Đang dịch Truyện Thủy Hử (水浒传)

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Hoa' bắt đầu bởi sadec2, 15/6/25 lúc 04:14.

  1. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    [​IMG]

    Tên tác phẩm: Truyện Thủy Hử (水浒传)

    Nguyên tác: Thi Nại Am (施耐庵) và La Quán Trung (罗贯中)

    Cải biên: Mậu Minh Sanh (缪萌笙)

    Tác phẩm đã được Mậu Minh Sanh cải biên (rút gọn và đơn giản hóa) nhằm phục vụ cho đối tượng học sinh. Chính vì vậy tác phẩm rất dễ đọc và ... dễ dịch!

    Người dịch: Sadec2

    Tình trạng: Đang dịch

    Phân loại: G

    [​IMG]

    Thủy Hử Truyện vốn được cho là do hai tác giả – Thi Nại Am (1296? – 1370?) và La Quán Trung (1330? – 1400?) – nối tiếp nhau chắp bút, chỉnh lý từ các thoại bản của giới kể chuyện dân gian. Câu chuyện thuật lại hành trình của 108 vị anh hùng thời cuối đời Bắc Tống, tụ nghĩa trên Lương Sơn Bạc. Dưới ngọn cờ “Thay trời hành đạo”, họ chống lại bọn quan lại tham tàn và cường hào ác bá, để lại vô số kỳ tích truyền tụng trong dân gian. Thủy Hử Truyện là một trong những kiệt tác tiểu thuyết cổ điển của Trung Hoa, với nhiều dị bản lưu truyền qua các đời.
     
    Soennn thích bài này.
  2. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Sự thăng tiến của Cao Cầu (高俅发迹)

    Thời Tống Anh Tông – hoàng đế thứ năm, rồi Tống Thần Tông – hoàng đế thứ sáu, giang sơn vẫn còn yên ổn. Nhưng đến đời Tống Triết Tông – hoàng đế thứ bảy, các danh thần như Vương An Thạch, Tư Mã Quang lần lượt qua đời, quyền thần lộng hành, triều chính rối ren.

    Lúc ấy, tại kinh thành có một thanh niên lêu lổng tên là Cao Cầu, ngày ngày chỉ lo ăn chơi cờ bạc, lêu lổng rong chơi. Tuy vậy, hắn cũng có một sở trường – chính là tài đá cầu. Môn đá cầu khi ấy rất thịnh hành trong giới quý tộc thượng lưu, cũng giống như môn cầu lông hay bóng đá thời nay.

    Một hôm, Cao Cầu thay mặt cho một vị ưa thích ăn chơi cờ bạc và rượu chè, mang lễ vật đến phủ Đoạn Vương – em trai của Triết Tông hoàng đế. Vừa vào đến sân, thấy Đoạn Vương đang đá cầu, Cao Cầu không dám quấy rầy, chỉ đứng im lặng bên ngoài chờ đợi. Bất ngờ quả cầu từ chân Đoạn Vương đá lệch sang phía hắn, Cao Cầu liền giơ chân đón lấy, dùng một động tác hết sức đẹp mắt đá trả về.

    “Hay lắm!”

    Đoạn Vương reo lên một tiếng, phấn khởi nói:

    “Thân thủ thật tuyệt! Mau lại đây, cùng ta chơi một trận!”

    Thế là Cao Cầu có dịp thi thố tài nghệ trước mặt Đoạn Vương. Đoạn Vương xem càng lâu càng hứng thú, liền yêu cầu vị tướng kia cho giữ Cao Cầu lại bên mình.

    Từ đó, Cao Cầu được Đoạn Vương yêu quý, ngày đêm kề cận không rời. Sau khi Triết Tông băng hà, vì không có thái tử kế vị, Đoạn Vương được tôn lên ngôi hoàng đế, tức là Tống Huy Tông – hoàng đế thứ tám của triều Tống.

    Tống Huy Tông là một họa sĩ tài hoa, có thể xem là bậc nghệ nhân bậc nhất đương thời, nhưng tiếc thay không phải là bậc minh quân trị quốc. Khi ấy, nước Kim ở phương Bắc đã lăm le xâm lược Trung Nguyên, vậy mà Huy Tông vẫn mải mê yến tiệc, say mê sưu tầm cổ vật, xây dựng cung điện lộng lẫy, sống cuộc đời nhàn nhã khoái lạc.

    Cao Cầu, nhờ được hoàng đế sủng ái, cũng một bước lên mây. Hắn được phong làm Thái úy – người đứng đầu Cấm quân, lại làm tới Chỉ huy trưởng đội thị vệ. Từ đó không những ngày đêm chè chén hoang lạc, mà còn trở nên hống hách ngang ngược, khiến thuộc hạ dưới quyền đều khổ không kể xiết.

    “Mình làm Chỉ huy trưởng lâu như vậy rồi, thế mà tên Vương Tiến kia chẳng thèm đến chúc mừng, bảo là đang bệnh, chắc là giả bộ!”

    Cao Cầu tức tối nói.

    Vương Tiến vốn là một võ sư, giữ chức tướng lãnh trong Cấm quân, nổi danh với tài sử dụng gậy. Khi xưa, Cao Cầu từng theo học gậy với Vương Tiến, không ít lần bị ông đánh đòn vì không chịu luyện tập tử tế, từ đó trong lòng ôm hận mãi không nguôi.

    Vương Tiến đang dưỡng bệnh mà vẫn phải vào cung diện kiến. Cao Cầu thừa cơ hạ lệnh:

    “Đánh cho hắn một trận ra trò!”

    Nhưng đa phần tướng sĩ trong Cấm quân từng là học trò của Vương Tiến, nên đều cầu xin thay cho ông. Nhờ thế, Vương Tiến mới thoát khỏi kiếp nạn.

    Về đến nhà, ông thở dài:

    “Cao Cầu nay đã quyền cao chức trọng, là thượng cấp của ta rồi. Từ nay, chắc chắn không còn ngày lành tháng tốt nữa…”

    Vương Tiến rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan, bèn bàn bạc với mẹ. Bà mẹ nói:

    “Người xưa có câu: ‘Ba mươi sáu kế, chuồn là thượng sách’. Con hãy lánh đi nơi xa thì hơn.”

    Nghe theo lời mẹ, Vương Tiến nói:

    “Vậy con sẽ đến Diên An tìm người học trò cũ, nó đang chiêu mộ nghĩa sĩ để luyện gậy ở đó.”

    Mọi việc đã định, đêm ấy ông thu xếp hành trang, lặng lẽ đưa mẹ rời khỏi nhà. Mãi đến vài ngày sau, Cao Cầu mới phát giác thì Vương Tiến đã cao chạy xa bay, không còn cách nào đuổi theo kịp nữa.
     
  3. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Tai họa ở trang ấp họ Sử (史家庄的祸事)

    Một tháng sau khi rời khỏi kinh thành, Vương Tiến đã lánh đến vùng gần Diên An. Hôm đó, ông đi mải miết trên cánh đồng hoang, hết bước này đến bước khác, trước mắt vẫn chỉ là hoang dã mịt mùng, chẳng thấy một mái nhà nào để trú nhờ. Lúc ông định tìm một nơi tạm bợ để qua đêm, thì chợt thấy xa xa le lói một ánh đèn.

    Đó là trang ấp của họ Sử. Chủ nhà tỏ ra vui vẻ, niềm nở cho mẹ con Vương Tiến tá túc. Ban đầu, ông chỉ định nghỉ lại một đêm, hôm sau sẽ lên đường sớm. Nào ngờ mẹ ông vì đường xa mỏi mệt, toàn thân đau nhức, không thể tiếp tục di chuyển.

    Lão chủ nhân hiền hậu nói:

    “Đừng vội, để lão phu nhân dưỡng sức cho lành đã rồi hãy đi!”

    Vì lo cho mẹ, Vương Tiến đành lưu lại thêm vài ngày.

    Một hôm, ông trông thấy trong sân có một thanh niên đang múa côn. Côn pháp vốn là sở trường của Vương Tiến, nên ông đứng nhìn một hồi, rồi không kìm được mà lên tiếng:

    “Tuyệt lắm! Nhưng vẫn còn vài chỗ chưa ổn!”

    Người thanh niên vừa nghe xong liền nổi giận:

    “Hừ! Ta theo danh sư học bao năm nay, ngươi dám chê ta kém cỏi? Được, ra thử xem ai hơn ai!”

    Thanh niên đó là Sử Tiến, công tử của nhà họ Sử.

    Lão chủ vừa ra tới, thấy vậy vội vàng can ngăn, nhưng Sử Tiến nhất quyết đòi tỷ thí. Vương Tiến không thể từ chối, bèn nói:

    “Được thôi! Lão phu xin phụng bồi thiếu gia một trận!”

    Nhưng côn pháp của Sử Tiến sao địch nổi cao thủ như Vương Tiến? Chỉ mấy hiệp đã bị đánh rơi côn, ngã lăn quay dưới đất.

    Sử Tiến đứng dậy, dõng dạc nói:

    “Ta thua rồi! Quả thực ngươi là tay cao thủ, xin hãy nhận ta làm đệ tử!”

    Tính tình nóng nảy, nhưng Sử Tiến vô cùng khâm phục tài nghệ của Vương Tiến. Vương Tiến, vì cảm kích lòng hiếu khách của chủ nhà, bèn tận tâm dạy dỗ Sử Tiến luyện côn pháp.

    Nửa năm trôi qua, thấy đồ đệ đã thành thạo, Vương Tiến cáo biệt trang ấp họ Sử, lên đường đi Diên An phủ.

    Sau khi thầy rời đi, Sử Tiến ngày ngày khổ luyện cưỡi ngựa, bắn cung, côn quyền, trở thành một tay võ nghệ tuyệt luân. Chẳng bao lâu sau, cha chàng bệnh nặng qua đời. Không còn ai quản thúc, Sử Tiến giao hết ruộng vườn cho tá điền, bản thân chỉ lo chuyên tâm luyện võ.

    Một năm kia, đang ngồi dưới gốc liễu hóng mát, thì thợ săn Lý Cát đi ngang qua.

    Sử Tiến hỏi:

    “Này Lý Cát, dạo này sao không thấy mang thú rừng đến bán nữa? Hay sợ ta không trả tiền chăng?”

    Lý Cát đáp:

    “Sao lại vậy! Chỉ là dạo này có bọn sơn tặc chiếm núi Thiếu Hoa, không thể vào rừng săn được!”

    Sử Tiến hỏi:

    “Ta nghe về bọn đó rồi. Chúng lợi hại đến thế sao?”

    Lý Cát nói:

    “Có đến năm sáu trăm tên! Đứng đầu là quân sư Chu Vũ, thứ hai là Hổ Yêu, thứ ba là Bạch Xà Dương Xuân. Huyện nha có treo thưởng truy bắt, nhưng ai dám động đến chúng!”

    Lý Cát vừa đi, Sử Tiến liền nghĩ:

    “Lũ sơn tặc hung hãn như vậy, lỡ một ngày kéo tới cướp phá trang ta thì sao? Chi bằng triệu tập trai tráng trong làng, luyện tập đao thương côn pháp để phòng bị trước.”

    Đúng lúc trang ấp họ Sử đang gia cố phòng thủ, thì sơn tặc núi Thiếu Hoa quả nhiên kéo tới. Chúng biết rõ Sử Tiến chẳng dễ đối phó, nhưng muốn đánh chiếm huyện Hoa Âm, thì trang họ Sử là con đường buộc phải đi qua. Đành phải liều một phen.

    Thủ lĩnh thứ hai, Trần Đạt, dẫn theo hơn trăm quân cưỡi ngựa phóng tới, lớn tiếng kêu gọi:

    “Nếu các người cho chúng ta mượn đường, nhất định không động đến một cọng cỏ, một viên đá của trang này. Khi trở về còn xin dâng tặng hậu lễ!”

    Sử Tiến quát lại:

    “Lũ sơn tặc to gan! Trên đầu các ngươi đều có thưởng, vậy mà vẫn dám đến đây quấy nhiễu!”

    Lời qua tiếng lại, côn pháp của Sử Tiến đụng độ thương pháp của Trần Đạt. Trong trận đấu, Sử Tiến cố tình để lộ sơ hở, Trần Đạt liền lao vào. Nào ngờ Sử Tiến nghiêng mình tránh thoát, nắm cổ Trần Đạt, nhấc bổng rồi quật xuống đất.

    Dân làng thấy vậy liền xông tới, trói chặt Trần Đạt.

    Trong lúc ấy, Chu Vũ và Dương Xuân đang ở sơn trại chờ tin chiến sự, bỗng thấy một tên lâu la chạy về thở hổn hển:

    “Sử Tiến bắt sống thủ lĩnh của ta rồi!”

    Hai người mặt tái mét, không biết tính sao. Dương Xuân nói:

    “Ta đã bảo không nên dây vào Sử gia trang, ngươi không nghe, giờ mới thành ra thế này!”

    Chu Vũ trầm ngâm một lát, nói:

    “Còn một cách có thể cứu được nhị đệ, nhưng nếu thất bại thì cả hai ta đều bỏ mạng!”

    Chu Vũ ghé tai Dương Xuân, thì thầm bàn bạc. Kế hoạch định xong, hai người cùng xuống núi, tới trước cổng nhà họ Sử, quỳ xuống khóc lóc nói:

    “Chúng tôi vì bị quan lại áp bức mới phải lên núi làm giặc. Ba người chúng tôi từng thề sống chết có nhau. Giờ xin người cứ giữ Trần Đạt, chúng tôi tới đây để chịu chết cùng huynh đệ!”

    Sử Tiến là người nghĩa khí, nghe lời ấy động lòng. Chàng thầm nghĩ:

    “Nếu đem nộp họ lấy thưởng, há chẳng tổn đức tổn tâm sao?”

    Thế là chàng tự tay cởi trói cho Trần Đạt, thả họ đi. Từ đó, Sử Tiến và bọn núi Thiếu Hoa kết giao thân thiết.

    Một lần, Sử Tiến gửi thư cho họ, chẳng ngờ bức thư rơi vào tay Lý Cát. Lý Cát vốn là hạng tiểu nhân, tham tiền thưởng, liền âm thầm đi tố cáo.

    Đêm nọ, khi Sử Tiến cùng ba đầu lĩnh đang uống rượu thưởng trăng trong sân, thì quân huyện Hoa Âm bất ngờ bao vây trang ấp.

    Sử Tiến trèo lên nhìn, hỏi viên tướng chỉ huy:

    “Xảy ra chuyện gì thế?”

    Tướng đáp:

    “Hừ! Ngươi còn giả vờ sao? Mọi chuyện Lý Cát đều đã khai cả rồi!”

    Lúc này, Sử Tiến mới biết đại sự bất ổn. Chàng nói:

    “Xin chờ một chút! Ta sẽ trói bọn sơn tặc giao nộp cho các ngươi!”

    Đám binh lính vốn nghe danh Sử Tiến từ lâu, nên chẳng dám mạo muội xông vào. Nhân lúc đó, Sử Tiến châm lửa đốt đống cỏ khô, cùng Chu Vũ và hai người kia xông ra vòng vây. Vừa trông thấy Lý Cát lẩn trong đám quân, Sử Tiến hét lớn:

    “Lý Cát! Ngươi dám bán đứng ta!”

    Lý Cát toan bỏ chạy, nhưng bị Sử Tiến chém chết tại chỗ. Viên tướng chỉ huy cũng bỏ mạng dưới đao Trần Đạt, đám binh sĩ còn lại sợ hãi bỏ chạy tán loạn.

    Từ đó, Sử Tiến bị cuốn vào vòng xoáy, không còn đường lui, đành lên núi Thiếu Hoa. Nhưng trong lòng chàng vẫn canh cánh không muốn làm giặc, nên chẳng bao lâu sau, bỏ lại mọi lời giữ chân của ba đầu lĩnh, một mình xuống núi đi tìm sư phụ Vương Tiến.
     
  4. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Lỗ Đạt đấm chết Trịnh Đồ (鲁达拳打郑屠)

    Sử Tiến đi suốt nửa tháng trời, đến được phủ Vị Châu. Một ngày nọ, chàng ghé vào một quán trà nghỉ chân, tiện thể dò la tin tức về Vương Tiến. Bên cạnh có một hán tử lực lưỡng, xưng tên là Lỗ Đạt, là người trông coi an ninh trật tự tại khu phố này. Lỗ Đạt nói:

    — Ta biết Vương Tiến hiện đang ở Yên An. Xin hỏi huynh đài quý tính đại danh?

    — Ta là Sử Tiến, người huyện Hoa Âm.

    — Ồ! Ngưỡng mộ đại danh đã lâu! Nào, cùng nhau uống vài chén nhé!

    Anh hùng trọng anh hùng, gặp nhau dường như muộn màng, vừa trò chuyện đã tâm đầu ý hợp, như bạn cũ thâm giao mười mấy năm. Khi đang uống rượu rất cao hứng, bỗng nghe từ phòng bên cạnh vẳng ra tiếng phụ nữ khóc lóc thảm thiết.

    — Có chuyện gì vậy?

    — Dường như là có uất ức gì đó, gọi qua hỏi thử xem!

    Họ gọi người kia qua, thì thấy là một ông lão và con gái. Cô gái khóc nức nở, nghẹn ngào kể:

    — Cha con thiếp đến đây để nương nhờ thân thích, nhưng không ngờ họ đã dời về Nam Kinh. Mẫu thân lại bất ngờ lâm bệnh qua đời, chỉ còn hai cha con nương tựa nhau sống qua ngày. Lúc ấy, quan nhân họ Trịnh cho chúng thiếp vay mười lạng bạc, nhưng hắn ỷ thế hiếp người, bắt ép viết giấy vay thành một trăm lạng. Từ đó cứ cách ngày lại đến đòi lãi một trăm lạng bạc. Thiếp chỉ là kẻ ca hát kiếm sống qua ngày, sao có thể lấy đâu ra một trăm lạng mà trả? Mỗi lần nghĩ đến đây, cha con thiếp chỉ biết đau xót rơi lệ. Quấy rầy hai vị đại gia, xin thứ lỗi!

    — Hừ! Tên họ Trịnh đó có phải là đồ tể bán thịt Trịnh Đồ không? — Lỗ Đạt tức giận quát lớn. Loại chuyện bất công thế này, y xưa nay chưa từng nể nang — Được! Ta sẽ đòi lại công bằng cho hai người!

    Nói đoạn, y lao đi như gió, nhưng chưa được bao xa đã quay trở lại, như chợt nhớ ra điều gì. Lập tức móc ra một nắm tiền đặt trước mặt hai cha con:

    — Hai người hãy mang số tiền này, đi thật xa lánh nạn!

    Sử Tiến thấy vậy cũng bỏ thêm ít tiền cho họ. Không lâu sau, Lỗ Đạt đã đứng trước quầy thịt của Trịnh Đồ.

    — Này! Cắt cho ta một phần thịt thượng hạng, phải thật mỏng, đủ phần cho hai mươi người. Quan nha bên ta cần dùng, ngươi phải đích thân làm, không được nhờ ai khác!

    Lỗ Đạt quát lớn. Trịnh Đồ đành phải tự tay thái thịt, mất rất nhiều thời gian mới xong. Lỗ Đạt lại nói:

    — Thêm hai mươi phần nữa, lần này là thịt mỡ!

    Trịnh Đồ cắn răng băm tiếp, vừa xong thì Lỗ Đạt lại nói:

    — Giờ lấy thêm hai mươi phần sụn mềm, cũng phải thái cho thật kỹ!

    Trịnh Đồ lẳng lặng thái thịt, lúc này mới nhận ra đối phương cố tình gây sự.

    — Hừ! Ngươi đang muốn gây chuyện với ta đấy à?

    Lỗ Đạt bỗng đứng bật dậy, cầm hai gói thịt băm ném mạnh vào người Trịnh Đồ. Hắn bị thịt dính đầy đầu mặt, giận dữ vung dao chém tới. Nhưng Lỗ Đạt nghiêng người né tránh, chụp lấy tay hắn, nhấc chân trái đá mạnh một cú. Trịnh Đồ bị đá văng ra giữa đường, chân tay chổng lên trời. Lỗ Đạt liền vung thiết quyền, đấm ba cú, Trịnh Đồ miệng phun máu tươi, chết ngay tại chỗ.

    — Hừ! Ta chỉ định cho hắn một trận nhớ đời, không ngờ hắn yếu như vậy, đánh mấy cái đã toi mạng. Rắc rối rồi đây!

    Nghĩ vậy, Lỗ Đạt liền vội vã quay về thu xếp hành lý, bỏ trốn đến nơi khác.
     
  5. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Lỗ Trí Thâm đại náo Ngũ Đài Sơn (鲁智深大闹五台山)

    Băng qua mấy ngôi làng, vượt sông Hoàng Hà, Lỗ Đạt đến được Đại Châu – nơi phố phường phồn hoa, náo nhiệt.

    Vừa tới đầu phố, y trông thấy trước mặt có đám đông đang vây quanh một tờ cáo thị, liền bước tới xem thử, bất giác giật mình kinh hãi. Trên bảng viết rõ ràng:

    "Nếu phát hiện hung phạm giết người: Lỗ Đạt, lập tức trình báo nha môn gần nhất."

    Lỗ Đạt hoảng hốt toan bỏ đi thì chợt nghe có người gọi:

    “Trương tiên sinh! Lâu quá không gặp, mời ngài ghé nhà tôi chơi một lát!”

    Ngoảnh đầu nhìn lại, thì ra là ông lão Kim – người từng được y cứu giúp ở Vệ Châu. Ông kéo Lỗ Đạt vào một góc khuất rồi kể lại tình hình gần đây.

    Thì ra, con gái lão gần đây gặp vận may, được gả làm thiếp cho một nhà phú hộ ở Đại Châu, cuộc sống hiện giờ rất sung túc. Lỗ Đạt bèn theo ông về nhà của con rể là Triệu tiên sinh.

    Năm sáu ngày trôi qua bình yên. Bỗng một hôm, ông lão Kim từ ngoài hớt hải chạy về, hốt hoảng nói:

    “Quan phủ dường như đã phát hiện ra rồi!”

    Lỗ Đạt không muốn liên lụy người khác, lập tức định rời đi. Nhưng Triệu tiên sinh ngăn lại:

    “Ngài đi thế này e là nguy hiểm. Tôi có cách giúp, chỉ không rõ ngài có đồng ý không?”

    “Chà, giờ còn nói gì chuyện đồng ý hay không nữa!”

    “Vậy tôi xin nói. Gần đây có núi Ngũ Đài, trên núi có ngôi cổ tự nổi tiếng, trong chùa có năm sáu trăm vị tăng. Tôi có quen trụ trì ở đó, không biết ngài có chịu xuống tóc làm hòa thượng không?”

    “Hề, cũng là cách hay!”

    Sau khi bàn bạc xong, đêm ấy Lỗ Đạt chuẩn bị hành lý, sáng hôm sau ngồi kiệu lên đường đến Ngũ Đài Sơn.

    Trụ trì của chùa là đại sư Trí Chân, đặt cho Lỗ Đạt pháp hiệu là Trí Thâm.

    Lỗ Trí Thâm ở chùa được bốn, năm tháng, nhưng thế nào cũng chẳng giống hòa thượng. Khi các sư huynh ngồi thiền, y lại lẻn đi ngủ trưa; tăng chúng kiêng thịt, y suốt ngày nhắc chuyện ăn cá, ăn thịt, uống rượu.

    Các sư huynh đều bất bình, lần lượt đến cầu xin sư phụ giáo huấn. Nhưng Trí Chân đại sư chỉ nói:

    “Lỗ Trí Thâm tuy thô lỗ, nhưng thiên tính thiện lương, sau này át sẽ giác ngộ, trở thành một vị tăng tốt.”

    Vì thế, không ít tăng nhân cho rằng trụ trì thiên vị Trí Thâm.

    Một ngày nọ, Trí Thâm lại thèm rượu, bèn lén xuống núi. Đúng lúc gặp người gánh rượu đi tới, y sải bước đến:

    “Này! Bán hết số rượu này cho ta!”

    “Không được! Rượu này không thể bán cho hòa thượng. Nếu để trụ trì biết thì phiền lắm!”

    “Ta không khiến ngươi gặp rắc rối đâu, tiền vẫn trả đủ.”

    “Ngươi có giết ta, ta cũng không bán!”

    “Đồ đáng ghét!”

    Lỗ Trí Thâm nổi giận, tung một cước vào bụng người kia. Trong khi gã ôm bụng rên rỉ, Trí Thâm đã uống cạn sạch rượu trong thùng.

    “Mai đến lấy tiền!”

    Người gánh rượu biết rõ, nếu chuyện bán rượu cho hòa thượng bị trụ trì hay tin, thì về sau chẳng thể lên núi được nữa, đành vội vàng gánh thùng rượu trống xuống núi.

    Trí Thâm lảo đảo trở về cổng chùa, bị tăng canh cửa nghiêm giọng quát:

    “Phá giới uống rượu sẽ bị đánh bốn mươi trượng rồi trục xuất! Kẻ gác cổng nếu để hòa thượng say rượu vào chùa, cũng bị đánh mười trượng! Mau đi khỏi đây!”

    “Đứa nào dám đánh ta?”

    Lỗ Trí Thâm chẳng nể nang gì, tát cho người giữ cổng một cái lật mặt. Hai ba chục tăng nhân ùa ra định bắt y, nhưng thấy y sức mạnh như trâu, ai nấy đều sợ hãi lùi lại. Đúng lúc đó, trụ trì bước ra:

    “Trí Thâm, đừng làm càn!”

    Trí Thâm tuy hung hãn, nhưng trước mặt trụ trì cũng không dám chống đối, đành ngoan ngoãn vâng lời. Từ đó y gắng kìm tính khí, lặng lẽ ở lại chùa ba bốn tháng.

    Mùa xuân đến, cảnh sắc ngoài núi tươi đẹp, Trí Thâm lại nổi tính, lững thững xuống núi. Bất giác tới phố chợ, y reo lên:

    “A! Có quán thịt, có quán rượu! Biết sớm thế này thì khỏi uống thứ rượu rừng nhạt thếch hôm nọ rồi!”

    “Ồ, lại có tiệm rèn nữa, làm một cây thiền trượng với giới đao thôi!”

    Y đặt làm một cây thiền trượng nặng sáu mươi hai cân, hẹn vài hôm sau quay lại lấy, rồi bước vào quán rượu gần đó:

    “Này! Mang rượu ra đây!”

    Chủ quán hốt hoảng bước ra:

    “Không được! Bán rượu cho tăng nhân Ngũ Đài Sơn sẽ bị trụ trì trách phạt!”

    Nói mãi vẫn không chịu bán, Trí Thâm đành bỏ đi, tìm tới một quán nhỏ ngoài thành.

    “Ta là hòa thượng từ nơi khác tới, mau mang rượu ra!”

    “Ngươi thật là từ nơi khác tới sao? Nếu là tăng nhân Ngũ Đài Sơn, bán rượu cho ngươi là đại họa đấy!”

    “Lắm lời! Ta khát lắm rồi!”

    Y uống liền mấy chục bát rượu, để mặc chủ quán trố mắt đứng nhìn, rồi hối hả quay về chùa.

    Trí Thâm lâu rồi không luyện võ, lúc này say khướt, tay chân lại ngứa ngáy. Y trèo lên ngôi miếu nhỏ trên đỉnh núi, luyện quyền vài hiệp, rồi húc vai vào cột cổng chùa – chỉ nghe “rắc” một tiếng, cột gãy làm đôi.

    Tăng giữ cổng nghe động chạy ra, thấy là Trí Thâm – người vốn đã nổi danh hung dữ – liền hoảng sợ đóng chặt cửa.

    “Này! Mau mở cửa! Không mở ta phá cửa đấy!”

    Gọi mãi không ai mở, Trí Thâm nổi điên, tung cước đá văng cánh cửa. Tăng chúng không thể chế ngự, bèn huy động một hai trăm người cầm gậy bao vây y. Kết quả là không ít người bị thương, mà không ai chạm được đến một cọng lông của Trí Thâm.

    “A-di-đà Phật! Trí Thâm, dừng tay! Mọi người lui hết!”

    Trụ trì lớn tiếng quát, tăng chúng liền lui ra, chỉ còn mình Trí Thâm đứng giữa sân.

    “Trí Thâm, vào phòng ta.”

    Dù hung hãn là vậy, Trí Thâm vẫn ngoan ngoãn đi theo trụ trì. Vào đến phòng, trụ trì bảo:

    “Ngươi ở đây tĩnh tâm suy xét, ta sẽ nghĩ cách xử trí.”

    Hôm sau, trụ trì viết một bức thư, trao cho Trí Thâm:

    “Ta không thể giữ ngươi lại Ngũ Đài Sơn nữa. Sư đệ ta – thiền sư Trí Thanh – trụ trì chùa Tướng Quốc Tự tại kinh thành, ngươi hãy đến tìm ông ấy.”

    Trí Thâm cảm tạ, rồi xuống núi. Người trong chùa thấy y rời đi, ai nấy đều mừng rỡ khôn xiết. Trí Thâm ghé tiệm rèn lấy thiền trượng và giới đao, rồi thẳng đường lên kinh.
     
  6. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Lỗ Trí Thâm sơ ngộ Lâm Xung (鲁智深初识林冲)

    Lúc ấy, Trí Thâm đang ở trong quán trọ, tha hồ ăn thịt uống rượu, trong lòng nghĩ thầm:

    “Làm hòa thượng gì chứ? Thế gian bên ngoài mới thực là vui sướng!”

    Một hôm, y vừa đi vừa ngắm cảnh núi rừng hoang dã, chẳng hay đã bước vào vùng rừng Xích Tùng.

    “Ồ! Một cánh rừng rậm rạp biết bao!”

    Đang chăm chú nhìn quanh, chợt thấy có một bóng người khả nghi lóe lên dưới gốc cây lớn, rồi biến mất ngay tức khắc.

    Trí Thâm ngẫm nghĩ:

    “Kẻ này có khi là sơn tặc, thấy ta không dễ cướp bèn lui vào rừng.”

    Nghĩ đoạn, Trí Thâm liền vung thiền trượng, lớn tiếng quát vang:

    “Ê, thằng cướp kìa! Tiền bạc, áo quần mau để lại hết cho ta!”

    Người trong rừng nghe vậy liền phá lên cười sảng khoái:

    “Ngươi là ai mà lại nói ra y chang những lời ta định nói?”

    Nói xong, hắn liền vung đại đao lao tới.

    “Lại đây! Xem thiền trượng của ta đây!”

    Người kia nghe tiếng nhà sư liền thấy quen tai, bèn hỏi:

    “Ngươi tên gọi là gì?”

    Trí Thâm đáp:

    “Nếu ngươi đỡ được ba trăm chiêu thiền trượng của ta, ta sẽ nói!”

    Không còn cách nào, người kia đành xông lên ứng chiến, nhưng không tài nào chiếm được thượng phong. Đánh nhau đến hơn mười hiệp, hắn lại hỏi:

    “Rốt cuộc ngươi là ai?”

    Trí Thâm vừa thốt ra tên mình, người kia liền vứt đao xuống đất, reo lên:

    “Còn nhớ Sử Tiến từng gặp ở Vệ Châu chăng?”

    “Thì ra là huynh Sử Tiến!”

    Trí Thâm mừng rỡ cười vang, hai người liền nắm tay nhau thân thiết, kể lể chuyện xưa sau ngày ly biệt. Sử Tiến nói:

    “Từ ngày chia tay, ta rong ruổi khắp nơi tìm sư phụ Vương Tiến, nhưng chẳng thấy tung tích. Nay lộ phí đã cạn, đang định kiếm chút kế sinh nhai, lại may gặp được huynh.”

    “Sau này huynh định đi đâu?”

    “Nhà cửa đã bị cháy, đành phải trở lại Thiếu Hoa Sơn tìm Chu Vũ.”

    “Cũng là một đường vậy!”

    Hai người ghé vào quán rượu trong thôn, cùng uống say một trận đã đời, rồi mới từ biệt nhau mà đi mỗi người một ngả.

    Trí Thâm đến chùa Đại Tướng Quốc, vào bái kiến sư thúc. Đó là một ngôi đại tự, nguy nga lộng lẫy, ánh vàng rực rỡ. Chẳng bao lâu, y được dẫn vào chính điện.

    Phương trượng vừa nhìn thấy Trí Thâm, liền vỗ đùi cười lớn:

    “À, đúng là một bậc hào kiệt! Trong chùa ta có một vườn rau lớn, xin giao cho ngươi trông nom vậy!”

    Vườn rau chùa Đại Tướng Quốc thường xuyên bị lưu manh gần đó quấy phá, nên phương trượng cho rằng Trí Thâm là người thích hợp nhất để trấn giữ.

    Trí Thâm vừa dọn đến túp lều nhỏ trong vườn rau, đám lưu manh liền tụ tập lại. Chúng bàn bạc:

    “Tên này mới nhậm chức, ta phải cho hắn một đòn phủ đầu, hạ thấp khí thế, sau này mới dễ hành sự!”

    Nghĩ vậy, hơn hai chục tên kéo đến gây sự với Trí Thâm.

    “Chúng tôi là người quanh đây, sau này mong được chiếu cố!”

    Mồm miệng ngọt xớt là thế, nhưng trong lòng Lỗ Trí Thâm đã sinh nghi. Vừa bước lại gần, liền có hai tên hung hăng xông tới ôm chặt lấy chân hắn, toan quật ngã. Nhưng chẳng ngờ đối phương khỏe như trâu, chỉ nhấc chân một cái đã đá bay cả hai tên rơi tõm xuống hố phân bên cạnh túp lều. Bọn còn lại đều hoảng vía.

    “Ê! Sao không mau kéo chúng lên? Thật chẳng có chút tình nghĩa gì cả!”

    Trí Thâm quát lên một tiếng, đám lưu manh đang đứng ngây ra bên cạnh chỉ còn biết lật đật kéo hai kẻ xui xẻo lên khỏi hố.

    Từ sau chuyện đó, lũ lưu manh đều xem Trí Thâm như sư phụ, thái độ hết sức cung kính.

    Một ngày nọ, chúng nói với Trí Thâm:

    “Sư phụ, bọn con đã thấy ngài đánh quyền, nhưng chưa được thấy ngài sử binh khí, chẳng hay có thể biểu diễn cho xem chăng?”

    “Được! Xem đây!”

    Nói đoạn, Trí Thâm ra sân múa thiền trượng. Quả nhiên chiêu thức dũng mãnh, khéo léo không để lộ một khe hở. Khi ấy, bên ngoài hàng rào có một người đàn ông râu rậm như bờm cọp, trầm trồ khen ngợi:

    “Tuyệt! Vị sư phụ này võ nghệ thật phi phàm!”

    Lũ lưu manh cũng tấm tắc:

    “Ngay cả ông ấy còn khen, sư phụ quả là phi thường!”

    “Hắn là ai vậy?”

    “Là Lâm Xung – huấn luyện tổng giáo của cấm quân đấy!”

    “Vậy mời ông ấy vào!”

    Anh hùng trọng anh hùng, Lỗ Trí Thâm và Lâm Xung vừa gặp đã như cố nhân, chuyện trò hợp ý vô cùng. Trong lúc hai người đang uống rượu hàn huyên, thì tỳ nữ nhà họ Lâm hớt hải chạy đến kêu:

    “Không xong rồi! Phu nhân bị kẻ xấu bắt đi mất!”

    “Ở đâu?”

    “Ngay tại miếu Thần Núi!”

    “Được! Ta đi ngay!”

    Lâm Xung phóng đi như bay, Trí Thâm cũng theo sát gót.

    Lâm Xung vừa tới miếu Thần Núi, đang định giáng một quyền vào tên cướp vợ, nhưng nhìn kỹ lại thì hóa ra là nghĩa tử của thượng cấp mình – Cao Cầu!

    Lâm Xung biết kẻ này thế lực lớn, không thể động vào, đành phải buông tay. Nhưng Trí Thâm vốn tính nóng nảy liền nói:

    “Tên này là ác bá, không thể tha thứ! Nếu muốn trị hắn, lúc nào ta cũng sẵn sàng ra tay!”
     
  7. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Lâm Xung bị hãm hại (林冲被害)

    Công tử Cao không phải hạng người dễ buông tay. Dựa vào thế lực của người cha quyền cao chức trọng, hễ thấy người hay vật gì vừa mắt, y đều dùng thủ đoạn ép buộc để chiếm đoạt. Lần này, y để mắt đến vợ của Lâm Xung. Ban đầu, y định ra tay cưỡng đoạt, nhưng vì e ngại võ nghệ cao cường của Lâm Xung nên không dám hành động lỗ mãng. Vì thế, y cùng bọn bè đảng lang sói lập ra một âm mưu, sau khi được nghĩa phụ Cao Cầu ngầm chấp thuận, liền quyết định hãm hại Lâm Xung cho bằng được.

    Vài ngày sau, khi Lâm Xung đang dạo bước gần nhà, bỗng nghe có người rao bán đao kiếm bên vệ đường:

    “Đây là bảo đao trứ danh thiên hạ, chỉ tiếc không gặp được người biết nhìn hàng!”

    Bị tiếng rao lôi cuốn, Lâm Xung ngoảnh lại nhìn, thì người bán hàng lập tức tiến tới:

    “Thưa ngài, thanh đao này rất hợp với khí chất của ngài. Nếu muốn, tôi sẽ nhường với giá thật hữu nghị.”

    “Ồ, quả là một thanh đao tuyệt đẹp! Bao nhiêu tiền vậy?”

    Ngay cả Lâm Xung, người từng dạy võ trong cấm quân, cũng chưa từng thấy qua thanh đao nào tinh xảo như thế. Giá cả lại hợp lý, nên chàng đưa người bán về nhà, thanh toán sòng phẳng, vui vẻ nhận đao. Trong lòng nghĩ thầm:

    “Nghe nói Cao Cầu cũng có một thanh bảo đao, có dịp ta sẽ mang đao này tới so xem hơn kém ra sao!”

    Không lâu sau, quả nhiên Cao Cầu cho người tới nhà truyền lời:

    “Nghe nói gần đây ngươi vừa có được bảo đao, mau mang đến cho ta xem thử!”

    Lâm Xung lấy làm kinh ngạc, chẳng rõ ai đã tiết lộ chuyện này. Nhưng không thể từ chối, chàng liền mang đao đến phủ bái kiến Cao Cầu.

    Tới phủ quan, bọn gia nhân dẫn chàng đi sâu vào nội đường, nhưng đi mãi không thấy Cao Cầu xuất hiện. Cuối cùng, chàng được dẫn vào một nơi bí mật gọi là “Bạch Hổ Đường” – chốn họp kín chỉ dành cho việc đại sự. Theo quy định, nơi này tuyệt đối cấm mang binh khí vào.

    “Chết rồi! Nếu bị phát hiện thì nguy to!”

    Lâm Xung hoảng hốt định lui ra thì Cao Cầu từ căn phòng bên cạnh bước ra.

    “Này, Lâm Xung! Ai cho phép ngươi vào Bạch Hổ Đường mà còn mang theo đao? Ngươi có âm mưu gì?!”

    Lâm Xung vội vàng phân trần, nhưng Cao Cầu lập tức lớn tiếng:

    “Người đâu! Bắt lấy Lâm Xung!”

    Ngay tại chỗ, Lâm Xung bị trói gô lại.

    “Giải hắn tới nha môn, xét xử thật nghiêm!”

    Cao Cầu vu cáo trước quan chủ thẩm rằng Lâm Xung mang đao xông vào phủ, mưu toan hành thích y. Dù Lâm Xung hết lời biện bạch, nhưng thế lực của Cao Cầu quá lớn, khiến chàng không thể tự minh oan. May thay, viên chủ thẩm tỏ ra cảm thông cho tình cảnh của Lâm Xung, chỉ phán tội lưu đày tới Thương Châu.

    Con đường giải đi Thương Châu hiểm trở trùng trùng. Cao Cầu ngầm ra lệnh cho hai công sai áp giải phải giết chết Lâm Xung giữa đường.

    Khi đi đến một khu rừng hoang vắng, không một bóng người, hai tên công sai liền trói chặt Lâm Xung lại, lạnh lùng nói:

    “Chúng ta đành tiễn ngươi về Tây thiên tại đây thôi! Đây là mệnh lệnh từ cấp trên, chúng ta không thể làm khác!”

    Nói đoạn, chúng giơ gậy chuẩn bị giáng xuống đầu vị giáo đầu của cấm quân. Thật là một khắc sinh tử! Nhưng đúng lúc đó, gậy trong tay chúng bị một người quét văng lên không trung – trước mặt chúng là một đại hán oai phong lẫm liệt.

    “Hừ! Đánh chết bọn khốn các ngươi!”

    Hai tên công sai sợ đến run rẩy. Lâm Xung vừa nhìn đã nhận ra, mừng rỡ nói:

    “Lỗ huynh! Đa tạ đã cứu mạng! Xin hãy tha cho hai tên này, chúng cũng chỉ là bị sai khiến mà thôi.”

    Lỗ Trí Thâm cũng hiểu rõ nguồn cơn, nên tha mạng cho chúng.

    “Lỗ huynh, sao huynh lại đến kịp lúc vậy?”

    “Ha ha! Ta sớm đoán ra âm mưu bọn chúng, nên lặng lẽ bám theo từ trước.”

    Trí Thâm quay sang mắng hai công sai:

    “Từ giờ phải bảo vệ Lâm Xung đến nơi đến chốn! Ta vẫn sẽ âm thầm theo dõi đấy!”

    Từ đó, hai tên công sai chẳng khác gì đầy tớ, vừa phải nấu nướng, lại còn xoa bóp chân cho Lâm Xung trên đường.

    Sau mấy ngày hành trình, họ đến một quán rượu trong làng để nghỉ chân. Từ lời chủ quán, họ được biết có một vị đại phú tên là Sài Tiến, thường hay giúp đỡ anh hùng lỡ độ đường. Lâm Xung nghe vậy liền nói:

    “Khi còn ở kinh thành, ta cũng từng nghe danh Sài đại nhân. Ông ấy là hậu duệ hoàng tộc triều trước, được triều Tống đặc biệt đãi ngộ.”

    Thế là cả bọn quyết định tìm đến phủ Sài Tiến. Khi còn cách phủ không xa, họ trông thấy một đoàn người cưỡi ngựa tiến lại từ rặng cây xa xa. Đi đầu là một công tử phong nhã, tuổi khoảng ba mươi lăm, ba mươi sáu – chính là Sài Tiến.

    Thấy một người bị trói, Sài Tiến liền hỏi:

    “Người kia là ai vậy?”

    Lâm Xung vội vàng tiến lên hành lễ, báo tên họ. Sài Tiến nói:

    “Danh tiếng giáo đầu đã lâu vang dội, xin mời về hàn xá nghỉ chân.”

    Từ đó, họ được Sài phủ tiếp đãi nồng hậu, ăn ở đầy đủ. Lâm Xung có dịp tỉ thí võ nghệ với thầy dạy côn pháp trong phủ là ông Hồng và giành phần thắng. Sài Tiến hết sức vui mừng, thưởng hậu hĩnh, lại còn viết thư giới thiệu Lâm Xung đến các quan ở Thương Châu. Nhờ vậy, khi đến nơi, Lâm Xung không bị đối xử hà khắc, an ổn bước vào chặng đời mới.
     
  8. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Lâm Xung bị ép lên Lương Sơn (林冲被迫上梁山)

    Sau khi Lâm Xung rời đi, công tử Cao liền đến cầu hôn với cha vợ của y, ý muốn cưới vợ Lâm Xung. Nhưng cha vợ Lâm Xung nói rằng y vẫn còn sống, con gái ông không thể tái giá.

    Cao Cầu nghe tin Lâm Xung đã bình an đến được Thương Châu, trong lòng vô cùng tức giận. Vì muốn giúp nghĩa tử, y sai người đến Thương Châu hành thích.

    Nhờ có thư tiến cử của Sài Tiến, quan lại Thương Châu biết rằng Lâm Xung bị vu oan nên phân công cho y trông coi bãi cỏ khô.

    Hôm đó là một đêm tuyết rơi dày đặc, trong túp lều tại bãi cỏ vang lên tiếng lửa cháy rừng rực. Đó là do Lục Khiêm – thích khách do Cao Cầu phái đến – châm lửa định thiêu chết Lâm Xung, y đoán chắc Lâm Xung đang ngủ trong lều.

    Kỳ thực, Lâm Xung hôm ấy đến tửu quán uống rượu, lúc say khướt trở về thì thấy lửa cháy ngùn ngụt, bèn ẩn mình trong một góc tối quan sát.

    Y nghe Lục Khiêm nói với đồng bọn:

    — Tên đó lần này chết chắc rồi!

    — Về bẩm báo với đại nhân Cao, nhất định sẽ được trọng thưởng!

    Lâm Xung lập tức rút ra cây trường thương giấu trong đống rơm, lớn tiếng quát:

    — Đồ hèn hạ, xem thương của ta đây!

    Vì hành động quá bất ngờ, đám người Lục Khiêm sợ hãi đến không kịp trở tay, lần lượt bị Lâm Xung đâm chết. Cuối cùng, y bắt sống được cả Lục Khiêm.

    — Xin tha mạng! Đây là lệnh của Cao đại nhân, ta cũng bất đắc dĩ mà thôi!

    Lâm Xung gằn giọng:

    — Ngươi với ta vốn không thù không oán, lại từng là đồng liêu, cớ gì phải hại ta?

    Nói đoạn, y rút đoản đao nơi thắt lưng, kết liễu mạng Lục Khiêm. Lâm Xung thầm nghĩ:

    “Ta không thể ở lại đây thêm nữa, chi bằng bỏ trốn thì hơn.”

    Y thu xếp ít tài vật, băng qua bão tuyết, men theo hướng Đông mà đi. Vì say rượu lại mệt mỏi, khi đến trước cổng một trang trại lớn thì gục ngã trong tuyết. Người trong trang phát hiện, ngỡ là đạo tặc.

    — Ê! Khai mau! Ngươi đến đây để trộm gạo phải không?

    — Không phải… ta chỉ say rượu rồi gục ở đây…

    — Còn chối à!

    Nghe thấy tiếng huyên náo, chủ trang viện bước ra hỏi:

    — Có chuyện gì vậy?

    — Bẩm đại nhân, hắn định trộm gạo nhà ta!

    Chủ nhân quát đám người lui ra, rồi đích thân tháo dây trói cho Lâm Xung. Nhìn kỹ lại, Lâm Xung kinh ngạc nhận ra vị đại nhân kia chính là Sài Tiến. Thế là y đem chuyện xảy ra ở bãi cỏ thuật lại đầu đuôi. Sài Tiến nói:

    — Đây là biệt trang của ta, ngươi cứ tạm thời lánh mặt tại đây.

    Qua năm sáu ngày, nha sai từ Thương Châu cũng lần mò đến biệt trang dò xét tung tích kẻ sát nhân tên Lâm Xung. Lâm Xung không muốn liên lụy đến Sài Tiến nên quyết định ra đi.

    Sài Tiến nói:

    — Vậy ta mách ngươi một nơi. Ở Ký Châu, Sơn Đông có một vùng gọi là Lương Sơn Bạc, chu vi khoảng tám trăm dặm. Trong trại có mấy vị hảo hán mà ta quen biết, dưới trướng có bảy, tám trăm người. Đứng đầu là Vương Luân, thứ hai là Đỗ Thiên, thứ ba là Tống Vạn. Tuy họ là người trong giang hồ, nhưng đều mang tấm lòng hiệp nghĩa, thường ra tay cứu giúp kẻ yếu, cướp của nhà giàu chia cho dân nghèo.

    — Ừm, ta cũng nên đến gia nhập họ vậy.

    — Ta sẽ viết một phong thư tiến cử để ngươi mang theo.

    Thế là Lâm Xung lội tuyết đi đến gần vùng Lương Sơn Bạc. Y nghỉ chân trong một tửu quán, vừa uống trà vừa dò hỏi đường vào Lương Sơn. Bỗng một hán tử cao lớn bước ra khỏi quán, nói:

    — Ngươi là đồng bọn của bọn cướp phải không? Để ta bắt ngươi giải lên công đường!

    Lâm Xung vội đứng nghiêm, chuẩn bị chống trả, nhưng người kia bật cười bảo:

    — Thật ra ta cũng là người trong trại, tên là Chu Quý, phụ trách canh gác tại vùng này.

    Lâm Xung cũng báo tên, hai người vui vẻ uống rượu trò chuyện suốt đêm. Hôm sau, Chu Quý mang cung tên ra hồ, bắn một mũi tên tín hiệu sang bờ bên kia. Tức thì, một chiếc thuyền nhỏ từ trong rặng lau sậy trượt ra, đưa Lâm Xung tiến về Lương Sơn Bạc.
     
  9. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Dương Chí bán đao giết Ngưu Nhị (杨志卖刀杀牛二)

    Lâm Xung được đưa vào gặp thủ lĩnh Lương Sơn Bạc là Vương Luân – một gã thư sinh hẹp hòi nhưng lại cầm đầu lũ thảo khấu.

    “Giết ai cũng được, trong ba ngày phải lấy được một cái đầu người mang về! Đây được xem là lời thề khi nhập bọn!”

    Vương Luân thấy Lâm Xung võ nghệ cao cường, trong lòng lo sợ sau này y sẽ cướp mất địa vị của mình, bèn đưa ra điều kiện khắc nghiệt như thế.

    Lâm Xung đành miễn cưỡng nhận lời. Nhưng khi ra đến đường cái, đợi mãi vẫn chẳng thấy bóng người nào, mãi đến chiều tối ngày thứ ba mới thấy một hán tử râu rậm xanh rì, đang áp giải một đoàn phu khuân vác đi ngang qua.

    Lâm Xung lập tức rút đao xông tới. Đám phu khuân vác sợ hãi vứt cả hành lý bỏ chạy, chỉ còn hán tử kia giơ đao nghênh chiến. Hai người giao đấu kịch liệt hơn ba mươi hiệp bên hồ tuyết phủ, vẫn bất phân thắng bại.

    “Thân thủ thật phi phàm! Xin cho biết quý danh tôn tính?”

    Từ trên núi, Vương Luân cùng đám hào hán Lương Sơn Bạc xuất hiện, lớn tiếng tán thưởng hán tử kia.

    “Ta là võ nhân, biệt hiệu Thanh Diện Thú, tên thật là Dương Chí. Xin hoàn lại hành lý cho ta.”

    “Được thôi! Hành lý tất nhiên sẽ trả, nhưng xin mời huynh đài lên núi một chuyến, để chúng tôi được chiêu đãi.”

    Vương Luân thầm nghĩ: để một mình Lâm Xung ở lại sơn trại chẳng bằng mời thêm Dương Chí lên núi, khiến hai người kìm hãm lẫn nhau, như vậy mới giữ được địa vị của mình.

    Nhưng Dương Chí không muốn lên núi, vì còn hy vọng thăng tiến khi trở lại kinh thành. Trước kia, ông từng hộ tống các kỳ hoa dị thạch chuẩn bị tiến cống cho hoàng đế, nhưng giữa đường gặp giông tố, mọi báu vật đều bị chìm dưới sông. Vì sợ bị truy tội, ông lưu lạc khắp nơi, không dám lộ diện, mãi đến khi gặp được chiếu đại xá. Lần này, ông định đến cầu xin Cao Cầu khôi phục chức vụ cũ.

    Vì thế, chỉ có Lâm Xung ở lại, mưu kế của Vương Luân không thành.

    Dương Chí trở về kinh thành, đến phủ Cao Cầu cầu kiến, nhưng Cao Cầu chẳng những không dùng ông, ngược lại còn nói:

    “Ngươi bỏ trốn bao năm, nay không truy cứu tội cũ đã là ơn sâu đức nặng, lại còn vọng tưởng được phục chức sao?”

    Dương Chí buồn bã trở lại khách điếm, nghĩ thầm:

    “Ôi! Biết thế này, lúc trước ta đã ở lại Lương Sơn Bạc thì hơn!”

    Qua mấy ngày, tiền bạc mang theo dần cạn kiệt, ông thở dài:

    “Giờ chỉ còn cách đem thanh bảo đao tổ tiên truyền lại ra bán thôi.”

    Ông đến chợ treo bảng “Bán bảo đao”, nhưng đứng từ sáng đến chiều chẳng ai ngó ngàng.

    Bỗng nghe tiếng ồn ào:

    “Ái chà! Hổ đến rồi! Hổ đến rồi!”

    “Lạ thật! Giữa chợ mà lại có hổ sao?”

    Dương Chí ngẩng đầu ngạc nhiên nhìn, thì ra là một đại hán say rượu loạng choạng bước tới. Đó chính là tên vô lại lực lưỡng nổi danh ở kinh thành – Ngưu Nhị – thường hay ức hiếp dân lành.

    Ngưu Nhị tới trước mặt Dương Chí, chẳng nể nang gì, túm lấy bảo đao nói:

    “Thanh đao này bán ba mươi lượng à? Mắc quá! Ba mươi văn thì được! Mua về thái thịt cắt đậu hũ cũng xài được!”

    “Đây thực sự là bảo đao truyền gia. Thứ nhất, chém sắt như chém bùn; thứ hai, có thể thổi lông đứt đoạn; thứ ba, giết người mà lưỡi đao không vương máu.”

    “Ồ! Thú vị thật đó. Cho ta thử xem được không?”

    Nói xong, Ngưu Nhị chạy sang tiệm bên cạnh xin ít tiền xu, đổ một đống trước mặt Dương Chí, nói là muốn thử đao.

    Lúc ấy, đám người tò mò đứng vây xem từ xa.

    Thử nghiệm thứ nhất và thứ hai đều thành công, nhưng Ngưu Nhị còn muốn thử điều thứ ba:

    “Giết một người xem sao! Nếu quả thực đao không dính máu, ta sẽ mua!”

    Dương Chí ra sức giải thích, nhưng Ngưu Nhị không nghe. Dương Chí nổi giận quát lớn:

    “Muốn mua thì mua, không mua thì thôi!”

    “Ta mua!”

    “Đã vậy thì trả tiền đi!”

    “Nếu không giết người thử, ta không trả!”

    Cuộc tranh cãi bùng nổ. Dương Chí tức quá, rút đao đâm chết Ngưu Nhị. Sau đó ông lập tức đến nha môn đầu thú. Vì người bị giết là kẻ lưu manh ai cũng ghét, nên quan phủ xử nhẹ, chỉ phạt lưu đày lên phương Bắc.

    Lúc ấy, quan trấn giữ Bắc Kinh là Lương Thế Kiệt – con rể của Tể tướng Thái Kinh. Dương Chí bị áp giải đến trước mặt Lương Thế Kiệt. Vị quan này vốn quen biết ông, sau khi hỏi rõ đầu đuôi sự việc, liền thu nhận làm thuộc hạ.

    Lương Thế Kiệt có ý đề bạt Dương Chí, nhưng sợ những người khác không phục, bèn sai ông tỷ thí võ nghệ với đám võ quan. Kết quả Dương Chí đều thắng cả. Lương Thế Kiệt lập tức phong ông làm võ quan.

    Một thời gian sau, Lương Thế Kiệt nói với Dương Chí:

    “Sinh nhật của nhạc phụ ta sắp đến, quà mừng năm nay giao cho ngươi hộ tống. Gần đây bọn cướp lộng hành khắp nơi, không có người bảo vệ e rằng sẽ bị cướp mất.”

    Năm ngoái, lễ vật mừng thọ cũng bị cướp giữa đường. Dương Chí nhận lệnh, nói:

    “Tốt nhất là cải trang thành thường dân, để tránh bị chú ý.”

    “Phải lắm!”

    Thế là chọn ra mười một quân sĩ cường tráng, võ nghệ cao cường, giả làm phu khuân vác. Dương Chí cũng cải trang làm thương nhân, bất chấp nắng hè gay gắt, thẳng đường tiến về Khai Phong.

    “Xin cho chúng tôi nghỉ ngơi một lát!”

    “Không! Không được! Nhỡ cướp tới thì sao?”

    Trong đầu Dương Chí vẫn văng vẳng hình ảnh bọn sơn tặc Lương Sơn Bạc năm xưa, nên nhẫn tâm bắt binh sĩ tiếp tục lên đường.
     
  10. sadec2

    sadec2 Lớp 4

    Dương Chí lần đầu gặp Lỗ Trí Thâm (杨志初遇鲁智深)

    Một ngày nọ, Dương Chí cùng đoàn người của mình đến được Hoàng Nê Cương. Đám binh sĩ vốn từ lâu đã bất mãn với thái độ hà khắc của Dương Chí, nên sau khi nằm nghỉ dưới bóng cây thì chẳng ai buồn đứng dậy tiếp tục lên đường.

    — Này! Các ngươi có biết đây là nơi nào không? Chốn này là hang ổ của thổ phỉ đấy! Không mau đi thì nguy to!

    — Trời nắng như thiêu như đốt thế này, vác hành lý nặng trĩu mà còn bắt chúng tôi đi tiếp, ngươi muốn lấy mạng bọn ta sao?

    Dù Dương Chí có quát tháo thế nào, đám phu vẫn cứ trơ ra, không ai chịu nhúc nhích. Đúng lúc ấy, trong rừng thông thấp thoáng có bóng người.

    — Nhìn kìa! Có kẻ đang lén lút rình mò!

    Dương Chí lập tức bước đến gần kẻ khả nghi kia.

    — Ngươi là ai?

    — Tôi là người bán trái cây rong.

    Ngay khi đó, lại có người từ dưới sườn núi gánh rượu đi lên. Binh sĩ khát khô cổ họng, liền rút tiền ra mua rượu. Dương Chí thấy thế, hoảng hốt lao đến ngăn lại:

    — Tại sao lại tùy tiện uống rượu? Các người không biết bao nhiêu hảo hán đã mất mạng vì uống nhầm rượu tẩm mê dược sao?

    Người bán rượu nghe vậy tức giận cãi lại:

    — Ông đừng ăn nói bừa bãi! Rượu của tôi là rượu tốt, không mua thì thôi, sao còn sỉ nhục người ta?

    Lúc này, những người bán trái cây lần lượt kéo đến.

    — À, thì ra là bán rượu đấy à?

    — Cho ta một bát thử xem nào!

    Đám hàng rong lần lượt uống rượu, binh sĩ nhìn thấy mà càng thêm khát, liền năn nỉ:

    — Rõ ràng là chẳng có thuốc mê gì cả, cho chúng tôi uống một chút đi!

    Thấy mấy người kia uống mà không hề gì, Dương Chí cuối cùng cũng phải chấp thuận:

    — Được rồi, cứ uống đi!

    Nào ngờ binh sĩ vừa uống xong chẳng bao lâu đã lần lượt ngã gục xuống cỏ, mê man bất tỉnh.

    — Hỏng rồi!

    Dương Chí tuy chỉ nhấp một ngụm nhỏ nhưng cũng thấy toàn thân mềm nhũn, không còn sức lực, chỉ còn biết trơ mắt nhìn đám hàng rong đang khiêng hết những lễ vật sinh nhật quý giá đi mất.

    Những kẻ cướp này chính là nhóm nghĩa sĩ do danh sĩ làng Tà huyện – Triều Cái – cầm đầu. Kế hoạch cướp bóc được người đồng hương bày mưu, nổi danh “Trí đa tinh” – Ngô Dụng. Tham gia còn có ba anh em họ Nguyễn làm nghề chài lưới, Lưu Đường, Bạch Thắng và đạo sĩ giang hồ Công Tôn Thắng.

    Dù Dương Chí đã thận trọng hết mực, những lễ vật sinh nhật vẫn bị cướp sạch. Giờ thì tiến không được, lui cũng chẳng xong, chẳng còn mặt mũi nào về gặp Lương Thế Kiệt, ông đành tìm đến nhánh núi Nhị Long gần đó để đầu quân cho bọn thảo khấu nơi ấy.

    Một mình lê bước trên sơn đạo, bất chợt có một đại hán từ trong bụi rậm lao ra, quát lớn:

    — Này! Tên kia từ đâu đến hả?

    Vị hòa thượng dữ tợn kia chẳng chờ đối phương trả lời, liền vung thiền trượng đánh tới. Dương Chí tâm trạng đang ủ ê, bèn rút đao ra nghênh chiến. Hai người giao đấu hơn bốn, năm mươi hiệp vẫn bất phân thắng bại.

    Trong lòng cả hai đều thầm khâm phục võ nghệ đối phương, bèn dừng tay, tự giới thiệu tên họ. Té ra hòa thượng đó chính là hảo hán lừng danh thiên hạ – Lỗ Trí Thâm. Dương Chí nói:

    — Ta giờ không còn cơ hội làm quân nhân nữa, chỉ còn cách lên Nhị Long Sơn quy thuận sơn trại.

    Nhưng Lỗ Trí Thâm lại bảo:

    — Chủ trại trên Nhị Long Sơn thật là đáng ghét, cửa trại đóng chặt không cho ta vào.

    Dương Chí suy nghĩ một lúc, rồi nói:

    — Vậy thì chúng ta dùng chút mưu kế để lừa bọn chúng mở cổng.

    — Mưu kế gì?

    Dương Chí ghé sát tai Trí Thâm, thì thầm mấy câu. Sau đó cả hai tìm đến một thôn trang, gom năm sáu người dân, giả vờ trói Trí Thâm lại rồi khiêng thẳng lên Nhị Long Sơn.

    — Này! Các ngươi khiêng hòa thượng kia đến làm gì?

    — Bọn tôi là dân làng dưới chân núi. Hôm nay thấy hắn giữa chợ lớn miệng nói muốn dẫn người của Lương Sơn Bạc đến đánh Nhị Long Sơn, nên chúng tôi bắt hắn lại, mang lên dâng thủ lĩnh.

    Thủ lĩnh Nhị Long Sơn nghe vậy mừng rỡ, lập tức sai đưa “phạm nhân” đến trước mặt. Lúc này, Dương Chí liền tháo dây trói cho Trí Thâm. Vừa được cởi trói, Lỗ Trí Thâm liền đoạt lấy thiền trượng, vụt một cái đánh nát đầu tên thủ lĩnh.

    Những kẻ to gan chống cự – năm sáu người – liền trở thành oan hồn dưới thiền trượng và đại đao. Còn lại năm sáu trăm tên lâu la đều buông vũ khí đầu hàng. Từ đó, Lỗ Trí Thâm và Dương Chí cùng làm chủ sơn trại Nhị Long Sơn.
     

Chia sẻ trang này