    “Dựng lên càng nhiều càng tốt những tường chắn giữa ta và chúng, vì tôi khá chắc chúng có ống ngắm nhìn xuyên đêm hoặc bộ dò hồng ngoại. Hồng ngoại bị giới hạn trong phạm vi khoảng bốn trăm yard, nên ta cần vượt ra ngoài khoảng cách đó. Không thể dừng những viên đạn, nhưng ít nhất chúng sẽ bắn lung tung – rồi có thể chúng không muốn lãng phí đạn nữa.

    Cal đặt tay mình lên lưng Cate khi anh trả lời câu hỏi của Walter, giục cô ra ngoài. Ngay khi bước ra hàng hiên, cô dừng lại. Khoảng hai mươi hay ba mươi người đang ngồi trong sân sau nhà cô, phần lớn họ đang ngồi trên nền đất lạnh lẽo. Hầu hết đàn ông và một số phụ nữ mang vài loại vũ khí. Bóng tối bao trùm họ, khiến nhận thức của cô về ánh sáng tỏa ra từ những ô cửa sổ gần đấy trong đêm có gì đó thoải mái và thật an toàn.

    Cal thúc giục cô rời khỏi hiên nhà; rồi bàn tay anh đặt trên vai cô hướng cô xuống đất.

    “Nền đất vững chắc hơn tường,” anh nói bình tĩnh. “Bảo vệ tốt hơn.” Lên giọng, anh nói tiếp. “Mọi người, chúng ta cần tiết kiệm pin trong đèn pin. Tắt chúng đi. Ta chỉ cần một đến hai đèn thôi.”

    Nghe lời, mọi người xung quanh tắt đèn của họ, bóng tối gần như nuốt chửng tất cả. Cal để đèn pin của mình bật. Cate bắt đầu rùng mình khi không khí lạnh thấm qua bộ đồ ngủ vải flannel, cô thầm ước mình mặc áo khoác. Đâu đó trong bóng tối, cô nghe tiếng lầm bầm “Tôi lạnh quá,” nhưng không có lời phàn nàn chính thức nào.

    “Ngay bây giờ, chúng ta cần xác định hai việc,” Cal nói. “Ai mất tích và ai bị thương?”

    “Tôi thì muốn biết ai đang bắn chúng ta,” Milly giận dữ nói.

    “Giải quyết chuyện quan trọng trước. Ai không ở đây? Hãy tìm hàng xóm của mình. Creed tới nhà Neenah; có ai nhìn thấy họ không?”

    Một khoảng im lặng, rồi một giọng nói sau Cate cất lên, “Lanora ở ngay sau tôi khi chúng tôi cùng chạy, nhưng giờ tôi không nhìn thấy cô ấy.”

    Lanora Corbett sống trong ngôi nhà thứ hai tính từ cây cầu, phía bên trái.

    “Ai khác nữa?” Cal hỏi.

    Tiếng xì xào phát ra khi họ nhìn ngó xung quanh và điểm danh, những cái tên bắt đầu nổi lên: cặp đôi cao tuổi nhất, Roy Edward và vợ ông, Judith; gia đình Contreras, Mario, Gena, và Angelina; Norman Box; và những người khác. Một bàn tay lạnh ngắt bóp nghẹt trái tim Cate khi một tình thế kinh khủng bắt đầu len lỏi vào trong cô: Liệu cô còn nhìn thấy những con người này? Và Neenah. Ôi Neenah! Không. Cô không thể mất người bạn của mình. Cô tuyệt đối từ chối nghĩ về nó cho dù là một khả năng.

    “Được rồi,” cuối cùng Cal nói khi không còn cái tên nào được nhắc tới. “Cho tôi biết số lượng người, và ta sẽ biết tình hình của ta.”

    Anh chiếu ánh sáng xung quanh, lướt nhanh lên từng khuôn mặt, và trong từng khuôn mặt Cate nhìn thấy cùng một vẻ hòa trộn của nỗi kinh hoàng, nghi ngờ lẫn tức giận giống như của chính mình. Cô nhìn thấy mọi người dính vào nhau, co ro để cho thoải mái và ấm áp, lờ mờ cô bắt đầu nghĩ về những vấn đề thực tiễn: chăn đắp, áo khoác, những thứ khác cô có thể lấy từ nhà. Cà phê sẽ rất hấp dẫn nhưng điện đã mất. Mặt khác, cô có một bếp ga … Suy nghĩ thật mất thời gian, nhưng ít nhất sự mê mụ đang bắt đầu qua đi.

    “Có ai bị thương không?” Cal hỏi lần nữa, sau khi anh kiểm đếm chính xác những nhóm người trong sân nhà Cate. “Tôi không nói đến những mắt cá chân bong gân hay một đầu gối bị xước. Có ai trúng đạn? Hay chảy máu không?”

    “Cậu đấy,” Sherry Bishop chỉ ra với một chút chanh chua.

    Đầu Cate giật mạnh. Cal bị thương ư? Sốc, cô nhìn chằm chằm vào anh khi anh chìa tay ra, nhìn xuống kiểm tra bản thân, như thể anh không biết Sherry đang nói về chuyện gì.

    “Đâu?” anh hỏi.

    Cate nhận ra những vết đỏ - đen trên cánh tay anh.

    “Tay anh,” Cate nói, bắt đầu đứng dậy.

    Trong giây lát anh đến bên cô, bàn tay anh đặt lên vai cô, ấn cô ngồi xuống.

    “Thấp xuống,” anh nhắc nhở bằng một tông giọng nhỏ, ý định chỉ cô nghe được. “Tôi ổn mà, chỉ là vài vết kính cắt vào.”

    Với cô, những vết cắt nên được chăm sóc, không quan trọng cái gì gây nên. Còn nếu ngồi an toàn hơn đứng thì tại sao anh không ngồi?

    “Nếu anh không ngồi,” cô nói với cùng tông giọng cô dùng với bọn trẻ, “thì tôi sẽ đứng. Lựa chọn của anh.”

    “Tôi không thể ngồi, tôi có vài việc phải làm trước – “

    “Ngồi xuống.”

    Anh ngồi.

    Cate quỳ xuống, di chuyển tới sau anh.

    “Sherry, cô tới đây giúp cháu được không? Giữ đèn để cháu xem các vết cắt thế nào. Và cháu cần băng quấn từ --“

    “Hộp sơ cứu của tôi ở trên hiên,” anh nói. “Tôi đánh rơi nó ở đó.”

    “Ai đó làm ơn lấy nó dùm.” Cate nâng giọng lên một chút, và Walter nhận lời.

    “Cúi thấp xuống,” Cal thêm vào. Walter răm rắp cúi xuống đến thắt lưng.

    Lưng áo phông của Cal ẩm ướt và nhớp nháp. Sherry cầm lấy đèn pin của Cal, chĩa nó vào anh khi Cate cuốn áo lên. Máu đang trào ra khỏi những vết châm kim và một vết cắt lớn trên bắp thịt đằng sau cánh tay phải và một vết khác ngang đỉnh vai trái anh. Cô kéo áo phông qua đầu anh để nó treo trên cánh tay anh, toàn bộ lưng anh để trần.

    Walter đến với chiếc hộp, lật cái chốt, mở nắp ra để lộ các ngăn đầy dụng cụ sơ cứu. Sherry chuyển chùm sáng sang chiếc hộp, cho phép Cate chọn các cuộn khăn khử trùng được đóng gói riêng biệt. Cate xé một vỏ bao, lôi ra chiếc khăn kích thước bốn nhân sáu inch, bắt đầu lau chùi.

    “Cháu không biết làm gì nếu những vết cắt lớn này cần được khâu,” cô lẩm bẩm với Sherry.

    “Tôi có chỉ khâu trong hộp,” Cal nói, cố gắng quay đầu lại để đánh giá thiệt hại của bản thân.

    Ahnt!”

    Cô tạo ra một âm thanh cảnh báo không lời – đặc trưng của một người mẹ, nên anh cứng người, cẩn thận hướng mặt về phía trước.

    Im lặng, cô làm sạch vết thương, ấn những miếng gạc lên vết cắt sâu nhất. Máu thấm qua giữ chúng tại chỗ, cho phép cô bôi thuốc mỡ lên những vết cắt nhỏ hơn và phủ lên chúng những miếng băng dính. Da anh lạnh và ẩm ướt bên dưới bàn tay cô, nhắc cô nhớ rằng, anh không mặc gì nhiều hơn một áo phông và quần vải thô trong đêm lạnh giá này, anh đã đổ mồ hôi – và giờ cô đang lau lưng anh bằng khăn ướt. Anh hẳn đóng băng mất, nhưng bằng cách nào đó anh vẫn cố giữ.

    “Anh ấy cần gì đó để mặc,” cô nói khẽ với Sherry.

    “Không sao đâu,” anh nói qua vai mình.

    Cate cảm giác thứ gì đó đang trào dâng trong cô, vài bong bóng cảm xúc khổng lồ dường như làm cô nghẹn thở.

    “Không, Calvin Harris, nó không ổn!” cô nói dữ dội. “Không ổn tí nào khi anh chạy trong đêm tối lạnh với nửa thân mình ở trần và những vết thương. Chúng ta sẽ tìm thấy vài thứ cho anh mặc, và sẽ là thế.”

    Nhiều chuyện xảy ra trong đêm đó đang tồi tệ hơn, cô không thể làm gì để ngăn chặn. Tuy nhiên, cô sẽ bị nguyền rủa nếu để Cal di chuyển mà không có áo khoác hay ít nhất là một chiếc áo sơ mi.

    Anh im lặng lần nữa, nên cô băn khoăn liệu mình có mất trí không. Vụ việc đang vượt khỏi tâm điểm lần nữa, đến nỗi những điều nhỏ nhặt dường như cực kỳ quan trọng còn những chuyện lớn lao đang nhạt đi làm nền. Cô nhìn vào tấm lưng dài khỏe mạnh của anh, đường xẻ rãnh của xương sống và những múi cơ mà muốn rơi nước mắt. Thay vào đó, cô hít một hơi thật sâu, tập trung làm sạch hai vết cắt sâu. Chúng vẫn rỉ ra một chút máu, nhưng đó là tất cả. Cô bôi kháng sinh lên chúng, rồi giữ hai mép lại với nhau bằng một tay trong khi tay kia dán một hàng băng bướm lên mỗi vết cắt. Khi cô kết thúc, vết cắt không còn há miệng nữa. Có lẽ chúng không cần phải khâu, vì chúng không phải những vết cắt thực sự dài và sâu, nhưng cô không muốn để mất cơ hội.

    “Đó là điều tốt nhất tôi làm được,” cuối cùng cô nói, sắp xếp lại hộp sơ cứu như ban đầu, thu thập các khăn lau bẩn và vỏ bao cô đã vứt trên mặt đất. Cô ngập ngừng, không biết phải làm gì với nắm rác mình vừa gom được, nên đành thả rơi trở lại mặt đất. Cô sẽ lo lắng tới vấn đề ngăn nắp sau.

    Cal bắt đầu lên giọng thì cô đặt bàn tay lên vai phải của anh, giữ anh ngồi yên.

    “Cal cần thứ gì đó để mặc,” cô nói to với mọi người đang tụ tập trên sân cỏ. “Áo sơ mi, áo khoác hay bất cứ thứ gì. Có ai dư cái nào không?” Rồi cô thêm vào. “Tôi sẽ vào nhà lấy chăn, nên chúng ta sẽ ấm hơn.”

    “Tại sao chúng ta không vào trong?” Milly hỏi, giọng bà run run vì lạnh.

    “Nhà Cate có lẽ quá gần các đợt tấn công,” Cal trả lời. “Có những ngôi nhà khác ở xa hơn khỏi đường đạn. Tôi cho rằng chúng ta an toàn ở đấy, dù tôi không chắc lắm. Một viên đạn đường kính lớn có thể xuyên qua ngôi nhà trừ khi nó trúng phải vài thứ như một tủ lạnh để cản nó lại. Tôi sẽ kiểm tra khoảng cách trong ánh sáng ban ngày. Cho tới lúc đó, chúng ta cần tránh xa, dựng lên nhiều vật cản hơn giữa ta và những tay súng. Cám ơn,” anh thêm vào khi một chiếc áo sơ mi vải flannel được ném tới anh. Cate không nhìn ra người quyên góp nó. Cal nhanh chóng mặc nó vào và cài cúc; anh đang run.

    “Tủ quần áo ở bên trong phía cửa trước, bên phải,” cô nói với anh. “Tôi có vài áo khoác treo ở đó, và một tủ vải với nhiều chăn ở bên này phòng giặt. Tôi sẽ vào trong, thu thập mọi thứ và trở ra đây chưa đầy một phút.”

    “Để cho tôi,” anh kiên quyết nói, quay lại hiên nhà.

    Cate dừng anh lại bằng một bàn tay đặt lên cánh tay anh.

    “Anh không thể làm mọi việc. Đi tìm Creed và Neenah đi, còn nhiều việc khác. Tôi sẽ đi lấy chăn và áo khoác. Chúng ta nên đi tới đâu, anh là người biết rõ nhất?”

    Trong một khoảnh khắc cô nghĩ anh sẽ phản đối, rồi anh nói, “Kéo tất cả tới chỗ của Richardson,” ngôi nhà xa nhất tính từ cây cầu. “Những phát đạn đến từ ít nhất ba vị trí riêng biệt, nên chúng có những góc bắn khác nhau. Cúi thấp xuống, cố gắng giữ vài vật chắn giữa mình và dãy núi, từ chỗ cây cầu đến hẻm núi. Rõ cả chứ?” Anh nâng giọng để nói với tất cả mọi người, không chỉ riêng Cate.

    “Vâng.” Hơi thở cô như làn khói treo xung quanh hai người.

    “Nếu mọi người phải vượt qua một khoảng trống, hãy làm nó thật nhanh. Đừng xếp thành hàng hay chạy theo cùng đường giống nhau, lựa chọn thời điểm, mọi điều có thể. Nếu được, hãy tắt đèn pin; nó chỉ lộ ra vị trí của mọi người một khi ở khoảng trống.”

    Những cái đầu gật gật trong bóng tối.

    “Anh sẽ đi bao lâu?”

    Cate hỏi, cố gắng giữ giọng mình khỏi lo âu. Cô không muốn anh một mình bước vào đêm tối, mặc dù cô hiểu họ cần biết chuyện gì đang diễn ra. Và anh có vũ khí; anh không trơ trọi.

    “Tôi không biết. Tôi không biết sẽ tìm thấy gì.” Anh quay đầu lại, nhìn vào cô trong bóng tối, rất lâu, ánh mắt tĩnh lặng hiệu nghiệm như một sự động chạm. “Nhưng tôi sẽ quay về. Hãy tin thế.”

    Rồi anh rời đi, tan vào màn đêm chỉ bằng vài bước.
     
    Chỉnh sửa cuối: 23/6/15

Chia sẻ trang này