Phật Giáo Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (trọn bộ 600 quyển)

Thảo luận trong 'Tủ sách Tôn giáo' bắt đầu bởi junchan, 3/10/13.

Moderators: mopie
  1. junchan

    junchan Lớp 7

    Giới thiệu Kinh Đại bát nhã
    So với một số bộ kinh tiêu biểu trong Hán tạng, kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa rất ít kệ. Và vì sự diễn đạt mang tính chất bao quát, toàn diện và triệt để, nên một số điểm cốt yếu trong kinh đã được lặp lại. Đây là điều mà những người bước đầu tiếp cận với bộ kinh này cần lưu ý.



    Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
    Quần chúng Phật tử Việt Nam cũng như giới Phật học phần đông đều đã tiếp cận với kinh Kim Cương và Bát Nhã Tâm kinh, hoặc đọc tụng, hoặc nghiên cứu, học hỏi, nhưng có thể chỉ một số ít mới biết rằng kinh Kim Cương vốn là một hội ngắn của kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (hội thứ 9, quyển 577, ĐTK/ĐCTT, tập 7, trang979C- 985C), còn Bát Nhã Tâm kinh (ĐTK/ĐCTT, T8, No 251, trang 848C) cũng do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng dịch, chính là sự thâu tóm một số điểm then chốt, tinh túy nhất của kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.
    Loại bài viết sau đây, chúng tôi xin bước đầu giới thiệu về bộ kinh ấy.

    I. MẤY NÉT VỀ DỊCH CHỦ VÀ CÔNG VIỆC DỊCH KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

    Tên tuổi cùng sự nghiệp cầu pháp của Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) đã được sử sách nói tới khá nhiều, ở đây chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm về sự nghiệp dịch thuật kinh điển của Ngài. Trong lịch sử dịch thuật kinh điển của Phật giáo Trung Quốc, ba cái mốc chính được nói tới là Trúc Pháp Hộ (226-304), Cưu Ma La Thập (344-413) và Huyền Tráng (602-664). Như thế, Huyền Tráng được xem là đỉnh cao, là sự tập hợp đại thành của quá trình dịch thuật ấy. Các nhà nghiên cứu Phật học đã sử dụng từ ngữ "cựu dịch, tân dịch" để chỉ cho các công trình và lối dịch thuật kinh điển Phật giáo trước ngài Huyền Tráng (cựu dịch) và từ ngài Huyền Tráng trở về sau (tân dịch).

    Nhìn chung, sự nghiệp dịch thuật kinh điển của ngài Huyền Tráng diễn ra trong thời gian khoảng 20 năm với những thành quả đạt được thật là kì diệu, theo mục lục của ĐTK/ĐCTT, ngài Huyền Tráng đã dịch trên 70 tên Kinh, Luật, Luận, gồm 1322 quyển, ngoài bộ Đại Bát Nhã ra, còn có những bộ kinh, Luật, Luận nổi bật sau đây: - Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh: 1 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 251, T8- Kinh Phật Thuyết Vô Cấu Xưng (Duy Ma Cật): 6 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 476, T14- Kinh Giải Thâm Mật: 5 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 676, T16- A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận: 200 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1545, T27 A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận: 30 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1558, T29- A Tỳ Đạt Ma Thuận Chính Lý Luận: 80 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1562, T29... - Bồ Tát Giới Yết Ma văn: 1 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1499, T24- Bồ Tát Giới bản: 1 quyển ĐTK/ĐCTT, No 1501, T24- Du Già Sư Địa luận: 100 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1579, T30 v.v...
    Ngoài ra, ngài Huyền Tráng còn trứ thuật bộ sách Đại Đường Tây Vực kí gồm 12 quyển rất nổi tiếng (ĐTK/ĐCTT, No 2087, T51).

    Tài liệu trong Phật Quang đại từ điển (Phật Quang Xuất bản xã, 1995, tr 839 trung- 839 hạ) cho biết việc tổ chức để dịch thuật bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa rất là chu đáo, với sự hỗ trợ đắc lực của triều đình nhà Đường thời bấy giờ. Các vị sư: Gia Thượng, Đại Thừa Khâm, Đại Thừa Quang, Huệ Lãng, Khuy Cơ... giữ nhiệm vụ bút thọ. Các vị như Huyền Tắc, Thần Phưởng... giữ nhiệm vụ biên tập, sửa văn (Huyền Tắc còn là người đã viết 16 bài tựa cho 16 hội trong bộ kinh này), còn các vị sư Huệ Quý, Thần Thái, Huệ Cảnh thì lo việc chứng nghĩa. Toàn bộ công việc được tiến hành thuận hợp trong hơn ba năm rưỡi, từ tháng giêng năm 660 tới tháng Mười năm 663 thì hoàn thành, và đó là công trình lớn sau cùng của ngài Huyền Tráng, vì tháng Hai năm sau (664) thì ngài viên tịch. Vì là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng của Phật giáo Đại thừa, nên các kinh thuộc văn hệ Bát Nhã đã được đưa vào đất Trung Hoa và được dịch ra Hán văn rất sớm (đời Đông Hán). Trước ngài Huyền Tráng, các kinh thuộc văn hệ Bát Nhã được dịch gồm:

    1. Kinh Đạo Hành Bát Nhã: 10 quyển, Chi Lâu Ca Sấm dịch (đời Hậu Hán, ĐTK/ĐCTT, No 224, T8)
    2- Kinh Đại Minh Độ: 6 quyển, Chi Khiêm dịch (đời Đông Ngô, ĐTK/ĐCTT, No 225, T8)
    3- Kinh Phóng Quang Bát Nhã: 20 quyển, Vô La Xoa dịch, (đời Tây Tấn, ĐTK/ĐCTT, No 221, T8)
    4- Kinh Quang Tán Bát Nhã: 10 quyển, Trúc Pháp Hộ dịch (đời Tây Tấn, ĐTK/ĐCTT, No 22, T8)
    5- Kinh Ma Ha Bát Nhã Sao: 5 quyển, Đàm Ma Bì và Trúc Phật Niệm dịch (đời Tiền Tấn, ĐTK/ĐCTT, No 226, T8)
    6- Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật: 27 quyển, Cưu Ma La Thập dịch (đời Hậu Tần, ĐTK/ĐCTT, No 223, T8)
    7- Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật: 10 quyển, Cưu Ma La Thập dịch (đời Hậu Tần, ĐTK/ĐCTT, No 227, T8)
    Toàn bộ các kinh ấy đều có trong Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa và đã được Ngài Huyền Tráng dịch lại (sẽ nói rõ thêm khi giới thiệu các hội trong Đại Bát Nhã). Điều này đã giúp cho các nhà nghiên cứu Phật học nhận thấy rõ hơn về quá trình sử dụng các thuật ngữ Phật học, phương hướng dịch, cũng như cách lí giải và diễn đạt các vấn đề cơ bản của tư tưởng Bát Nhã.

    II. GIỚI THIỆU TỒNG QUÁT VỀ KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

    A/- Bốn xứ, mười sáu hội:
    Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa được thuyết giảng ở 4 nơi là:
    - Núi Linh Thứu thuộc thành Vương Xá (gồm các hội 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 15)
    Khu lâm viên Kì Đà- Cấp Cô Độc (gồm các hội 7, 8, 9, 12, 13 và 14)
    - Cung trời Tha Hóa Tự Tại (hội thứ 10)
    - Gần ao Bạch Lộ trong tinh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá (hội thứ 16)
    Kinh gồm 600 quyển, thuyết giảng qua 16 hội: trong ấy, so với các bản kinh đã được dịch từ trước thì:
    - Các hội 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15 và 16 (9 hội) là ngài Huyền Tráng dịch mới, gồm 481 quyển.
    - Các hội còn lại: 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 (7 hội) đã có các vị đi trước dịch rồi và ngài Huyền Tráng đã dịch lại, gồm 119 quyển.

    B/- Giới thiệu từng hội:

    Số lượng kinh văn hàm chứa trong mỗi hội không đều nhau: hội ngắn nhất: 1 quyển; hội dài nhất: 400 quyển.
    1) Hội thứ nhất: Đây là hội dài nhất, gồm 400 quyển (quyển 1-400) chiếm trọn hai tập ĐTK 5 và 6 với hơn 2147 trang, gồm 79 phẩm chính, phân thành 461 phần, mỗi phần dài ngắn không đều; phần dài có thể là một quyển, phần ngắn thì khoảng một trang hoặc nửa trang v.v... Ở hội này có những phẩm rất dài, như phẩm "Hiệu lượng công đức" gồm 66 phần (ĐTK/ĐCTT, T5, tr 570C-906B), phẩm "Nan tín giải" gồm đến 103 phần (ĐTK/ĐCTT, T5, tr 979A-1074C; T6, tr 1-448A).

    2) Hội thứ nhì: Hội này gồm 78 quyển, từ quyển 401-478 (ĐTK/ĐCTT, T7, tr 1-426A), với 85 phẩm chính, chia thành 142 phần; phẩm dài nhất ở hội này chỉ gồm bốn phần, như các phẩm thứ 3 (Quán chiếu), phẩm thứ 23 (Vô biên tế), phẩm thứ 68 (Xảo tiện), phẩm thứ 76 (Chúng đức tướng)...
    Các kinh sau đây, đã được dịch trước ngài Huyền Tráng, thuộc về hội này:- Kinh Phóng Quang Bát Nhã: 20 quyển, Vô La Xoa dịch (đời Tây Tấn, No 222, T8).- Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật: 27 quyển, Cưu Ma La Thập dịch (đời Hậu Tần, No 223, T8).
    3) Hội thứ ba: Gồm 59 quyển, từ quyển 479- 537 (ĐTK/ĐCTT, T7, tr 427-761B) với 31 phẩm, chia thành 80 phần. Phẩm dài nhất ở hội này là phẩm Thiện Hiện gồm 17 phần (tr 446C-526B).
    4) Hội thứ tư: Gồm 18 quyển (từ quyển 538-555, ĐTK/ĐCTT, T7, tr 763A-865A) với 29 phẩm, chia làm 32 phần; phẩm dài nhất ở hội này là phẩm thứ ba (Cúng dường Tốt đổ ba), gồm ba phần.
    4 kinh sau đây, đã được dịch trước ngài Huyền Tráng, thuộc về hội này:- Kinh Đạo Hành Bát Nhã: 10 quyển, Chi Lâu Ca Sấm dịch, đời Hậu Hán, No 224, T8- Kinh Đại Minh Độ: 6 quyển, Chi Khiêm dịch, đời Đông Ngô, No 225, T8- Kinh Ma Ha Bát Nhã Sao: 5 quyển, Đàm Ma Bì và Trúc Phật Niệm dịch, đời Tiền Tần, No 226, T8- Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật: 10 quyển, Cưu Ma La Thập dịch, đời Hậu Tần, No 227, T8.
    Còn hai kinh này thì được dịch sau ngài Huyền Tráng- vào đời Tống- cũng thuộc hội thứ tư của Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa: Kinh Phật Mậu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật: 3 quyển, Pháp Hiền dịch (ĐTK/ĐCTT,, No 229, T8).
    5) Hội thứ năm: hội này gồm 10 quyển, từ quyển 556-565, T7, tr 865B-920B, với 24 phẩm, 28 phần (phẩm dài chỉ có hai phần).
    6) Hội thứ sáu: Gồm 8 quyển, từ quyển 566-573, T7, tr 921A-963C, với 17 phẩm, 26 phần. Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật, 7 quyển, do Nguyệt Bà Thủ Na dịch, vào đời Trần (giữa thế kỉ thứ 6 TL), thuộc về hội này (ĐTK/ĐCTT, No 231, T8).
    7) Hội thứ 7: Gồm hai quyển, từ quyển 574-575, T7 tr 963C-964B, được gọi là Mạn Thù Thất Ly Phần (2 phần), hội này cũng được thu vào kinh Đại Bảo Tích, hội thứ 46 (ĐTK/ĐCTT, No 310, tập 11, quyển 115-116, tr 650-657)
    Hai kinh lược dịch vào đời Lương (tiền bán thế kỉ thứ 6 TL) cũng thuộc về hội thứ 7 này:- Kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật: 2 quyển, Mạn Đà La Tiên dịch (ĐTK/ĐCTT, No 232, T8)- Kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Tăng Già Ba La dịch (ĐTK/ĐCTT, No 233, T8)
    8) Hội thứ tám: Gồm 1 quyển (576, T7, tr 974B-979B), được gọi là Na Già Thất Lợi Phần.
    Kinh Phật Thuyết Nhu Thủ Bồ Tát Vô Lượng Thanh Tịnh Phân Vệ, 2 quyển, do Tường Công dịch (đời Lưu Tống, thế kỉ thứ 5 TL, No 234, T8) là thuộc hội này.
    9) Hội thứ 9: Gồm 1 quyển, tức quyển 577 (T7, tr 979C-985C), được gọi là Năng Đoạn Kim Cương Phần, chính là kinh Kim Cương mà phần đông người Phật tử đã biết và trở nên quen thuộc.
    Tưởng nên nhắc lại, trước và sau ngài Huyền Tráng, chúng ta có tới 5 bản dịch kinh Kim Cương sau đây (4 trước, 1 sau):- Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Cưu Ma La Thập dịch (đầu thế kỉ thứ 5 TL), ĐTK/ĐCTT, No 235, T8, tr 748C-752C - Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Bồ Đề Lưu Chi dịch (đời Nguyên Ngụy, đầu thế kỉ 6) ĐTK/ĐCTT, No 236, T8, tr 752C-757A - Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Chân Đế dịch (đời Trần, giữa thế kỉ thứ 6), ĐTK/ĐCTT, No 237, T8, tr 762A- 766C - Kinh Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Cấp Đa dịch (đời Tùy, cuối thế kỉ thứ 6), ĐTK/ĐCTT, No 238, T8, tr 766C-771C - Kinh Phật Thuyết Năng Đoạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa: 1 quyển, Nghĩa Tịnh dịch (đời Đường, đầu thế kỉ thứ 8, sau ngài Huyền Tráng), ĐTK/ĐCTT No 239, T8, tr 771C-775B.
    Trong số này, bản dịch ra đời trước nhất và được phổ biến rộng rãi nhất là bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập. Xin nêu một so sánh:
    - Bài kệ ở cuối pháp thoại ấy, ngài Huyền Tráng dịch:
    "Chư hòa hợp sở vi
    Như tinh, ế, đăng, ảo
    Lộ, bào, mộng, điện, vân
    Ưng tác như thị quán"
    (ĐTK/ĐCTT, T7, tr 985C)
    Bốn bản dịch của các ngài: Bồ Đề Lưu Chi, Chân Đế, Cấp Đa và Nghĩa Tịnh, nơi bày kệ này, cũng giống như ngài Huyền Tráng, tức là sử dụng 9 thí dụ: Tinh (tinh tú), Ế (ảo ảnh của mắt bị bệnh), Đăng (đèn), Ảo (ảo thuật), Lộ (sương mai), Bào (bóng nước), Mộng (chiêm bao), Điện (ánh chớp) và Vân (đám mây) để thâu tóm và khái quát hóa về tính chất vô thường của toàn bộ các pháp hữu vi nơi thế gian. Tham khảo bản dịch tiếng Anh của Edward Conze, chúng ta thấy nơi bài kệ ấy cũng nêu đủ 9 thí dụ như 5 bản dịch kể trên. Điều đó chứng tỏ nơi nguyên bản tiếng Phạn hẳn đã dùng tới 9 thí dụ như thế. Nhưng ở bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập thì nơi bài kệ đó chỉ sử dụng 6 thí dụ mà thôi: "Nhứt thiết hữu vi pháp
    Như mộng ảo bào ảnh
    Như lộ diệc như điện
    Ưng tác như thị quán"
    (ĐTK/ĐCTT, T8, tr 752B)
    "Trong 6 ví dụ của bản dịch ngài La Thập, thì chiêm bao (mộng), ảo thuật (ảo), bóng nước (bào), sương mai (lộ) và ánh chớp (điện) là 5 ví dụ dễ hiểu nhất, và có thể vì vậy mà bản dịch của ngài La Thập đã để nguyên. Còn ảnh tượng (ảnh) thì không có trong 9 ví dụ nơi các bản kia, rõ ràng ngài La Thập đã dùng chữ này (ảnh) để tổng quát 4 ví dụ kia toàn là ảnh tượng; đó là: tinh tú (tinh), ảo ảnh do mắc bệnh (ế), ngọn đèn (đăng) và đám mây..." (HT Trí Quang, Việt dịch Kinh Kim Cương, bản in 1994, tr 261).
    Đúng là một sự thâu tóm thật gọn ghẽ, hợp lý và tài tình biết bao! Chính từ 6 ví dụ nơi bản dịch của ngài La Thập mà kho tàng thuật ngữ về tư tưởng của Trung Hoa đã phong phú thêm lên với sự có mặt của từ Lục dụ hay Lục như (xem Từ Hải, tập Thượng, Tối Tân Tăng đính bản, Đài Loan Trung Hoa thư cục ấn hành, 1994, tr 539B)
    10) Hội thứ 10: Hội này gồm 1 quyển, tức quyển 578 (ĐTK/ĐCTT, T7, tr 986A-991B), được gọi là Bát Nhã Lý Thú Phần. Bốn kinh sau đây, được dịch vào đời Đường (3) và Tống (1) là thuộc về hội này: -Kinh Thật Tướng Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Bồ Đề Lưu Chi dịch, ĐTK/ĐCTT, T8, No 240 Kinh Kim Cương Đỉnh Du Già Lý Thú Bát Nhã: 1 quyển, Kim Cương Trí dịch, ĐTK/ĐCTT, T8, No 241 Kinh Đại Lạc Kim Cương Bất Không Chân Thật Tam Ma Da: 1 quyển, Bất Không dịch, ĐTK/ĐCTT, T8, No 243 Kinh Phật Thuyết Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Thi Hộ (Tống) dịch, ĐTK/ĐCTT, T8, No 242.
    11) Hội thứ 11: Gồm 5 quyển, từ quyển 579-583, T7, tr 991B-1019A, được gọi là Bố Thí Ba Ma Mật Phần, có 5 phần, mỗi phần 1 quyển.
    12) Hội thứ 12: Gồm 5 quyển, từ 584-588, T7, tr 1019B-1044A, được gọi là Tịnh Giới Ba La Mật Phần, chia làm 5 phần nhỏ, mỗi phần 1 quyển.
    13) Hội thứ 13: Chỉ có 1 quyển, quyển thứ 589 (T7, tr 1044A- 1049C), mang tên là An Nhẫn Ba La Mật Phần.
    14) Hội thứ 14: Cũng gồm 1 quyển, quyển 509 (T7, tr 1049-1055), mang tên là Tinh Tấn Ba La Mật Phần.
    15) Hội thứ mười lăm: Gồm 2 quyển 591 và 592 (T7, tr 1055B-1065B) được gọi là Tĩnh Lự Ba La Mật Phần, chia làm 2 phần nhỏ, mỗi phần một quyển.
    16) Hội thứ mười sáu: Gồm 8 quyển, từ quyển 593 đến quyển 600 (T7, tr 1065B-1110B), được gọi là Bát Nhã Ba La Mật Phần, chia làm 8 phần nhỏ, mỗi phần một quyển.

    C/- Một vài ghi nhận thêm:
    Ghi nhận một cách tổng quát về 16 hội của kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa là như thế, sau đây là một số ghi nhận thêm:

    1. Vị đệ tử được Đức Thế Tôn gọi đầu tiên để nhân đấy thuyết giảng diệu pháp là Tôn giả Xá Lợi Tử (Xá Lợi Phất).

    2. Các vị đại đệ tử của Đức Phật có mặt trong kinh, góp phần nêu hỏi sự việc, nhân đấy Đức Thế Tôn quảng diễn giáo pháp gồm: Cụ thọ Xá Lợi Tử, Cụ thọ Đại Mục Liên, Cụ thọ Đại Âm Quang (Đại Ca Diếp), Cụ thọ Chấp Đại Tạng, Cụ thọ Đại Ca Đa Diễn Na (Đại Ca Chiên Diên), Cụ thọ Khánh Hỷ (A Nan), đáng chú ý hơn cả là Cụ thọ Xá Lợi Tử.

    3. Vị đại đệ tử xuất hiện nhiều nhất trong kinh này, không chỉ nêu hỏi, được Đức Thế Tôn nhân đấy thuyết giảng, mà còn góp phần quảnh diễn diệu lý của kinh, là Tôn giả Thiện Hiện (Tu Bồ Đề). Chính thông qua kinh này mà Tôn giả Tu Bồ Đề được xem là vị A La Hán "giải không đệ nhất" trong số mười vị đại đệ tử của Đức Phật.

    4. Các vị Bồ Tát có mặt trong kinh, ít nhiều tham gia vào pháp thoại, như: Bồ Tát Từ Thị, Bồ Tát Thiện Tư, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi, Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh là người được Đức Thế Tôn gọi tên để thuyết giảng phần sau cùng của kinh.

    5. Chư Thiên tham gia nêu hỏi ý nghĩa và được Đức Thế Tôn nhân đấy thuyết giảng, như: Thiên vương Tối Thắng, Thiên vương Quang Đức, một số vị Thiên tử ở cõi Dục và cõi Sắc. Xuất hiện nhiều nhất, tham gia tích cực vào pháp thoại là Thiên Đế Thích (Kiều Thi Ca).

    6. Một số thuật ngữ, tên người, tên đất v.v... được Pháp sư Huyền Tráng sử dụng trong kinh này, hoặc theo lối nguyên âm, hoặc theo lối dịch ý, có sự khác với các vị dịch giả đi trước hoặc sau:- Bạc Già Phạm (Thế Tôn), mười tên hiệu của Phật: Như Lai, Ưng Chánh Đẳng Giác, Minh Hành Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật - Bạc Già Phạm.- Bốn chúng đệ tử: Bísô, Bísôni, Ôbasáchca, Ôbatưca.- Tam bộ chúng: Thiên, Long, Dược Xoa, Kiền Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nai Lạc, Ma Hô Lạc Già.- Sáu độ Ba La Mật: Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát nhã.- Bốn quả Thanh Văn: Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn và A La Hán.- Ba nghiệp: Thân, ngữ, ý.- Ba đường ác: Địa ngục, Quỷ giới, Bàng sinh.- Một vài địa danh: Thệ Đa lâm (rừng Kì Đà), Căng già (sông Hằng), Thất La Phiệt (Xá Vệ)... Một số thuật ngữ: Hữu tình (chúng sinh), Cụ thọ (Tôn giả), Độc giác (Duyên Giác, Phật Bích Chi), Nhất sinh sở hệ (Nhất sinh bổ xứ). Đỗ đa (Đầu đà), Tát ca da kiến (Thân kiến), Tốt đổ ba (tháp), Chế đa (Chi đề- tháp không có thờ xá lợi), Thiết lợi đa (xá lợi), Du thiện na (do tuần), Dị sinh (phàm phu)...

    7. So với một số bộ kinh tiêu biểu trong Hán tạng, kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa rất ít kệ. Và vì sự diễn đạt mang tính chất bao quát, toàn diện và triệt để, nên một số điểm cốt yếu trong kinh đã được lặp lại. Đây là điều mà những người bước đầu tiếp cận với bộ kinh này cần lưu ý.
    Đào Nguyên.
    Nguồn: thuvienhoasen.com
    link download: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
  2. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 3

    Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link


    Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (phiên latinh từ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Maha Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Heart of Perfect Wisdom Sutra, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: 般若波羅蜜多心經; âm Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: Bát nhã ba la mật đa tâm kinh) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link gồm 600 cuốn.

    Kinh này được hầu hết các Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link tại Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, và Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.


    Lịch sử
    Tình trạng xuất hiện của kinh này không được các tác giả thống nhất. Thời điểm ra đời của nó có thể là từ năm Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link đến Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và một số tác giả cho rằng bài kinh này do bồ tát Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (Nàgàrjuna) viết.

    Bản kinh phổ biến nhất ở Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link là bản của sư Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (Tam Tạng) sau khi thỉnh kinh về đã dịch lại vào năm Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Trước đó đã có nhiều sư dịch từ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ra Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link trong đó có Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link-Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link), Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Bát Nhã và Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, và Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    Kinh cũng đã được sự chú giải của rất nhiều sư từ nhiều quốc gia. Riêng ở Việt Nam, người chú giải kinh này đầu tiên là thiền sư Đạo Tuân Minh Chánh ở Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (tỉnh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) thời vua Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    Dị bản
    Về đại cương thì các bản văn đều khá rõ và giống nhau nhưng về chi tiết ngay các bản chữ Phạn để lại cũng có chi tiết khác nhau. Dĩ nhiên là trong các bản dịch đều có những chi tiết khác nhau nhỏ (tiếng Hán, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link).

    Trong thập niên cuối của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link thì bản kinh mới được Samuel Beal dịch ra Anh ngữ.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, một nhà nghiên cứu Phật học Anh (Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link-Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) với nhiều công nghiên cứu đã không thể tìm thấy được bài văn nguyên thủy của kinh này, mặc dù đã có nhiều bằng chứng cho thấy có một nguyên bản ban đầu của kinh này.

    Toàn bộ bộ kinh lớn Đại Bát Nhã cũng đã bị quân Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link tiêu hủy khi họ đánh chiếm Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. (Xem thêm Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.)

    Khi so lại bản dịch phổ biến hiện nay hầu hết dịch lại từ bản Hán ngữ của sư Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link với một phiên bản khác còn lưu lại được trong Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link thì bộ kinh này thiếu vắng phần khai kinh và phần kết luận hoan hỉ vâng làm theo của chư vị nghe giảng kinh. Trong bản dịch từ Tạng ngữ, phần này vẫn còn đầy đủVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Nội dung


    Như vầy một lần tôi nghe:
    Thế Tôn ở thành Vương Xá trên đỉnh Linh Thứu sơn cùng với đại Tăng đoàn và nhiều chư Bồ-tát, vào thời điểm đó, Thế Tôn đã đang nhập chính định về các Pháp giới phân biệt gọi là Cảnh giới trình hiện thậm thâm. Cũng chính tại thời điểm đó, Thánh giả Quán Tự Tại Bồ-tát, một đại thiện tri thức, thực hành thâm diệu Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa, ngài thấy được ngay cả năm uẩn cũngVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link đều thiếu vắng tự tính. Sau đó, thông qua năng lực gia trì của Đức Phật, tôn giả Xá-lợi-phất thông bạch với thánh giả Bồ-tát Quán Tự Tại rằng: "Thiện nam tử nên phát tâm rèn luyện thực hành thâm sâu pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào?".
    Khi điều này được hỏi, Thánh giả Quán Tự Tại Bồ-tát đáp lời tôn giả Xá-lợi-phất rằng: "Này Xá-lợi-phất! Các thiện Nam tử, thiện nữ nhân phát tâm thực hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm diệu nên thấy như sau. Họ nên soi thấy đúng đắn, xuyên suốt và tái lặp là đến cả năm uẩn cũng đều thiếu vắng về tự tính. Sắc tức là không, không tức là sắc. Không [hoạt hành] chẳng khác chi sắc, sắc [hoạt hành] cũng chẳng khác chi Không. Tương tự, thọ, tưởng, hành thức thảy đều là Không.
    Xá-lợi-phất, bởi thế, mọi hiện tượng đều là Không – thiếu vắng các đặc tính xác định; chúng không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm.
    Cho nên, Xá-lợi-phất, trong Không, không có sắc, không thụ, không tưởng, không hành, không thức; không có nhãn, không nhĩ, không tỷ, không thiệt, không thân, không ý; không sắc, không thanh, không hương, không vị, không xúc, không pháp. Không có nhãn giới và vân vân cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh cũng không có diệt hết vô minh, và vân vân cho đến không có già, chết cũng không có diệt hết già chết. Không có khổ, tập, diệt đạo. Không có Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, không có chứng đắc, cũng không có không chứng đắc.
    Xá-lợi-phất, vì không có chứng đắc nên do đó Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link an trụ theo Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì tâm không uế chướng nên không sợ hãi, vượt khỏi sai lầm, đạt cứu cánh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.
    Tất cả chư Phật, an trụ trong tam thế tỉnh thức viên mãn và thấu suốt, cũng y theo Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà được vô thượng, chính đẳng, chính giác.
    Do vậy, phải biết được rằng chú Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa – vốn là đại tri Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, là đại minh chú, là vô thượng chú, là ngang bằng với vô đẳng chú, diệt trừ được mọi khổ não – là chân thật vì nó không sai sót. Chú Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa được tuyên thuyết như sau:
    tadyatha - gate gate paragate parasamgate bodhi svaha!
    (Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn toàn vượt qua, tìm thấy giác ngộ)
    Này Xá-lợi-phất, bằng cách này, các vị đại Bồ-tát nên hành trì trong Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm diệu."
    Sau đó, Thế Tôn xuất khỏi chính định và tán dương Thánh giả Quán Tự Tại Bồ-tát rằng: "Lành Thay!"
    Ngài nói: "Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, Đúng là vậy. Phải nên hành trì Trí huệ Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm diệu như cách ông nói. Ngay cả các Như Lai cũng đều hoan hỷ!"
    Thế tôn nói xong, tôn giả Xá-lợi-phất, Quán Tự Tại Bồ-tát, toàn thể đoàn tùy tùng chung quanh, và giới chúng sinh bao gồm trời, người, a-tu-la, và càn-thát-bà đều hoan hỷ và tán thán điều Thế Tôn dạy.
    Bản dịch phổ thơ lục bát
    Khi hành Bát Nhã Ba La
    Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng
    Thấy ra năm uẩn đều Không
    Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua
    Nầy Xá Lợi Tử xét ra
    Không là sắc đó, sắc là không đây
    Sắc cùng không chẳng khác sai
    Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau
    Thụ, tưởng, hành, thức uẩn nào,
    Cũng như sắc uẩn, một màu không không
    Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng
    Không không tướng ấy, đều không tướng hình
    Không tăng giảm, không trược thanh
    Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng
    Vậy nên trong cái chơn không
    Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần
    Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân
    Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh
    Từ không giới hạn mắt nhìn
    Đến không ý thức, vô minh cũng đồng
    Hết vô minh, cũng vẫn không
    Hết già, hết chết, cũng không có gì
    Không khổ, tập, diệt, đạo kia
    Trí huệ chứng đắc cũng là không không
    Sở thành, sở đắc bởi không
    Các vị Bồ Tát nương tùng huệ năng
    Tâm không còn chút ngại ngăn
    Nên không còn chút băn khoăn sợ gì
    Đảo điên mộng tưởng xa lìa
    Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ
    Ba đời chư Phật sau, xưa
    Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng
    Trí huệ năng lực vô ngần
    Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu
    Trí huệ năng lực có nhiều
    Thật là thần chú trừ tiêu não phiền
    Trí huệ năng lực vô biên
    Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn
    Liền theo lời chú thuyết rằng:
    Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.
    Yết đế, yết đế
    Ba la yết đế
    Ba la tăng yết đế
    Bồ đề Tát bà ha
    Bản dịch giản lược
    (Theo Thiền viện Trúc Lâm Sùng Phúc, Gia Lâm, Hà Nội)
    MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
    Kinh Trí tuệ cứu Kính rộng lớn
    Khi Bồ Tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách.
    Này Xá Lợi Phất, Sắc chẳng khác không, không chẳng khác Sắc, Sắc tức là không, không tức là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như thế.
    Này Xá Lợi Phất, tướng Không của các pháp không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
    Cho nên trong tướng Không
    Không có sắc; không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức;
    Không có Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý;
    Không có Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp;
    Không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới;
    Không có vô minh, cũng không có hết vô minh;
    Cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết.
    Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo;
    Không có Trí tuệ, cũng không có Chứng Đắc,
    Vì có chỗ không được nên Bồ Tát y Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, tâm không ngăn ngại.
    Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn.
    Chư Phật ba đời đều y theo Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa được đạo quả Vô thượng, Chính Đẳng, Chính Giác.
    Nên biết Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chân thật không dối.
    Vì vậy nói Chú Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, liền nói Chú rằng:
    "Yết Đế, Yết Đế, Ba la Yết Đế, Ba la tăng Yết Đế, Bồ Đề tát Bà Ha" (3 lần)
    Bản dịch Việt ngữ của Thi Vũ
    KINH CHÂN TUỆ GIÁC SIÊU VIỆT
    Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Siêu việt, Kẻ Tỉnh thức Quán khổ Trừ nguy nhận chân ra năm hợp thể và thấy suốt tự tánh Không của chúng, liền độ thoát mọi khổ ách.
    "Này người con dòng Sari, hình thể là chân không, chân không là hình thể. Chân không chẳng khác hình thể, hình thể chẳng khác chân không. Mọi hình thể đều chân không, mọi chân không đều hình thể. Cảm xúc, nhận thức, tạo ứng hay ý thức đều như thế cả.
    Này người con dòng Sari, mọi hiển tướng đều mang tự tánh Không. Mọi hiển tướng đều không sinh không diệt, không dơ không sạch, không hề thêm cũng chẳng hề bớt.
    Bởi lẽ đó, này người con dòng Sari, trong chân không không có hình thể, không có cảm xúc, không có nhận thức, không có tạo ứng, không có ý thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có hình, tiếng, mùi, vị, sờ chạm, hiển tướng; không có đối tượng của mắt, suốt đến đối tượng của ý thức cũng không; không có vô minh, không có chấm dứt vô minh, cho đến không có già, chết, cũng không có hết già, chết; không có khổ, không có nguyên nhân của khổ, không có giải thoát, không có con đường giải thoát; không có trí giác, không có tựu thành, vì chẳng có quả vị gì để thành tựu.
    Bởi thế, này người con dòng Sari, nhờ an nhiên bất động với mọi thành quả cá nhân, Kẻ Tỉnh thức nương vào Tuệ giác Siêu việt thoát ly các niệm tưởng. Nhờ ly niệm nên không còn sợ hãi, thắng lướt mọi ảo vọng, và hóa hiện tính an như. Các đấng giác ngộ trong quá khứ, hiện tại và vị lai đều nương theo Tuệ giác Siêu việt mà phát hiện Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
    Cho nên, phải biết rằng Tuệ giác Siêu việt là linh ngữ kỳ vĩ, linh ngữ của huệ trí, linh ngữ tối hậu vô song, mang khả năng lay đổ mọi nghịch cảnh khổ đau. Linh ngữ thoắt sinh từ Tuệ giác Siêu việt này là sự thật, không mảy may dối trá. Câu linh ngữ có khả năng giải phóng đó là: "Độ, độ, siêu suốt mình và độ thoát mọi sinh dân. Giải thoát! Tất thảy cùng về an nhiên nơi chốn."
    Bản Âm Hán
    Bản Chữ Hán
    觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識。亦復如是。舍利子。是諸法空相。 不生不滅。不垢不淨。不增不減。是故空中無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離一切顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒。是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛。故說般若波羅蜜多咒。即說咒曰。揭諦揭諦。波羅揭諦。波羅僧揭諦。菩提婆訶。

    Bản này do Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link dịch.

    Bản Hán-Việt
    Quán-Tự-Tại Bồ-Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
    "Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link bất dị không,Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link diệc phục như thị.
    Xá-Lợi-Tử! thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
    Thị cố không trung vô sắc,vô thọ, tưởng, hành, thức.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly nhất thiết điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn.
    Tam thế chư Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề.
    Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thực bất hư.
    Cố thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa chú. Tức thuyết chú viết:
    Yết-đế, yết-đế, Ba-la yết-đế. Ba-la-tăng yết-đế Bồ-đề tát-bà-ha
    ."
    Bản tiếng Phạn
    Chữ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Chữ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Bản tiếng Phạn
    Chữ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    [​IMG]

    Chữ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link

    Giải nghĩa câu Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Tiếng Phạn
    Chữ Devanāgarī
    Chữ Latin hóa Phát âm (theo Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) Âm Hán Việt Dịch nghĩa
    गते गते Gate gate [gəteː gəteː] Yết đế, yết đế Vượt qua, vượt qua
    पारगते Pàragate [pɑːɾə gəteː] Ba la yết đế Vượt qua bờ bên kia
    पारसंगते Pàrasaṃgate [pɑːɾəsəm gəteː] Ba la tăng yết đế Vượt qua hoàn toàn
    बोधि स्वाहा Bodhi svàhà [boːdɦɪ sʋɑːhɑː] Bồ đề tát bà ha Tuệ giác Thành tựu.
    Theo giảng giải của đức Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link thì mỗi chữ trong câu chú trên tương ứng với một lộ trình tu tập Bồ-tát giới từ thấp đến cao đó là:

    • gate—Lộ trình tích lũy hay tích lũy đạo
    • gate—Lộ trình chuẩn bị hay gia hành đạo
    • paragate—Lộ trình tri kiến hay kiến đạo
    • parasamgate—Lộ trình thiền định hay tu tập đạo
    • bodhi—Lộ trình vô học hay vô lậu học đạo
    Chú thích
    1. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Xem bản dịch đầy đủ từ Tạng ngữ của "Tâm Kinh" bằng Anh ngữ trong cuốn "How to Practice -- The way to a Meaningful Life" GS TS Jeffrey Hopkins. Nhà xuất bản Pocket Books. 2002. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Chương 9 (Trang 159-163)
    2. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Theo như lời giảng của đức Dalai Lama thì trong các bản dịch tiếng Hán và do đó các bản tiếng Việt và Hàn đều bị thiếu đi một chữ quan trọng là chữ "cũng" (also). Ngài có khẳng định đã có kiểm tra và xác nhận lại với các học giả Phạn ngữ về nội dung chữ "cũng" này trong nguyên bản Phạn ngữ. Ngài có gỉai thích về chi tiết là việc hàm ý của chữ đó rằng ngoài tâm thức vốn thiếu vắng tự tính thì chính các uẩn cũng không có tự tính. Tham khảo: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Day 1. After noon session. time: 00:08:00 to 00:13:00
    3. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link không ở đây có nghĩa là trống rỗng, chứ không phải là không theo nghĩa đối nghịch với
    4. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Xem thêm các chi tiết giải thích về các giai đoạn tu tập trong câu chú này qua sách "How to Practice -- The way to a Meaningful Life" của His Holiness the Dalai Lama biên dịch và hiệu đính bởi GS.TS. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Nhà xuất bản Pocket Books. 2002. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Chương 12 (trang 201 -207)
    Tham khảo


    BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA Khi ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, Thực hành sâu về Bát nhã xong; Thấy rằng năm uẩn đều không, Vượt qua ách nạn, ngoài vòng khổ đau.

    Xá Lợi Tử! Không nào khác Sắc, Tự Sắc này nào khác với Không; Không là Sắc, Sắc là Không, Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đồng đều Không.

    Xá Lợi Tử! Tướng Không các pháp, Không giảm tăng, dơ sạch, diệt sanh; Nên trong Không đó Trọn lành, Không Sắc, Thọ, Tưởng, Thức, Hành mảy may.

    Không Mũi, Lưỡi, Mắt, Tai, Thân, Ý, Sắc, Thinh, Hương, Xúc, Vị, Pháp không; Hoàn toàn Nhãn giới là Không, Đến Ý thức giới cũng không tướng hình.

    Vốn không có Vô minh, Già chết, Cũng không hết Già chết, Vô minh, Khổ, Tập, Diệt, Đạo Vô sinh, Đó là sự thật, tướng hình đều không.

    Không có Trí, cũng không có Đắc, Vì vốn Không sở đắc điều chi; Khi vì Bồ Tát hành y, Đối cùng Bát nhã toàn tri thế này!

    Tự Tâm chẳng trong ngoài chướng ngại, Vì vốn không chướng ngại nơi Tâm; Nên không sợ hãi mê lầm, Xa lìa mộng tưởng, Niết bàn an vui.

    Các vị Phật ba đời thế cả, Đã hành y Bát nhã Ma ha; Viên thành tựu quả Phật đà, Tức Vô thượng giác Ngộ qua hoàn toàn.

    Cho nên phải biết rằng Bát nhã, Thật khó mà diễn tả, nghĩ bàn; Vốn là loại Chú Đại Thần, Là Đại Minh Chú toàn chân nhiệm mầu.

    Là Vô thượng Chú cao tột bậc, Khổ toàn trừ chân thật không ngoa; Nói về Bát nhã Ma ha, Tức là phải nói rõ ra Chú này:

    Ngộ qua, ngộ qua, Ngộ qua bờ kia; Ngộ qua hoàn toàn, Trọn lành giác ngộ. Vọng Tâm chuyển ngữ

    ]
    Việt ngữ
    Anh ngữ
    Phạn ngữ
     
    Tinhvott113 and xaodeso like this.
  3. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 3

    GIỚI THIỆU LỊCH SỬ TRUYỀN DỊCH
    BÁT-NHÃ TÂM KINH
    Phước Nguyên

    1/ KINH BẢN VÀ HUYỀN THOẠI
    [​IMG]a. Truyền bản thủ pháp Siddam
    Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối. Hiện tại, có hai lược bản Siddham được lưu trữ tại Nhật Bản, một bản được bảo tồn tại Hasedera (Trường Cốc tự, bản 1), còn một bản khác bảo tồn tại Hòryùji (Pháp Long tự, bản 2). Truyền thuyết cho rằng Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma mang hai bản Tâm kinh Bát-nhã chép bằng mẫu tự Siddam đến Trung Hoa, rồi từ đó được truyền sang Nhật Bản. Nhưng gần đây, qua sự kiểm chứng của các học giả phương Tây, xác định lược bản Siddham bảo tồn tại Hòryùji từ năm 609 đến nay được phiên dịch từ bản Hán ngữ của Huyền Tráng chứ không phải nguyên bản Sanskrit như nhiều vị trước đây đã nhầm lẫn.

    Bởi vì, khi so sánh lược bản Devanagari và bản dịch Hán văn của ngài Huyền Tráng, cũng như bản La-thập, chúng ta thấy rằng có những điểm khác biệt như sau:

    -Bản Devanagari không có câu: Độ nhất thiết khổ ách 度一切苦厄.

    -Bản Devanagari có thêm câu: iha śāriputra rūpaṃ śūnyatā, śūnyataiva rūpam “SẮC ở đây là TÍNH KHÔNG, TÍNH KHÔNG là SẮC[2];

    -Bản Devanagari có thêm: nābhisamayas “và không có hiện chứng”, sau phần "vô trí diệc vô đắc無智亦無得" của bản Huyền Tráng.

    Một điều đáng chú ý là lược bản Siddam 2 lại rất giống với bản Hán văn của Huyền Tráng, tức có những phần thừa thiếu như trên. Vì thế mà một số học giả Tây phương gần đây giả thiết rằng lược bản Siddam 2 này là phiên dịch từ bản của Huyền Tráng, chứ không phải là nguyên bản Sanskrit như F. Max Muller và Nanjo Bujiu đã lầm tưởng.

    Nhưng cũng nên nói thêm rằng, Shotoku Taishi (Thánh Đức thái tử) ban chiếu chỉ kiến lập Hòryùji (Pháp Long tự) vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, tức trong thời gian trị vì của ông từ những năm 593 - 622, mục đích là để làm nơi bảo tồn và thờ kính lược bản Siddam 2 này. Như thế thì các học giả Tây phương đưa ra quan điểm trên đã phạm phải lỗi về thời gian tính, tức lầm lẫn về niên đại của văn bản hoặc sự kiện, vì Huyền Tráng dịch Tâm kinh là vào năm 649, sau sự xuất hiện của bản Siddam 2 này.

    b. Các truyền bản Sanskrit
    Thủ bản Sanskrit được công bố sớm nhất vào năm 1894, do công của học giả Nanjō Bunyū là người đầu tiên khám phá ra hai bản Siddam viết trên lá bối đã nói trên, nhưng ông chỉ tập thành, mà không phiên dịch ra Anh văn, và đăng trong Anecdota Oxoniensia, t.1, tháng 3 (1884).

    Không lâu sau đó, có F. Max Muller là người đầu tiên tập thành và dịch cả hai lược bản và quảng bản từ bản lá bối Siddam lưu trữ ở Nhật tại chùa Hôryoji ra Anh văn in trong Sacred Books of the East (Đông phương thánh thư), tập 49, phần 2, trang 147 – 154; hai bản dịch này cũng được hiệu đính và in trong Buddhist Texts from Japan III, Anecdota Oxoniensia, 1894.

    Nhưng phải đợi đến thời Edward Conze thì Tâm kinh Bát-nhã mới được chú ý nghiên cứu rộng rãi, ông là người đã tập thành hai bản kinh này bằng mẫu tự Devanagari mới được ông tìm thấy ở Bắc Ấn, lược bản do ông biên tập ngày nay vẫn còn đọc được với nhan đề: Prajñāpāramitāhṛdaya-sutra, bản này khá phổ biến và nghiên cứu nhiều nhất, in trong trong Buddhist Sanskrit Texts No. 17, Mahāyāna-sūtra-saṁgrahaḥ (part 1)[3].

    Giáo sư H. W. Bailey cũng khám phá được một quảng bản của Tâm kinh bằng tiếng Ku-stana (Khotan, Vu Điền), được nói là xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VIII, và xác định là dịch phẩm từ quảng bản của Hán văn; thủ bản Ku-stana này hiện được bảo tồn trong Fonds Pelliot Collection của Thư viện Quốc gia Pháp.

    Một thủ bản Sanskrit khác, được công bố tại Paris, in trong Mission Pelliot en Asie centrale: Série in-Quarto[4]năm 1940, bản này không phổ biến cho lắm, có lẽ do vì tả bản có nhiều chữ chép bị lầm và không đầy đủ như bản của Ed. Conze hay D.T.Suzuki.

    D.T. Suzuki dịch lược bản Prajñāpāramitāhṛdaya-sutra và đăng trong quyển 3 Essays in Zen Buddhism (Thiền Luận, Essays III 190), theo ghi nhận của Suzuki ngoài dựa trên bản của Max Muller ông còn tham khảo bản Phạn-Hán của Huyền Tráng, cùng với một số ít thay đổi dựa trên các bản Hán dịch khác; bản của Suzuki cũng có một số khác biệt so với bản P.L. Vaidya, những điểm này sẽ được ghi nhận trong phần chú giải.

    Ngoài ra, còn có H. L. Feer chỉ tập thành và chú giải quảng bản, in trong L"Essence de la Science transcendante en langues, Tibetain, Sanscrit, Mongol (Paris, 1886).

    Còn nói về Truyền bản phiên âm Phạn-Hán của Huyền Tráng, theo sự ghi chép của chính ngài Huyền Tráng, khi đang trên đường đi Ấn độ, lúc còn ngụ tại chùa Không huệ, Ích châu, có gặp một thầy tăng ghẻ choc bệnh hoạn... Huyền Tráng dẫn vào chùa, tặng cho y phục và thực phẩm Thầy tăng bịnh ấy bèn trả ơn bằng cách dạy Pháp sư học thuộc bài kinh Bát-nhã ngắn gọn này. Sau đó, Huyền Tráng tiếp tục hành trình đi Ấn độ, lúc đến sa mạc Gobi (Mạc-hạ-diên/Sa hà) một bãi cát dài mênh mông trên 800 dặm, không chim thú, không cỏ cây, mây nước, gặp phải những gian nan và tân khổ qua những cảnh hoang dã bị bao phủ trong tuyết lạnh, bị cuốn bởi những ngọn gió lốc ào ạt, và thú dữ thường xuyên qua lại, Huyền Tráng một mình một bóng, đã vượt qua khỏi đoạn đường đầy kinh sợ đó bằng lời kinh “Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh” [5]

    Huyền thoại còn kể thêm rằng, về sau, trong thời lưu trú tại Ấn độ, lúc ở tại chùa Na-lan-đà, nước Ma-kiệt-đà (Magadha), bất ngờ gặp lại thầy tăng trước kia. Vị tăng nói:

    “Sư đã lặn lội hiểm nguy, cuối cùng đến được chốn này. Đó là nhờ vào pháp môn tâm yếu của chư Phật ba đời mà tôi đã truyền dạy cho thầy tại Chi-na. Nhờ kinh đó mà thầy được bảo hộ trên suốt cuộc hành trình. Nay đã thỉnh được kinh, chí nguyện của thầy đã trọn vẹn rồi. Ta là Bồ-tát Quán thế âm đây.” Nói xong ngài biến mất vào hư không[6].

    Sau này, trở về Trung Quốc Huyền Tráng khởi sự công trình phiên dịch của mình, bản Hán Tâm Kinh của Huyền Tráng sao lục nguyên văn không nhuận sắc hay sửa đổi vì được nói là do chính Pháp sư Huyền Tráng thọ trì từ đức Bồ-tát Quán Tự tại, tuy rằng nó có nhiều chỗ không đồng nhất với bản phiên âm Phạn-Hán được chép trên vách đá chùa Hưng thiện, Tây kinh. Truyền bản Phạn, từ đó là bản Hán âm và dịch của Huyền Tráng, được gọi là Lược bản.

    Hiện nay vẫn còn đọc được bản Phiên âm Phạn Hán này bảo tồn trong Đại Tạng Kinh 08, số hiệu 0256, Đường Phạn Phiên Đối Tự Âm Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh, 1 quyển.

    Tâm kinh lược bản Sanskrit (P.L. Vaidya) hiện lưu hành về cơ bản tương đương với bản Phiên âm Phạn-Hánchùa Hưng thiện. Sau này, nó được Truyền giáo Đại sư Không Hải, ghi chép mang về Nhật Bản, lưu truyền như là tàng bản tại chùa Pháp long, điều này được ghi nhận trong Đại Tạng Kinh 55, số hiệu 2160, trang 1058b28: 傳教大師將來越州錄: 般若心經梵本漢字一卷 truyền giáo Đại sư tương lai việt châu lục: Bát-nhã tâm kinh Phạn bản Hán tự, 1 quyển.

    Ngoài ra, bản Sanskrit này còn được ghi nhận trong các kinh lục khác của Nhật bản:

    Đại Tạng Kinh 57, số hiệu 2167, Nhập Đường Tân Cầu Thánh Giáo Mục Lục入唐新求聖教目錄, 1 quyển, Nhật Bản Viên Nhân soạn: 唐梵對譯般若心經 Đương Phạn đối chiếu Bát-nhã tâm kinh, 1 quyển[7].

    Đại Tạng Kinh 57, số hiệu 2168b, Huệ Vận Luật Sư Thư Mục Lục, 1 quyển, Nhật Bản Huệ Vận soạn:梵本般若波羅密多心經一卷(醴泉寺般若三藏梵本) Phạn bản Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh (Bát-nhã Tam tạng Phạn bản), 1 quyển[8].

    Còn có các bản khác như: Pháp long tự (Đại hòa), tối cổ Phạn bản; Nguyên lộc 7, Tịnh Nghiêm thư tả, cú nghĩa chú; An chinh 6, Y Thế tông Uyên mô khắc, A-xoa-la thiếp thâu lục v.v..

    2/ TRUYỀN BẢN TÂY TẠNG
    Vào khoảng thế kỷ VIII, các bản Tâm kinh chép bằng tiếng Tây Tạng lần lượt xuất hiện, theo ước tính có tất cả có 7 bản. Người dịch đầu tiên là Vimalamitra, nhưng theo Ed. Conze có ý kiến rằng bản dịch lần hai của Prasastrasena là chính xác nhất.

    Ngoài ra, ở trong Mongolian Kanjur (Đại Tạng kinh Mông Cổ) cũng có một bản, in trong Bí Mật Kinh[9]. Điều đáng chú ý là kinh này không có trong Kinh tạng Pali.

    Gần đây, học giả R. Exell dùng lược bản Sanskrit Devanagari phiên dịch ra Pali, đăng trong The Wisdom gone beyond, do hội Social Science Association Press của Thái Lan phát hành (trang 6).

    Hiện tại có thể tìm thấy trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng, ấn bản Tokyo tồn tại những bản dịch Tâm kinh Bát-nhãnhư sau:

    -Thông trật đệ 88 Na, No. 531, trang 94b1-95b3, བཅོམ་ལྡན་འདས་མ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོ Bcom-ldan-ḥdas-ma śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-po, Bạc-già-phạm-đế Bát-nhã Ba-la-mật đa tâm 薄伽婆帝般若波羅蜜多心 (Skt. Bhagavatīprajñāpāramitāhṛdaya), do Rin-chen sde và Vimalamitra cùng dịch, hiệu đính bởi Dge-blo và Nam-mkhaḥ[10].

    -Thông trật đệ 170Ju, No.2640, trang 243b4-245b2, ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་སྒྲུབ་ཐབས། Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi sgrub-thabs, Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm thành tựu pháp (skt.Prajñāpāramitāhṛdayasādhana), tác giả: Klu-sgrub sñiṅ-po, dịch bản của Klan chuṅ và Vairocanarakṣita, và Rtag lo-tsā-ba hiệu đính.

    -Thông trật đệ 170Ju, No.2641, trang 245b3-246b2, ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་སྒྲུབ་ཐབས་ཞེས་བྱ་བ། Śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi sgrub-thabs shes-bya-ba, Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm thành tựu pháp 般若波羅蜜多心成就法 (skt.pajñāpāramitāhṛdayasādhana-nāma), tác giả: Dārika-pa.

    -Thông trật đệ 197Ma, No.3818, trang 267b1-280b7, འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་རྒྱ་ཆེར་བཤད་པ Ḥphags-pa śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi rgya-cher bśad-pa Thánh Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm (kinh) quảng sớ 聖般若波羅蜜多心(經)廣疏 (Skt. Ārya-prajñāpāramitāhṛdayaṭīkā), tác giả: Vimalamitra, dịch bản của Nam-mkhaḥ ye-śes sde và Vimalamitra.

    - Thông trật đệ 197Ma, No.3819, trang 280b7-286b4, འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་རྣམ་པར་བཤད་པ Ḥphags-pa śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi rnam-par-bśad-pa, Thánh Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm (kinh) giải thuyết 聖般若波羅蜜多心(經)解說 (skt. Ārya-prajñāpāramitāhṛdayavyākhyā ), tạo bởi Jñānamitra.

    -Thông trật đệ 197Ma, No.3820, trang 286b5-295a7, བཅོམ་ལྡན་འདས་མ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་འགྲེལ་པ་དོན་གྱི་སྒྲོན་མ་ཞེས་བྱ་བ Bcom-ldan-ḥdas-ma śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi ḥgrel-pa don-gyi sgron-ma shes-bya-ba 薄伽梵母般若波羅蜜多心(經)註義燈, Bạc-già-phạm mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm (kinh) chú nghĩa đăng (Skt.Bhagavatīprajñāpāramitāhṛdayaṭīkārtha-pradīpa-nāma), tác giả: Phyag-na rdo-rje, dịch sư Seṅ-ge rgyal-mtshan và Phyag-na rdo-rje.

    - Thông trật đệ 197Ma, No.3821, trang 295a7-303b7, འཕགས་པ་ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོ་རྒྱ་ཆེར་འགྲེལ་པ Ḥphags-pa śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-po rgya-cher ḥgrel-pe, Thánh Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm (kinh) quảng chú 聖般若波羅蜜多心 (經) 廣註, (skt. Ārya-prajñāpāramitāhṛdayaṭīka), tác giả: Praśāstrasena

    - Thông trật đệ 197Ma, No.3822, trang 303b7-313a4, ཤེས་རབ་ཀྱི་ཕ་རོལ་ཏུ་ཕྱིན་པའི་སྙིང་པོའི་དོན་ཡོངས་སུ་ཤེས་པ śes-rab-kyi-pha-rol-tu-phyin-paḥi sñiṅ-poḥi don yoṅs-su-śes-pa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh nghĩa chánh tri 般若波羅蜜多心(經)義正知 (skt. Ārya-prajñāpāramitāhṛdayārthaparijñāna), tác giả Śrīmahājana và Seṅ-ge rgyal-mtshan.

    3/ TRUYỀN BẢN HÁN DỊCH
    Bát-nhã Tâm kinh Hán dịch đầu tiên có lẽ được tìm thấy trong Đại Tạng kinh 55, số hiệu 2145, Xuất Tam tạng ký tập 4, bản Kinh lục sớm nhất của Tăng Hựu. Đó là, Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật thần chú, 1 quyển 摩訶般若波羅蜜神咒一卷, và Bát-nhã-ba-la-mật thần chú, 1 quyển 般若波羅蜜神咒一卷. Nhưng cả hai đều được liệt vào các kinh dịch đã thất truyền, do đó không rõ nội dung như thế nào, không biết nó là bản ngắn hay bản dài, hay chỉ là đoạn thần chú[11].

    Đại Tạng Kinh 49, số hiệu 2043, Lịch đại Tam bảo kỷ 4 ghi nhận trong hai bản đó, một bản được Phí Trường Phòng liệt vào các kinh dịch đời Hậu Hán nhưng đã thất truyền, nhan đề là: Bát-nhã ba-la-mật thần chú kinh, 1 quyển (hoặc không có chữ Kinh) 費長房 歷代三寶紀 般若波羅蜜神咒經一卷(或無經字)[12].

    Bản thứ hai cũng trong Lịch đại Tam bảo kỷ 4: Ma-ha Bát- nhã ba-la-mật chú kinh, 1 quyển (thấy trong Bảo xướng lục, hoặc gọi là Bát-nhã ba-la-mật chú kinh). 摩訶般若波羅蜜咒經一卷見寶唱錄或直云般若波羅蜜咒經) được liệt trong số các kinh dịch thời Ngô Ngụy (Tam quốc), xác định là do Ưu-bà-tắc Chi Khiêm (phiên dịch, A.D. 223-253), người Nhục-chi, dịch dưới thời Ngụy Văn đế[13]. Bản này hiện cũng thất truyền.

    Theo truyền thống Hán Tạng thì bản dịch sớm nhất là có lẽ của Chi Khiêm, năm 223, nhưng đã thất lạc. Hiện lưu truyền trong Đại Tạng Kinh Hán dịch, chỉ thấy hai bản dịch Tâm kinh bản ngắn:

    - Đại Tạng Kinh 08, No. 0250, Ma Ha Bát-nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh, 1 quyển, Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch. Bản này là bản dịch sớm nhất hiện còn, được dịch năm 402 đời nhà Tần.

    -Đại Tạng Kinh 08, No.0251, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh, 1 quyển, Đường Huyền Tráng dịch. Bản này dịch sau bản La-Thập hơn hai trăm năm, ngài Huyền Tráng vào năm 649, đầu tiên được khắc vào bia đồng trước cổng chùa Bạch Mã nơi Huyền Tráng trụ trì và dịch thuật kinh điển.

    Nếu đem so sánh với truyền bản của Huyền Tráng, thì bản của La Thập cho thấy gần hơn với một đoạn trong Tạng Kinh 08, số hiệu 223, Đại phẩm Bát-nhã, quyển 1, phẩm 3 “Tập tương ưng” 摩訶般若波羅蜜經卷第一習應品第三[14]; hay Đại Tạng Kinh 07, số hiệu 220, Đại bát-nhã, phần hai, quyển 403, phần II, phẩm 3 “Quán chiếu”大般若波羅蜜多經卷第四百三 第二分觀照品第三之二[15].

    Ngoài ra, còn có ngài Nghĩa Tịnh dịch lược bản, đại khái như bản Huyền Tráng, duy phần chú thì dùng Siddam chứ không dịch âm Phạn-Hán. Cả ba lược bản này về ý nghĩa tương đối giống nhau, duy bản Huyền Tráng vì văn chương lưu loát hơn cả, nên rất được phổ biến.

    Tâm kinh Quảng được Pháp Nguyệt dịch năm 732, rồi đến Bát-Nhã và Lợi Ngôn trùng dịch năm 790. Cho đến Thi Hộ đời nhà Tống dịch lần cuối, cộng lại có tất cả 7 bản, nếu ta kể cả bản của Pháp Thành đời nhà Đường vừa tìm thấy ở Đôn Hoàng. Tâm kinh Bát-nhã quảng bản và những bản chú giải có tham khảo thêm ở trong Đại Chánh Tân Tu:

    -Đại Tạng Kinh 09, No. 0252, Phổ Biến Trí Tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh普遍智藏般若波羅蜜多心經, 1 quyển, Đường Pháp Nguyệt trọng dịch.

    - Đại Tạng Kinh 09, No. 0253, Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh般若波羅蜜多心經, 1 quyển, Đường Bát-nhã và Lợi Ngôn cùng dịch.

    - Đại Tạng Kinh 09, No. 0254, Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm Kinh 般若波羅蜜多心經, 1 quyển, Đường Trí Tuệ Luân dịch.

    - Đại Tạng Kinh 09, No. 0255, Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh (bản Thạch thất Đôn hoàng) 般若波羅蜜多心經 (燉煌石室本),Tam tạng Pháp sư Sa môn Pháp Thành dịch.

    - Đại Tạng Kinh 09, No. 0257, Phật thuyết Thánh Phật mẫu Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, Thi Hộ dịch 佛說聖佛母般若波羅蜜多經.

    Hiện nay, còn bảo tồn được khá nhiều bản sớ giải, xin lược nêu một vài bản như sau:

    Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1710, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh U Tán, 2 quyển, [ Đường Khuy Cơ soạn.

    Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1711, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh Tán, 1 quyển, Đường Viên Trắc soạn.

    Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1712, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh Lược Sớ, 1 quyển, Đường Pháp Tạng thuật.

    Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1713, Bát-nhã Tâm Kinh Lược Sớ Liên Châu Kí, 2 quyển, Tống Sư Hội thuật.

    Đại Tạng Kinh 33, số hiệu 1714, Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh Chú Giải, 1 quyển, Minh Tông Lặc và Như Khí đồng chú.

    4/ BẢN DỊCH NGÔN NGỮ PHƯƠNG TÂY
    a/Tiếng Anh

    Riêng về bản dịch Anh ngữ có những vấn đề riêng của nó, hiện nay có rất nhiều bản dịch Anh từ bản Sanskrit và bản Hán Huyền Tráng, mỗi bản đều có một vài khuyết điểm riêng, hoặc không sát nghĩa, hoặc dài dòng lủng củng. Vì vậy, trong phần phụ lục văn chúng tôi sẽ tổng hợp các bản dịch của Suzuki và Garma Chang, bỏ đi những đoạn dư thừa, thêm vào chỗ thiếu sót, để tạo thành một bản Anh dịch tạm gọi là đầy đủ và sát nghĩa nhất làm dịch bản cho bản Sanskrit Vaidya và Hán bản của ngài Huyền Tráng.

    Những bản dịch Anh có thể tìm kiếm dễ dàng trên mạng Internet, ở đây chỉ xin nêu một số bản dịch phổ biến như sau:

    Như đã nói ở phần đầu, bản dịch đầu tiên do Nam Điều & Muller tựa đề: The Smaller Pragñâ-pâramitâ-hridaya-sûtra, in trong Sacret Books of the East vol. xlix, 1894, bản này được dịch từ nguyên bản Sanskrit, ông còn dịch cả bản quảng bản Tâm kinh: The Larger Pragñâ-pâramitâ-hridaya-sûtra.

    Bản dịch thứ hai, D.T. Suzuki dịch và in trong Essays in Zen Buddhism v.3 (Thiền Luận tập 3) của kèm theo bản Sanskrit Devanagari.

    Bản dịch Anh thứ ba hiện khá phổ biến của Ed. Conze, tựa đề: The Perfection of Wisdom, dịch và hiệu chú từ bản Sanskrit, bản này văn nghĩa sáng tỏ, gãy gọn nên được giới học giả rất ưa chuộng[16].

    Ngoài ra có thể tham khảo thêm một số bản dịch khác như sau:

    - Geshe Rabten, Echoes of Voidness, Wisdom, Includes the Heart Sutra with Tibetan commentary 1983.

    - Donald S. Lopez, Jr. The Heart Sutra Explained, SUNY, The Heart Sutra with a summary of Indian commentaries, 1987.

    - Thích Nhất Hạnh, The Heart of Understanding, Parallax Press, The Heart Sutra with a Vietnamese Thiền commentary, 1988.

    - Norman Waddell, Zen Words for the Heart: Hakuin's Commentary on the Heart Sutra Shambhala Publications, Hakuin Ekaku's commentary on Heart Sutra, 1996.

    - Donald S. Lopez, Jr. Elaborations on Emptiness, Princeton, The Heart Sutra with eight complete Indian and Tibetan commentaries, 1998.

    - Edward Conze, Buddhist Wisdom: The Diamond Sutra and The Heart Sutra, Random House, The Diamond Sutra and The Heart Sutra, along with commentaries on the texts and practices of Buddhism, 2001.

    -Tetsugen Bernard Glassman, Infinite Circle: Teachings in Zen, Shambhala Publications, Translations and commentaries of The Heart Sutra and The Identity of Relative and Absolute as well as Zen precepts, 2003.

    -Geshe Sonam Rinchen, Heart Sutra: An Oral Commentary, Snow Lion, Concise translation and commentary from a Tibetan Buddhist perspective, 2003.

    -Red Pine, The Heart Sutra: the Womb of Buddhas, Counterpoint, Heart Sutra with commentary 2004.

    -14th Dalai Lama, Essence of the Heart Sutra, Wisdom Publications, Heart Sutra with commentary by the 14th Dalai Lama, 2005.

    -Geshe Tashi Tsering, Emptiness: The Foundation of Buddhist Thought, Wisdom Publications, A guide to the topic of emptiness from a Tibetan Buddhist perspective, with English translation of the Heart Sutra, 2009.

    -Karl Brunnholzl, The Heart Attack Sutra: A New Commentary on the Heart Sutra, Shambhala Publications, Modern commentary, 2012.

    -Doosun Yoo, Thunderous Silence: A Formula For Ending Suffering: A Practical Guide to the Heart Sutra, Wisdom Publications, English translation of the Heart Sutra with Korean Seon commentary, 2013.

    Kazuaki Tanahashi, The Heart Sutra: A Comprehensive Guide to the Classic of Mahayana BuddhismShambhala, Publications English translation of the Heart Sutra with history and commentary, 2015.

    Beal, Samuel, “The Páramitá-hridaya Sútra, or, in Chinese ‘Mo-ho-pō-ye-po-lo-mih-to-sin-king’, i.e. ‘The Great Páramitá Heart Sútra’.” Journal of the Royal Asiatic Society of Great Britain and Ireland 1 (1865). 25-29.

    - Hurvitz, Leon, “Two Polyglott Recensions of the Heart Scripture.” Journal of Indian Philosophy 3 (1975). 61-66.

    - Charles Luk Hong Kong (?): n.d., The Heart Sutra. Translated into Chinese from Sanskrit by Hsuan Tsang. Translated into English from Chinese Version by Upasaka Lu K'uan-Yu 〔Charles Luk〕.陸寬昱居士(由中譯英)『心經』.

    b/Tiếng Pháp

    Những bản dịch và chú giải Tâm kinh bằng Tiếng Pháp không có phong phú cho lắm, một số văn bản nên tham khảo như sau:

    -Sa Sainteté le Dalaï-lama, Leçons de sagesse. Le soutra du cœur (2005), trad., Pocket, coll. "Littérature", 2006, 208 p.

    - Albert Low, Que suis-je ? Comment lire le Sûtra du Cœur (2010), trad., iUniverse.com, 2011, 140 p.

    -Lama Denys, Le sutra du cœur, Prajña, 2003, 89 p.

    c/Tiếng Đức

    Hiện tại, có thể tìm thấy năm bản dịch Tâm kinh bằng tiếng Đức riêng lẻ hoặc trong các bản chú giải:

    -Taisen Deshimaru Roshi: Hannya-shingyô. Das Sutra der Höchsten Weisheit. Kristkeitz, Heidelberg-Leimen 2002.

    -Thích Nhất Hạnh: Mit dem Herzen verstehen. 7. Aufl. Theseus, Berlin 2000.

    -Dalai Lama: Der buddhistische Weg zum Glück. Das Herz-Sutra. Barth, Frankfurt a.M. 2004.

    -Agetsu Wydler Haduch: Das Herz-Sutra = Maka hannya haramita shingyo. 4. Aufl. Zentrum für Zen-Buddhismus, Zürich 2001.

    -Geshe Rabten: Essenz der Weisheit. Ein Kommentar zum Herzsutra. Dharma edition, Hamburg 1990.

    5/TÂM KINH TIẾNG NHẬT
    Dưới đây là một số bản Tâm kinh và sớ giải Nhật ngữ hiện đại:

    - Kim cang tú hữu 金岡秀友『般若心経 bát-nhã tâm kinh』 講談社文庫 Giảng đàm xã văn khố, 1973, 講談社学術文庫giảng đàm xã học thuật văn khố, 2001年。

    - Phước tỉnh văn nhã 福井文雅 『般若心経の歴史的研究』 春秋社 xuân thu xã, 1987年。

    - Phước tỉnh văn nhã 福井文雅 『般若心経の総合的研究:歴史・社会・資料』 春秋社 xuân thu xã, 2000年。

    - Dũng tỉnh hòa 涌井和 『般若心経を梵語原典で読んでみる -サンスクリット入門-』 明日香出版社minh nhật hương xuất bản xã, 2002年。

    - Sơn trung nguyên 山中元 『サンスクリット文法入門 -般若心経、観音経、真言を梵字で読む-』 国際語学社 quốc tế ngữ học xã, 2004年。

    - Cung phản hựu hồng宮坂宥洪 『真釈般若心経』 角川ソフィア文庫、2004年。

    - Phước tỉnh văn nhã 福井文雅 『ヨーロッパの東方学と般若心経研究の歴史』 五曜書房ngũ diệu thư phòng, 2008年。

    - Nguyên điền hòa tông 原田和宗 『「般若心経」の成立史論 大乗仏教と密教の交差路』 大蔵出版 Đại tạng xuất bản, 2010年。

    7/BẢN TIẾNG VIỆT

    Hiện tại, có khá nhiều bản dịch Việt ngữ Tâm Kinh Bát-nhã, sơ bộ có khoảng 30 bản dịch sang tiếng Việt dạng văn xuôi, văn vần, thơ v.v..

    Xin giới thiệu một số bản dịch mang tính học thuật và văn chương có thể dùng để tham khảo như sau:

    -Trưởng lão Thích Trí Thủ, Tâm kinh Bát-nhã Ba-la-mật dịch và chú giải, Quảng Hương Già Lam ấn hành, 1982.

    -Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Kinh tinh yếu Bát-nhã, dịch và in trong Nhật tụng thiền môn, 2000. Ngoài ra còn viết kèm theo bản luận giảng Trái Tim Mặt Trời.

    -Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, dịch và chú giải bản Anh ngữ của D.T. Suzuki trong Thiền Luận tập 3, sau in lạiThiền và Bát-nhã, viết công phu phần dẫn vào tâm kinh, dịch đầy đủ các lược bản và quảng bản Hán ngữ Tâm kinh, phụ lục các văn bản liên quan.

    -Thích Phước Nguyên, Kinh Tinh Hoa Trí Tuệ Siêu Việt Toàn Hảo, dịch từ nguyên bản Sanskrit, so sánh với các truyền bản Sanskrit, đối chiếu bản Tây Tạng, và dịch các bản Hán ngữ quảng bản và lược bản v.v..

    Ngoài ra còn các bản dịch Hán ngữ như của Trưởng lão Thanh Từ, Hòa Thượng Từ Thông, Chánh Trí Mai Thọ Truyền, v.v.. dịch từ bản La-thập.

    Đa phần các bản Việt dịch từ Hán ngữ do ảnh hưởng cấu trúc ngữ pháp Hán, và chưa có điều kiện tham khảo các thư tịch tiếng Phạn, nên không tránh khỏi sự ngắt câu sai lệch, hay hiểu sai nội hàm của từ, nên dẫn đến việc hiểu lầm những ý nghĩa của Tâm kinh, điều này đã được Thượng tọa Tuệ Sỹ ghi nhận và phân tích cặn kẽ ở trong phần dẫn vào tâm kinh của tập Thiền và Bát-nhã, ở đây không cần thiết phải lập lại. Những điều cần thiết khác sẽ được trình bày ở các phần tiếp sau của tập chú giải.


    [1] Siddam, phát triển từ lối Brahmin style cổ xưa. Viết từ phải sang trái. Được sử dụng ở miền Bắc Ấn vào đầu thế kỷ I, và ở Nam Ấn khoảng thế kỷ IV-V. Từ Bắc Ấn, thư pháp này biến dạng theo lối gupta (gypta style) và truyền vào Trung quốc và Nhật Bản. Lối Nam Ấn được truyền vào Kucha và Khotan. Đến thế kỷ thứ XI, Devanagari mới xuất hiện.

    [2] Xem bản dịch Việt từ bản Sanskrit của Phước Nguyên.

    [3] Prajñāpāramitāhṛdayasūtram, Vaidya, Dr. P.L ed., Buddhist Sanskrit Texts No. 17 Mahāyāna-sūtra-saṁgrahaḥ (part 1). Darbhanga :The Mithila Institute, 1961.

    [4] Benveniste, Texts sogdiens, Mission Pelliot en Asie centrale: Série in-Quarto, 3. Paris, 1940, 142-143. Cf. David A. Utz, A Survey of Buddhist Sogdian Studies (Bibliographia Philologica Buddhica Series Minor III), Tokyo: The reiyukai Library 1980.

    [5]T50n2053, tr.224b6: Đại Từ ân tự Tam tạng Pháp sư truyện大慈恩寺三藏法師傳, quyển 1.

    [6] T8n256唐梵飜對字音般若波羅蜜多心經(并序 [燉煌出 S. 700])述序大興善寺石璧上錄出慈恩和尚奉Tựa bản phiên âm Phạn-Hán của Tâm kinh Bát-nhã, lược bản, khắc trên vách đá chùa Đại hưng thiện.

    [7] T55n2167, tr. 1085c25.

    [8] T55n2168B, tr. 1090b05.

    [9] T.12, tr. 44a 45b.

    [10] Peking:Rgyud (na)39b-41a 奈塘版:Śer-phyin sna-tshogs (ka)262b-264aRgyud (da)92a-94a 德格版:Śes-phyin (ka)144b-146aRgyud-ḥbum (na)94b-95b 拉薩版:Śer-phyin sna-tshogs (ka)259a-261aRgyud (tha)45a-47a 卓尼版:Rgyud (na)43b-45a.

    [11] T55n2145, tr.31b9, ibid., tr.31b10:出三藏記集錄下卷第四 釋僧祐撰 新集續撰 失譯 雜 經錄第一: 摩訶般若波羅蜜神咒一卷, 般若波羅蜜神咒一卷(異本).

    [12] T49n2034, tr. 55c1.

    [13] Ibid., tr. T49n2034, tr. 58b9: 摩訶般若波羅蜜咒經一卷(見寶唱錄或直云般若波羅蜜咒經)

    [14] T8n223, tr. 223a9-223a25 摩訶般若波羅蜜經卷第一習應品第三. Cf. T25n1509, tr. 327c11-328a18: Đại trí độ, quyển 36, giải thích phẩm 3 “Tập tương ưng” 大智度論釋習相應品第三 (卷三十六)

    [15] T7n220, tr. 14a07-14a2: Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, Huyền Tráng, quyển 403, phần II, phẩm 3 “Quán chiếu”;大般若波羅蜜多經卷第四百三 第二分觀照品第三之二.

    [16] Cf. Edward Conze (1948) ‘Text, Sources, and Bibliography of the Prajñāpāramitā-hṛdaya.’ Journal of the Royal Asiatic Society, April 80(1-2): 33-51; (2000) Prajnaparamita Literature Munshiram Manoharlal Publishers (originally published 1960 by Mouton & Co.); (1967) ‘The Prajñāpāramitā-Hṛdaya Sūtra’ in Thirty Years of Buddhist Studies: Selected Essays, Bruno Cassirer. p. 147-167; Buddhist Wisdom Books: Containing the "Diamond Sutra" and the "Heart Sutra" (New edition). Thorsons, 1975.
     
  4. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 3

    Huyền Trang


    Về nhân vật trong Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, xem Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Tam Tạng Pháp sư Đường Tăng; Thạch thất Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Trần Huyền Trang (Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link: 玄奘; bính âm: Xuán Zàng; khoảng Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link), cũng thường được gọi là Đường Tam Tạng hay Đường Tăng, là một Cao tăng Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, một trong bốn Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link lớn nhất, chuyên dịch kinh sách Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ra Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Nhà sư cũng là người sáng lập Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. fǎxiàngzōng 法相宗), một dạng của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 唯識宗, sa. yogācāra, vijñānavāda) tại Trung Quốc. Danh hiệu Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link được giới tăng sĩ tôn xưng để tôn vinh ông là người tinh thông cả Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Kinh điển Phật giáo.


    Cơ duyên và thành tích
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Huyền Trang trên đường Ấn Độ
    Huyền Trang tên tục Trần Huy (Trần Vĩ hoặc Trần Y 陳褘) sinh năm 602, có thuyết nói là năm 600 (niên hiệu Khai Hoàng thứ 20, đời Tùy), tại Lạc Châu (洛州), huyện Câu Thị (緱氏縣), tỉnh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, trong một gia đình có truyền thống quan lại. Đến cha của Huyền Trang là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link thì dốc tâm vào Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, khước từ làm quan. Theo các truyện ký thì từ nhỏ Sư nổi danh thông minh đĩnh ngộ, sớm được Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link chỉ dạy những Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    Năm lên 13 tuổi Sư đã xuất gia và thọ giới cụ túc năm 21 tuổi. Sư tu học Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link dưới nhiều Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link khác nhau và thấy có nhiều chỗ giảng giải Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Đây là lý do chính thúc đẩy Sư lên đường đi Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link để tự mình tìm hiểu.

    Mặc dù bị Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link ra lệnh cấm đi du hành qua Ấn Độ, năm Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Sư liều mình ra đi để Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link chiêm bái quê hương Đức Phật, hi vọng sẽ tìm kiếm và nghiên cứu Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link mà hồi đó Trung Quốc chưa biết tới. Tập Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link của Sư (viết theo yêu cầu của nhà vua, người đã khâm phục và hỗ trợ Huyền Trang sau khi Sư vinh quang trở về năm 645), có tên là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, để lại cho hậu thế một nguồn tài liệu vô song về Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link của miền Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và Ấn Độ trong thế kỉ thứ bảy. Nhiều miêu tả của Sư về các vùng đất đó đã đạt tới độ chính xác mà trong thế kỉ 19, 20, nhiều Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link như Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link đã tham khảo tập ký sự đó như một tập sách hướng dẫn nhằm tìm lại và xác định những vị trí đã được tìm ra và rồi bị lãng quên trong nhiều thế kỉ.

    Sau khi trở về cố quốc, một phần nhờ trình độ uyên bác xuất chúng, một phần nhờ tiếng tăm vang dội mà Sư đã gặt hái được tại Ấn Độ và các nước Trung Á, một phần nhờ hoàng đế Trung Quốc đặc biệt hỗ trợ, như xây cất Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link cho Sư trú ngụ cũng như thành lập một ban dịch thuật do chính nhà vua chọn lọc để giúp cho Sư hoàn thành công tác phiên dịch của hơn 600 kinh sách mang về Trung Quốc, Huyền Trang đã trở thành Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link tiếng tăm nhất tại vùng Đông Á trong thế hệ đó. Học viên đến với Sư từ khắp Trung Quốc, kể cả từ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, song song có nhiều tăng sĩ từ Ấn Độ và các vương quốc Trung Á đến để bày tỏ lòng hâm mộ. Ngoài việc truyền bá kinh sách Phật giáo và tư tưởng Ấn Độ mới mẻ vào Trung Quốc, Sư cũng gây ảnh hưởng lên nền Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link bằng những vật dụng và Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link do Sư mang về. Có một ngôi chùa được xây theo thiết kế của Sư tại Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (ngày nay là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) để chứa dựng kinh sách và các tác phẩm nghệ thuật của Sư mang về. Ngôi chùa đó ngày nay vẫn còn và là một dấu ấn quan trọng của đô thị này.

    Sư là một trong những dịch giả người Hán dịch các văn bản của Phật giáo Ấn Độ vĩ đại nhất và mang lại thành quả lớn lao nhất (và cũng chính xác nhất). Nhiều dịch phẩm của Sư, như Tâm kinh và Kim Cương kinh, ngày nay vẫn còn đóng một vai trò quan trọng trong việc hành lễ Phật giáo hàng ngày. Quy mô của các dịch phẩm của Sư là vô song, không chỉ những kinh sách của Duy thức tông mà Sư quy phục, mà còn bao gồm đầy đủ những kinh tạng đạo Phật, từ phép chỉ quán và đà-la-ni, đến phép quán tưởng, đến a-tì-đạt-ma cũng như toàn bộ kinh bát-nhã ba-la-mật (bộ kinh này chiếm ba bộ của Địa tạng Trung Quốc), kinh A-hàm, kinh Đại thừa, các chú giải về kinh và luận, Nhân minh học (Sư là người duy nhất dịch kinh luận Nhân minh ra chữ Hán) và kể cả một văn bản Thắng luận của Ấn Độ giáo.

    Trong thời Huyền Trang còn tại thế, Phật giáo Trung Quốc có nhiều trường phái và học thuyết được thành hình, họ tranh cãi nhau về các vấn đề cơ bản. Trong số đó, nhiều trường phái dựa trên các kinh sách không rõ xuất xứ nhưng được xem là phiên dịch từ nguồn gốc Ấn Độ. Một số khác dựa trên kinh sách đích thật nhưng các bản dịch thiếu chính xác đã gây ra nhiều nhầm lẫn, ngày một phổ biến tại Trung Quốc và Triều Tiên. Sau 16 năm tại Trung Á và Ấn Độ, trở về Trung Quốc, Huyền Trang cống hiến đời mình bằng cách đưa Phật giáo Trung Quốc thời đó trở lại phù hợp với những gì Sư học hỏi được tại Ấn Độ. Sư thực hiện điều đó bằng cách phiên dịch lại các kinh sách quan trọng, trình bày lại một cách chính xác hơn cũng như giới thiệu những kinh sách mới và nhiều tài liệu chưa hề có tại Trung Quốc. Song song với công trình dịch thuật khổng lồ – 74 bộ kinh luận trong 19 năm – trong đó có một số kinh với quy mô to lớn, như bộ Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật-đa đã nhắc đến dài hàng ngàn trang – Sư còn đào tạo tăng sĩ học tập hệ thống Duy thức và Nhân minh Ấn Độ, đồng thời Sư là tăng sĩ biện giải số một của triều đình cho đến ngày nhập diệt. Công trình dịch thuật của Sư ghi dấu ấn sâu sắc sự thâm nhập của tư tưởng Phật giáo Ấn Độ vào miền Đông Á.

    Du hành Ấn Độ
    Nguyên nhân đi Ấn Độ
    Khoảng đầu thế kỉ thứ bảy, kinh sách Phật giáo của Trung Quốc gồm có vô số những bản dịch và văn bản chữ Hán, đại diện và làm nền tảng cho nhiều quan điểm đối chọi nhau, tất cả đều tự nhận mình là "Phật giáo". Trên một chừng mức nhất định, Phật giáo Trung Quốc của thế kỉ thứ sáu có thể được xem là một trường tranh cãi giữa các trường phái của Duy thức tông, tức là giáo pháp được ghi lại trong các tác phẩm của Vô Trước và Thế Thân. Thế nhưng, các điểm chi tiết của hệ thống này, cả về mặt cơ bản lẫn luận giải, là đối tượng của những cuộc tranh cãi triền miên.

    Trong không khí đó thì cậu tiểu tăng Huyền Trang học tập và trưởng thành với kinh sách Phật giáo nói trên. Sư được tham cứu kinh sách cùng với tăng già với số tuổi mười ba. Nhà Tuỳ (589-618) suy tàn, chiến tranh và nội loạn gây ra chết chóc và bất ổn trong nhiều vùng Trung Quốc, vì thế nhiều tăng sĩ và học trò kéo nhau về Trường An, kinh đô của nhà Đường, nơi mà các vị đó được ủng hộ trong việc tu hành và giáo hóa một cách tương đối an toàn. Huyền Trang cũng về Trường An và sau khi theo học với nhiều vị sư tiếng tăm, Sư đã được biết là một người học rộng và có tư chất. Thế nhưng Sư sớm kết luận là mọi tranh cãi và diễn dịch khác nhau trong Phật giáo Trung Quốc là hậu quả của sự thiếu thốn kinh sách chủ chốt viết bằng tiếng Hán. Đặc biệt, Sư cho rằng một bản dịch đầy đủ của bộ Du-già sư địa luận, một bộ luận bách khoa của phái Duy thức tông miêu tả con đường dẫn tới Phật quả của Vô Trước, sẽ có khả năng giải quyết mọi tranh chấp. Trong thế kỉ thứ sáu đã có một vị tăng Ấn Độ là Chân Đế (một Đại dịch giả khác) đã dịch một phần tác phẩm đó. Huyền Trang thấy mình phải dịch trọn bộ luận Ấn Độ này và giới thiệu cho Trung Quốc.

    Hoạt động tại Ấn Độ
    Mặc dù nhà vua cấm Huyền Trang ra đi, Sư vẫn lên đường, trải qua nhiều gian khổ trên đường băng qua núi non và Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, đối diện với Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, và cuối cùng sau một năm, Sư tới Ấn Độ. Khi tới nơi, Sư nhận ra rằng sự khác biệt giữa Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và Trung Quốc không phải chỉ ở vài chương thiếu sót của một Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Từ trên một Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link nay, Phật giáo Ấn Độ nằm trong vòng cương toả của lý luận duy lý của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và dù một số bài luận về Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link của Trần-na đã được phiên dịch thì lý luận Phật giáo – nay đã trở thành một phần không tách rời khỏi Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Phật giáo Ấn Độ – vẫn hoàn toàn chưa ai biết tới tại Trung Quốc. Huyền Trang cũng khám phá được rằng, tư tưởng Phật giáo mà người Phật tử hay tranh luận và diễn dịch mênh mông hơn, lớn rộng hơn nhiều so với những tài liệu lưu hành tại Trung Quốc: nhiều quan điểm Phật giáo được tôi luyện trong các cuộc tranh luận nghiêm túc giữa các Phật tử và người ngoài, các quan điểm đó không hề được biết tới tại Trung Quốc và những từ ngữ, khái niệm trong các cuộc tranh luận giàu nội dung đó có ý nghĩa rất rõ rệt. Trong khi tại Trung Quốc thì tư tưởng Duy thức và tư tưởng Như lai tạng không thể phân chia được, thì trong quan điểm kinh viện của Duy thức Ấn Độ, tư tưởng Như lai tạng không được nhắc tới, thậm chí bị từ chối. Nhiều nội dung chủ yếu của Phật giáo Trung Quốc (thí dụ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) và các kinh sách quan trọng (thí dụ Đại thừa khởi tín luận) thì hoàn toàn không được Ấn Độ biết tới.

    Huyền Trang ở lại Ấn Độ nhiều năm để học tập với những vị thầy danh tiếng nhất, chiêm bái các Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và tham gia vào các cuộc tranh luận với những Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, đả bại tất cả những đối thủ và trở nên nổi tiếng là một nhà tranh luận cứng rắn. Sau một loạt tranh luận với hai đại diện của Trung quán tông (môn đệ kế thừa quan điểm Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link), Sư viết một bài luận giải bằng tiếng Phạn với ba ngàn câu kệ nói về "Điểm không khác biệt giữa Trung quán và Duy thức" mà ngày nay không còn. Sau khi hứa với Giới Hiền, thầy dạy của Sư tại đại học Na-lan-đà (trung tâm tu học Phật pháp thời bấy giờ) là sẽ trình bày lý luận của Trần-na tại Trung Quốc, Sư trở về quê hương với hơn 600 bộ kinh luận viết bằng Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    Công trình biên dịch
    Với hi vọng sẽ thu lượm được các thông tin quan trọng cho chiến lược quân sự của mình, nhà vua đưa Huyền Trang vào ở một tu viện đặc biệt gần kinh đô và chỉ định nhiều học giả thông thái thời ấy giờ hỗ trợ cho Sư trong công trình biên dịch. Mặc dù từ chối cung cấp cho vua các thông tin có thể dùng trong chiến trận, Sư viết một tập du ký miêu tả những nơi đã từng đi qua, đặc biệt là những thánh tích Phật giáo Sư đã đến chiêm bái. Tác phẩm này, Tây vực ký, cung cấp cho chúng ta một cái nhìn bao quát về xã hội, phong tục, tập quán, địa dư và điều kiện phát triển của đạo Phật trong thế kỉ thứ bảy tại Trung và Nam châu Á.

    Quy mô những gì Sư biên dịch bao trùm tất cả mọi giáo pháp của Đức Phật: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link với các luận giải; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link với luận giải của phía Duy Thức; kinh cầu siêu (Huyền Trang là người đầu tiên đưa khái niệm "Tịnh độ" – cõi của một vị Phật mà người ta có thể tái sinh – với Tây phương cực lạc, cõi Phật A-di-đà; về sau cõi này trở thành phổ thông nhất đối với người dân Đông Á); Mật tông và mật chú đà-la-ni; Nhân minh luận; Tạng kinh (do Phật thuyết giảng); A-tì-đạt-ma (đặc biệt là Đại-tì-bà-sa luận) cũng như luận giải về A-tì-đạt-ma câu-xá của Thế Thân; và một bộ luận thuộc Thắng luận gia của Ấn Độ giáo. Dù đề tài rộng khắp, nhưng sự lựa chọn của Sư không tùy tiện. Thay vì chọn những đề tài tranh biện thắng lợi của một giáo phái chống lại một giáo phái khác, Sư đưa ra những bản dịch chính xác để cho mọi người cùng nhau ghi nhận. Dường như Sư thấy luận giải của Chân Đế, một dịch giả Duy thức của thế kỉ thứ sáu là không ổn; môn đệ của Chân Đế xem bộ Nhiếp đại thừa luận của Vô Trước là tác phẩm trung tâm. Không những dịch lại bộ Nhiếp đại thừa luận, Huyền Trang còn dịch toàn bộ luận giải về bộ luận này, kể cả luận giải của Thế Thân, với hi vọng chỉ cho độc giả Trung Quốc những gì bản gốc đã nói và đã không nói, cũng như những gì được hiểu và trình bày tại Ấn Độ. Mặc dù bản Phạn ngữ ngày nay không còn, sự so sánh giữa bản dịch của Huyền Trang và bản Tạng ngữ cho thấy bản dịch sau của Sư sát với bản gốc hơn bản của Chân Đế (bản dịch của Huyền Trang đồng nhất với bản Tạng ngữ trong phần lớn, trong lúc bản của Chân Đế đầy những chú thích và nhiều phân tán).

    Về Huyền Trang người ta sớm truyền tụng trong vùng Đông Á: rằng Sư đến tận Ấn Độ để học tập từ gốc ngọn; rằng Sư là kẻ duy nhất được nhà vua đỡ đầu; rằng Sư là kẻ đưa những bản dịch mới, chính gốc giáo pháp mà từ trước đến nay chưa ai biết. Học trò người Nhật của Sư đem giáo pháp về lại Nhật, thiết lập trường phái Pháp Tướng tại đây (gọi theo tiếng Nhật là Hossō), đó là trường phái danh tiếng nhất cho đến khi phái Thiên Thai du nhập vài thế kỉ sau đó.

    Giáo pháp của Sư cũng được chú ý tại Triều Tiên, nơi đó nó tổng hợp với phái Hoa nghiêm và Thiền và gây ảnh hưởng quyết định lên nền Phật giáo Triều Tiên từ cả ngàn năm nay.

    Tư tưởng
    1. Tư tưởng Phật giáo cần lý luận chính xác, nhưng điều này chỉ có ích cho hành giả hướng tới việc rời bỏ lý luận để đạt tới thực tại Vô Ngã Vô Pháp ở giai đoạn tu hành sau cùng;
    2. Các nội dung siêu hình như Phật tính hay Như Lai tạng chỉ làm méo mó giáo pháp Đức Phật, nhưng điều này không có nghĩa là Phật tính hay Như Lai tạng là không có thật mà chỉ có ý nói rằng các nội dung siêu hình (Phật tính hay Như Lai tạng) đó là Bất Khả Tư Nghị (khó thể hiểu rõ);
    3. Cái được gọi là thực tại cuối cùng như Chân Như hay Vô vi pháp là không thật, chúng chỉ là sự sáng tạo của đầu óc, của văn tự, nhưng điều đó không có nghĩa là thực tại cuối cùng là không tồn tại (hay nói cách khác nếu đã gọi là thực tại cuối cùng thì nó không những không phải là sự sáng tạo của đầu óc, của văn tự mà còn khó thể hiểu rõ - Bất Khả Tư Nghị);
    4. Chỉ những gì đang xảy ra và có hiệu ứng lên cảm thụ, cái đó là thật: cái "thật" là ngược lại với cái sai lầm và "danh sắc", nhưng bản chất của các cảm thụ hay cái "thật" đó vẫn không nằm ngoài tính Không (Sắc tức thị Không) và bản chất của tính Không vẫn không nằm ngoài các cảm thụ hay cái "thật" đó (Không tức thị Sắc);
    5. Khả năng phát triển tâm linh của mỗi người được thành hình bởi sự phối hợp của những chủng tử có sẵn và những chủng tử sinh ra do kinh nghiệm;
    6. Không có sự mâu thuẫn giữa giáo pháp Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.
    Công trình phiên dịch theo niên biểu
    • Những tác phẩm liệt kê sau đây là một trích đoạn thu gọn từ một phụ lục của cuốn sách Buddhist Phenomenology (London: Curzon, 2000). Xin tham khảo cuốn này để có toàn bộ ghi chú về các tác phẩm nói trên, trong đó có một danh sách những bản dịch và luận giải được viết bằng các ngôn ngữ phương Tây.
    Chỉ cần nhìn tổng quát về các bản dịch đầy thành quả của Huyền Trang, ta đã thấy Sư không hề là một nhà luận giải tôn giáo hẹp hòi. Công trình dịch thuật của Sư bao gồm toàn bộ kinh điển đạo Phật, gồm có: Kinh và Luận liên quan đến Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, các tác phẩm thuộc về Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, các bộ kinh thuộc Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, một bộ của Thắng luận gia Ấn Độ; các tác phẩm thuộc về Luận lý và Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; các kinh thuộc Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, lời dạy của Phật trước khi Ngài nhập Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, các quy định về luật; Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (nói về giới luật); kinh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link; các tập ký sự; các bài luận giải về Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link... Công trình của Sư được lưu lại trong Đại tạng của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, được xếp đặt theo cách phân chia kinh điển của các giáo phái. Nó cho thấy Sư đã đóng góp trong tất cả mọi phân ngành. Một số dịch phẩm của Sư, như Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link hay kinh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, đã trở thành trung tâm của mọi nghiên cứu và tu học của Phật giáo châu Á. Một số khác, như bản dịch Kinh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link của Sư thì lại không bằng các bản dịch của các dịch giả khác. Một số dịch phẩm của Sư thì rất ngắn, một số khác lại dài không ai bằng (bản dịch của Ma-ha-bát-nhã ba-la-mật phải chứa trong ba bộ của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Không có bản kinh Trung Quốc nào có thể sánh gần bằng).

    Danh sách sau đây được xếp theo thứ tự thời gian. Về một số kinh sách thì có tư liệu lịch sử rất chính xác, nhưng một số khác thì rất ít hoặc không có. Có một số nghi vấn liên quan đến nơi chốn hay ngày tháng của một số kinh sách nhất định. Trong số các nghi vấn đó thì một phần được ghi chú, một phần khác được bỏ qua.

    Các ghi chú ngắn trong nhiều mục trong danh sách dưới đây không nhằm cung cấp thêm thông tin, chúng chỉ gợi thêm quan tâm của người đọc về công trình của Huyền Trang.

    Năm 645
    1. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 大菩薩藏經; sa. bodhisattva-piṭaka-sūtra), 20 quyển, dịch tại Hoằng Phúc tự (zh. 弘褔寺); là một phần của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (sa. ratnakūta-sūtra). Phần lớn kinh Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link được dịch bởi Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (sa. bodhiruci, 706) và Trúc Pháp Hộ (sa. dharmarakṣa, 313) mặc dù một số dịch giả khác cũng đã góp phần trích dịch. Theo truyện ký của Huyền Trang thì bộ kinh trọn vẹn cuối cùng Sư được thỉnh dịch chính là kinh Bảo tích này. Sư bắt đầu công trình dịch, nhưng tuổi già và bệnh tật là nguyên nhân cản trở Sư không tiến xa. Vì Đại Bồ Tát tạng kinh là bộ kinh đầu tiên được Huyền Trang dịch sau khi từ Ấn Độ về Trung Hoa nên người ta có thể xem nó mở, và đóng vòng công trình dịch thuật của Sư.

    2. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (顯揚聖教論頌; sa. prakaraṇāryavākā), 1 quyển, tháng 7, tại Hoằng Phúc tự. Tác giả được xem là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 無著; sa. asaṅga). Bản này của Vô Trước lập cơ sở trên bộ Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (sa. yogācārabhūmi). Tương truyền Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link có viết một luận giải về chương thứ 9 của tác phẩm này với tên Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (sa. yogāvatāra), hiện không còn tồn tại.

    3. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 佛地經; sa. buddhabhūmisūtra), 1 quyển, dịch xong ngày 12.08. tại Hoằng Phúc tự.

    4. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 六門陀羅尼經; sa. saṇmukhi-dhāranī), 1 quyển, dịch xong ngày 11. 10. tại Hoằng Phúc tự.

    5. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 顯揚聖教論), 20 quyển, Vô Trước tạo. Dịch từ tháng 10 năm 645 đến tháng 2 năm 646 tại Hoằng Phúc tự. Đây là bản luận giải Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 顯揚聖教論頌; sa. prakaraṇāryavākā) của Vô Trước.

    Năm 646
    6. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 大乘阿毗達摩雜集論, sa. abhidharmasamuccaya-vyākhyā), 16 quyển. Gọi tắt là Tạp tập luận (雜集論). Tác giả là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 安慧, sa. sthiramati), dịch từ ngày 7 tháng 3 đến 19 tháng 4 tại Hoằng Phúc tự. Đây là bản luận giải Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (gọi ngắn là Tập luận 集論) của Vô Trước. Đây là tác phẩm duy nhất của An Huệ được Huyền Trang dịch sang Hán văn. Khuy Cơ có viết luận giải về tác phẩm này. Truyền thống Tây Tạng xem Tối Thắng Tử (zh. 最勝子; sa. jinaputra) là tác giả.

    7. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 大唐西域記), 12 quyển, hoàn tất tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là chính Huyền Trang. Dưới lệnh viết của Hoàng Đế, đây là tác phẩm du ký tả lại hành trình xuyên Trung á và Ấn Độ, đến bây giờ vẫn là một trong những tài liệu quan trọng nhất nói về những vùng đất này trong thế kỉ thứ bảy. Tác phẩm này chứa đựng nhiều tài liệu về truyền thống, sự tích Phật giáo, dân số v.v... "Đại Đường" chỉ nhà Đường, và trong một ý nghĩa rộng hơn thì đây cũng là danh hiệu của nước Trung Hoa thời bấy giờ.

    Năm 647
    8. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 大乘五蘊論; sa. pañcaskandhaka-prakaraṇa), 1 quyển. Hoàn tất tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 世親; sa. vasubandhu). Một tác phẩm "Tiền-Duy thức" của Thế Thân.

    9. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 攝大乘論無性釋; sa. mahāyānasaṅgrahopanibandhana), 10 quyển, từ 10.04.647 đến 31.07.649, tại Đại Từ Ân tự (大慈恩寺), tác giả là Cao tăng Vô Tính (zh. 無性, sa. asvabhāva). Đây là bài chú thích Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link, một trong nhiều phiên bản của bài luận cùng tên của Vô Trước, được Huyền Trang dịch sang Hán văn. Sư dịch Nhiếp Đại thừa luận để chỉnh lại những kiến giải sai lầm của Phật tử Trung Hoa sau khi nghiên cứu những bản dịch của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Nhiếp Đại thừa luận hoặc gọi ngắn là Nhiếp luận (zh. 攝論) là một bài luận căn bản của những đệ tử theo Chân Đế (được gọi là Nhiếp luận tông).

    10. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 瑜伽師地論; sa. yogācārabhūmi-śāstra), 100 quyển. Từ 03.07.646 đến 11.06.648 tại Hoằng Phúc và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Di-lặc (彌 勒, sa. maitreya). Tác giả của bộ luận vĩ đại này được xem là Bồ Tát Di-lặc theo truyền thống Trung Hoa, và Vô Trước theo truyền thống Tây Tạng. Huyền Trang xem nó như là bộ bách khoa toàn thư của Du-già hành tông, và Sư sang Ấn Độ cũng vì gắng tìm toàn văn của bộ luận này. Chân Đế cũng dịch một phần của bộ luận du-già này.

    11. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 解深密經, sa. sandhinirmocana-sūtra), 5 quyển. 8.8. tại Hoằng Phúc tự. Kinh Giải thâm mật thường được xem là bộ kinh đầu tiên diễn giảng giáo lý Du-già một cách phân biệt rõ ràng, ví như "Duy thức", "Tam tự tính", v.v... Kinh này được dịch sang Hán văn nhiều lần, và các dịch giả gồm Bồ-đề-lưu-chi (514), Chân Đế (557) và Cầu-na-bạt-đà-la (679).

    12. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 因明入正理論, sa. nyāyapraveśa), 1 quyển. Dịch xong ngày 10. 09. tại Hoằng Phúc tự. Tác giả là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 商 羯羅主; sa. śaṅkarasvāmin). Bài luận về Luận lý học Ấn Độ đầu tiên được dịch sang Hán văn, trình bày quan điểm luận lý của Trần-na (sa. dignāga)

    Năm 648
    13. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 天請問經; sa. devatā-sūtra), 1 quyển. 17.04.648 tại Hoằng Phúc tự.

    14. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 十句義論; sa. vaiśeṣika-daśapadārtha-śāstra), 1 quyển. 11.06.648 tại Hoằng Phúc tự. Tác giả: Huệ Nguyệt (zh. 慧月; sa. maticandra). Đây là một bài luận của Thắng luận gia (sa. vaiśeṣika). Cú (句, sa. padārtha) ở đây là những thành phần căn bản của hiện thật (en. reality). Thắng luận gia thường đề ra 9 cú hơn là 10 cú.

    15. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 唯識三十論; sa. triṃśikā), 1 quyển. 25.06.648 tại Hoằng Phúc tự. Tác giả: Thế Thân (zh. 世親; sa. vasubandhu). Đây là bài luận gốc mà luận Thành duy thức dùng làm cơ sở. Tên Trung Hoa của luận này có thể dịch ngược sang Phạn ngữ là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    16. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 金剛般若經, sa. vajracchedikā-sūtra), 1 quyển. Dịch tại Đại Từ Ân tự. Có nhiều bản dịch của kinh này: Cưu-ma-la-thập (401), Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (509), Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (558), Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (703), nhưng bản dịch của Huyền Trang đã trở thành bản dịch tiêu chuẩn của Phật giáo Đông á.

    17. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 百法明門論; sa. mahāyāna-śatadharmā-prakāśamukha-śāstra), 1 quyển. 07.12. tại Hoằng Pháp viện (弘 法 院), tác giả là Thế Thân. Trong luận này, Thế Thân liệt kê 100 pháp theo quan điểm Du-già hành tông cũng như phân loại chúng.

    18. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 攝大乘論世親釋; sa. mahāyānasaṅgraha-bhāṣya), 10 quyển. Dịch tại điện Bắc Quyết (北闕) và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân.

    Năm 649
    19. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 攝大乘論本; sa. mahāyānasaṅgraha), 3 quyển. Từ 14.01. đến 31.07.649 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Vô Trước. Bản dịch của Chân Đế rất được phổ biến trong thế kỉ thứ sáu, ngay cả thời Huyền Trang. Và việc Sư chọn dịch tất cả những luận giải của Nhiếp luận (số 9 và 18 bên trên) – trong đó có một bản của Thế Thân – trước khi dịch nguyên bản chứng tỏ rằng, Sư muốn chỉnh lý những khái niệm sai lầm được dẫn khởi bởi những điểm, những tư tưởng sai lầm trong bản dịch của Chân Đế. Trước khi đưa ra một bản dịch mới, Sư trình bày những luận giải tiêu chuẩn để giảm đi phần nào lập trường của Chân Đế.

    20. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 緣起聖道經; sa. nidāna-sūtra), 1 quyển. Ngày 17 tháng 3 tại Hoằng Pháp viện. Kinh này nói về Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    21. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 識身足論; sa. abhidharma-vijñāna-kāya-pāda-śāstra), 16 quyển. Từ 03.03. đến 19.09.649 tại Hoằng Pháp viện và Đại Từ Ân tự. Tác giả: Đề-bà-thiết-ma (zh. 提婆設摩; sa. devakṣema). Bài luận thứ ba trong A-tì-đạt-ma tạng của Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (sa. sarvāstivāda).

    22. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 如來示教勝軍王經; sa. rājavavādaka-sūtra), 1 quyển. 24.03. tại Đại Từ Ân tự. Phật dạy vua Ba-tư-nặc (sa. prasenajit; dịch ý là Thắng Quân 勝軍) tu hành như thế nào để là một ông vua tốt. Kinh này ít nhất mang hai ý nghĩa đối với Huyền Trang. Thứ nhất là một người bạn và cũng là thầy quan trọng tại Ấn Độ của Sư cũng mang tên Thắng Quân (勝軍). Vua Ba-tư-nặc là người cùng thời với đức Phật và có cùng tuổi: sinh cùng ngày với đức Phật, ông thừa kế vua cha lên ngôi, khác với trường hợp đức Phật là từ khước ngôi vị, trở thành một tu sĩ khất thực; Vua Ba-tư-nặc cũng trở thành một đệ tử Phật. Thứ hai, nó là một câu trả lời của Huyền Trang dành cho Hoàng Đế bấy giờ, người thường bắt buộc Sư trình bày những tin tức thâu thập được trong chuyến du hành vừa qua về những miền đất phía Tây Trung Hoa – phần lớn vì ôm ấp mộng xâm lược. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link là câu trả lời của Sư, đưa ra tin tức rõ ràng về chùa chiền, địa lý và phong tục, nhưng ít tài liệu có thể sử dụng trong quân sự.

    23. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 甚希有經; sa. adbhūta-dharma-paryāya sūtra), 1 quyển. 02.07. tại Thuý Vi cung (翠微宮), Chung Nam sơn (終南山).

    24. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 般若心經; sa. prajñā-pāramitā-hṛdaya-sūtra), 1 quyển. 08.07. tại cung Thuý Vi. Tên đầy đủ của kinh này là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (般若波羅密多心經), được dịch nhiều lần sang Hán ngữ. Bản dịch của Huyền Trang trở thành bản dịch tiêu chuẩn, rất được ưa chuộng tại Trung Hoa, Nhật Bản và Triều Tiên (cũng như Việt Nam). Bản này được tụng niệm mỗi ngày bởi Tăng ni, giới cư sĩ khắp Đông á hơn suốt một ngàn năm nay. Có nhiều bản dịch Anh ngữ.

    25. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (菩薩戒羯磨文), 1 quyển. 28.08. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Di-lặc (彌勒). Bản này được trích từ bộ luận Du-già sư địa.

    26. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (王法正理經), 1 quyển. 31.08. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (彌勒)

    27. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (最無比經), 1 quyển. 01.09. tại Đại Từ Ân tự.

    28. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (菩薩戒本; sa. bodhisattva-śīla-sūtra), 1 quyển. 03. 09. tại Đại Từ Ân tự (hoặc cung Thuý Vi năm 647). Tác giả: Di-lặc (彌勒). Bồ Tát giới bản này được truyền thống Trung Hoa xem là của Di-lặc, Tây Tạng xem là của Vô Trước. Bản này được xem là giới luật của Du-già hành phái, được sử dụng thực hành nghi lễ cho tăng và ni. Bản Yết-ma (bản dịch 25 bên trên) được phát huy trên cơ sở của quyển này.

    29. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 大乘掌珍論; sa. karatala-ratna), 2 quyển. 19-24.10. tại Đại từ Ân tự. Tác giả: Thanh Biện (清辯; sa. bhāvaviveka). Văn bản Trung quán đầu tiên được dịch bởi Huyền Trang. Sự tranh chấp giữa Trung quán và Du-già đang ở mức căng thẳng khi Huyền Trang đến Na-lan-đà, tập trung vào học thuyết của Thanh Biện (Trung quán phái) một bên, và An Huệ và Hộ pháp (Du-già phái) một bên.

    30. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (佛地經論; sa. buddhabhūmi-sūtra-śāstra), 7 quyển. 12.11.649 đến 02.01.650. Tác giả: Thân Quang (親光; sa. bandhuprabha) và nhiều người khác. Chứa nhiều lời bình giảng về Phật địa kinh. Vì một vài đoạn văn ở đây được tìm thấy trong luận Thành duy thức, một vài người phỏng đoán rằng, tác giả của chúng là Hộ pháp (mặc dù bản văn này cũng như Thành duy thức luận không nói một cách rõ rệt như thế). Một bản dịch của một lời bình giảng Tây Tạng cũng có những đoạn văn trùng hợp văn bản này; Tây Tạng cho rằng, tác giả của bản bình giảng ấy là Giới Hiền (sa. śīlabhadra), viện trưởng của Na-lan-đà trong lúc Huyền Trang du học tại Ấn Độ.

    Năm 650
    • (Năm đầu tiên lên ngôi Hoàng Đế của Đường Cao Tông 高宗. Thân phụ của ông là Đường Thái Tông 太宗 ủng hộ Huyền Trang cực lực. Cao Tông, rất tin vào Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link và ý niệm mình là con cháu Lão Tử giáng trần, tiếp tục ủng hộ nhưng không nhiệt tình như trước.)
    31. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (因明正理門論本; sa. nyāyamukha), 1 quyển. 01. 02. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Trần-na (陳那; sa. dignāga). Một trong những tác phẩm căn bản của Trần-na về Nhân minh học (Luận lý học).

    32. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (稱讚淨土佛攝受經; sa. sukhāvatīvyūha), 1 quyển. Đại Từ Ân tự. Một bài kinh quan trọng trong Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    33. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (瑜伽師地論釋; sa. yogācārabhūmi-śāstra-kārikā), 1 quyển. Tác giả Tối Thắng Tử (最勝子; sa. jinaputra). Bản bình giải của Tối Thắng Tử về Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Còn một bản Phạn ngữ, được dịch sang Pháp ngữ bởi Sylvain Lévy, 2 quyển, Paris, 1911.

    34. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (分別緣起初勝法門經; sa. vikalpa-pratītya-samutpāda-dharmottara-praveśa-sūtra), 2 quyển. 10.03. tại Đại Từ Ân tự. Một bài kinh khác với chủ đề Duyên khởi (pratītya-samutpāda).

    35. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (說無垢稱經; sa. vimalakīrti-nirdeśa-sūtra), 6 quyển. Đại Từ Ân tự. Kinh này rất được ưa chuộng tại Trung Hoa – bởi vì nhân vật chính trong đó là một vị cư sĩ giác ngộ, trí huệ vượt hẳn tất cả những vị đệ tử, Bồ Tát cao đẳng nhất của đức Phật, chứng minh là giới cư sĩ có thể đạt một cấp bậc giác ngộ cao hơn tăng chúng –, được dịch sang Hán ngữ 5 lần trước bản dịch của Huyền Trang: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (406), Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (223-228), Trúc Pháp Hộ (308), Upaśūnya (545), Xà-na Quật-đa (591). Bản dịch của Cưu-ma-la-thập trở thành bản dịch tiêu chuẩn phần lớn vì trình độ văn chương.

    36. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (藥師(流璃光如來)本願功德經; sa. bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhāsa-pūrvapraṇidhāna-viśeṣa-vistara), 1 quyển. 09.06. tại Đại Từ Ân tự. Một bài kinh quan trong về Phật Dược Sư. Tại Nhật, Pháp Tướng tông (ja. hossō) được xem là có mối liên hệ với Phật Dược Sư (ja. yakushi) và cho đến ngày nay, nhiều chùa chiền còn lại từ thời Nại Lương vẫn còn những chính điện thờ Phật Dược Sư, và những ngôi chùa chính của tông Pháp Tướng với tên Dược Sư tự.

    37. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (大乘廣百論本; sa. catuḥśataka), 1 quyển. 13.07.650-30. 01. 651 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thánh Thiên (聖 天; sa. āryadeva). Một bài luận quan trọng của Thánh Thiên, đệ tử quan trọng nhất của Long Thụ.

    38. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (大乘廣百論釋論), 10 quyển. 30.07.650-30.01.651 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thánh Thiên (聖天; sa. āryadeva), Hộ pháp (護法; sa. dharmapāla). Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link chú thích một bài văn của Thánh Thiên, như vậy là diễn giải một bài luận căn bản của Trung quán theo quan điểm Duy thức. Một vài đoạn văn ở đây được tìm thấy trong Thành duy thức luận.

    39. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (本事經; sa. itivṛttaka-sūtra), 7 quyển. 10. 10. đến 06.12. tại Đại Từ Ân tự.

    40. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (諸佛心陀羅尼經; sa. buddha-hṛdaya-dhāranī), 1 quyển. 26. 10 tại Đại Từ Ân tự.

    Năm 651
    41. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (受持七佛名號[所生]功德經), 1 quyển. 04.02. tại Đại Từ Ân tự.

    42. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (大乘大集地藏十輪經; sa. daśa-cakra-kṣitigarbha-sūtra), 10 quyển. 18.02.651-09.08.652. Theo Nakamura thì kinh này được biên tập bởi những vị tăng nói tiếng Iran.

    43. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨藏顯宗論; sa. abhidharma-samayapradīpika hoặc abhidharmakośa-śāstra-kārikā-vibhāṣya), 40 quyển. 30.04.651 đến 26.11.652. Tác giả là Tôn giả Chúng Hiền (尊者眾賢; sa. saṅghabhadra). Bộ luận này và A-tì-đạt-ma thuận chính lý luận (sa. nyāyānusāra, số 49 bên dưới) là hai luận giải thuộc A-tì-đạt-ma tạng của Chúng Hiền (một người đồng thời trẻ tuổi hơn của Thế Thân, đại diện cho Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link) được Huyền Trang dịch sang Hán ngữ. Bộ luận này chỉ trích luận Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (số 44 bên dưới) của Thế Thân trên luận điểm bảo thủ của Thuyết Nhất thiết hữu bộ.

    44. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨俱舍論; sa. abhidharmakośa-bhāṣya), 30 quyển. Từ 03.06.651 đến 13.09.654 tại Đại Từ Ân tự. Tác giả là Thế Thân (世親). Tác phẩm "Tiền du-già" quan trọng nhất của Thế Thân, cũng được gọi ngắn là Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (俱舍論). Bao gồm kệ tụng (cũng được dịch riêng dưới số 45 bên dưới) với diễn giảng, luận Câu-xá tổ chức và giản lược các học thuyết trong Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ, nhưng không thiếu tinh thần dè dặt phê phán và vì vậy, hấp thụ những kiến giải, lập trường được xem là của những trường phái Phật giáo khác, ví như Kinh lượng bộ. Có thể là nỗi bận tâm này khiến Sư sau này trở thành một đại biểu của Du-già hành tông.

    45. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨俱舍論本頌; sa. abhidharmakośa), 1 quyển. Được dịch tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân.

    46. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (大乘成業論; sa. karma-siddhi-prakaraṇa), 1 quyển. 24.09. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Thế Thân. Đây là một tác phẩm trung gian, cho thấy sự phát triển tư tưởng của Thế Thân từ luận Câu-xá đến bây giờ, nhưng chưa phải là tư tưởng Du-già (Duy thức).

    Năm 652
    47. Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (大乘阿毘達磨集論; sa. abhidharmasamuccaya), 7 quyển. Tác giả: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (無著; sa. asaṅga). Một tác phẩm Du-già quan trọng của Vô Trước, được gọi ngắn là Tập luận (集論).

    48. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (佛臨涅槃記法住經), 1 quyển. 17.05. tại Đại Từ Ân tự. Kinh này trình bày một phiên bản khác của thuyết "mạt pháp" mà trong đó, Phật pháp sẽ suy tàn trong mười cấp bậc, mỗi bậc kéo dài một thế kỉ. Vì trong thời gian cuối cùng tại Ấn Độ, Huyền Trang có một giấc mộng chấn động mạnh, báo rằng Phật pháp sẽ đến thời kì kết thúc tại Ấn Độ nên bộ kinh nêu trên có thể có mối tương quan đặc biệt với những ấn tượng tại Ấn Độ của sư.

    Năm 653
    49. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨順正理論; sa. abhidharmanyāyānusāraśāstra), 80 quyển. 03.02.653-27.08.654. Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền (尊者眾賢; sa. saṅghabhadra). Một bộ luận bảo thủ thuộc Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ, được Chúng Hiền biên soạn, người cũng đã viết một bài luận chỉ trích luận Câu-xá (số 43). Dài và dễ hiểu hơn luận Câu-xá.

    Năm 654
    50. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (大阿羅漢難提蜜羅所說法住記; sa. nandimitrāvadāna), 1 quyển. 08.06.654. Một phần trích từ kinh Đại Bát-niết-bàn (sa. mahāparinirvāṇasūtra) – cũng được gọi ngắn là Pháp trú lập – mà trong đó, Na-đề Mật-đa-la thuật lại việc Phật phó chúc Pháp trú đến 16 vị A-la-hán và đệ tử của họ, khuyên họ bảo vệ Pháp trú như thế nào ngay trước khi ngài nhập niết-bàn.

    51. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (稱讚大乘功德經), 1 quyển. 24.07. tại Đại Từ Ân tự.

    52. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (拔濟苦難陀羅尼經), 1 quyển. 15.10. tại Đại Từ Ân tự.

    53. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (八名普密陀羅尼經), 1 quyển. 11.11. tại Đại Từ Ân tự. Những người tụng niệm tám danh hiệu này sẽ không bao giờ đoạ địa ngục, nhưng khi lâm chung, chư Phật sẽ xuất hiện và thuyết pháp giảng dạy họ. Sau khi chết, họ sẽ tái sinh tại cung trới Đâu-suất của Bồ Tát Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link. Trong Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Đông á, một số cách tụng niệm "Bát danh" có tương quan đến đức Di-lặc.

    54. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (顯無邊佛土功德經; sa. tathāgatāṇaṃ-buddhakṣetra-guṇokta-dharma-paryāya[-sūtra]), 1 quyển. 12.11.654 tại Đại Từ Ân tự.

    55. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (勝幢臂印陀羅尼經), 1 quyển. 13.11.654 tại Đại Từ Ân tự.

    56. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (持世陀羅尼經; sa. vasudhāra-dhāranī), 1 quyển. 24.11. tại Đại Từ Ân tự.

    Năm 655
    ...

    Năm 656
    57. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (十一面神咒心經; sa. avalokiteśvaraikādaśamukha-dhāranī), 1 quyển. 17.04. tại Đại Từ Ân tự. Quán Âm với mười một gương mặt có liên hệ đến phái Du-già tại Đông á, đặc biệt tại Nhật Bản trong thời kì Nại Lương (vào lúc Pháp Tướng tông tại đây đang thịnh hành). Nhiều bức tượng đá vẫn còn tồn tại tại Nhật Bản ngày nay là biểu trưng của thời Nại Lương: trình bày Quán Thế Âm với mười hai gương mặt bao quanh gương mặt chính.

    58. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨大毘婆沙論; sa. [abhidharma-]mahāvibhāṣa), 200 quyển. 18.08.656-27.07.659. Tác giả: 500 vị A-la-hán. Tác phẩm vĩ đại này rất quan trọng đối với Luận tạng của hệ phái Thuyết Nhất thiết hữu, chiếm giữ trọn một bộ phần của Đại chính tân tu Đại tạng kinh (100 bộ). Luận này bao gồm 8 phần với 43 chương, nguyên là một bài luận giải A-tì-đạt-ma phát trí luận, có lẽ được soạn tại Kashmir. 500 vị A-la-hán – thường được bàn luận trong những bộ kinh như Pháp Hoa, Niết-bàn, và đặc biệt được tôn thờ trong Thiền tông – được xem là những người biên tập bộ luận Đại Tì-bà-sa này 400 năm sau khi Phật nhập niết-bàn, trong một cuộc hội họp kết tập được vua Ca-nị-sắc-ca tổ chức. Có hai bản dịch Hán ngữ khác: Một bản được dịch trong những năm 425-27 bởi Buddhavarmin và những vị khác, bao gồm 110 quyển nhưng 50 quyển đã bị thất lạc trong thời nhà Lương và một bản dịch khác của Tăng-già Bạt-trừng (僧伽跋澄; sa. saṅghabhadra hoặc saṅghadeva), bao gồm 20 quyển.

    Năm 657
    59. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨發智論; sa. [abhidharma-] jñānaprasthāna-śāstra), 20 quyển. 14.02.657-20.06.660 tại cung Ngọc Hoa (玉華). Tác giả: Già-đa-diễn-khả-tử (迦多衍可子; sa. katyāyanīputra). Bộ luận thứ bảy trong Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Nhìn một cách rộng mở thì – cùng với Đại Tì-bà-sa luận, bài luận giải về chính nó – đây là bộ luận trung tâm của Thuyết nhất thiết hữu bộ.

    60. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (觀所緣緣論; sa. ālambana-parikṣā), 1 quyển. Dịch tại Đại Nội Li Nhật điện (大內麗日殿). Tác giả: Trần-na (陳那; sa. dignāga). Một tác phẩm về Nhận thức học (Lượng học) của Trần-na, đã được dịch sang Hán ngữ trước đó bởi Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link.

    Năm 658
    61. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 入阿毘達磨論; sa. abhidharmāvatāra-prakaraṇa), 2 quyển. 13.11. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tắc-kiền-đà-la (塞建陀羅; sa. skandhila). Theo Nakamura, một vài phần còn lại của nguyên bản tại Tocharia cũng như bản Tây Tạng thì Huyền Trang dịch bài luận này một cách "tuỳ tiện".

    Năm 659
    62. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (zh. 不空罥索神咒心經; sa. amoghapāśahṛdaya-śāstra), 1 quyển. 15.05. tại Đại Từ Ân tự.

    63. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨法薀足論; sa. abhidharma-dharmaskandha-pāda-śāstra), 12 quyển. 20.08. đến 05.10. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tôn giả Đại Mục-kiền-liên (尊者大目乾連; sa. mahāmāudgalyāyana). Bộ luận thứ năm trong A-tì-đạt-ma của Thuyết Nhất thiết hữu bộ, thường được truyền thống Phật giáo xem là của một trong hai Đại đệ tử của đức Phật, một là Đại Mục-kiền-liên hay là Xá-lợi-phất, nhưng có lẽ được biên tập hai hoặc ba thế kỉ sau khi Phật nhập niết-bàn.

    64. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (成唯識論; sa. vijñaptimātrasiddhiśāstra), 10 quyển. Tháng 10 hoặc 11 tại cung Ngọc Hoa. Tác giả: Huyền Trang, được truyền thống xem là của Hộ pháp và những tác giả khác. Việc gán bài luận này vào Hộ pháp của Khuy Cơ có những điểm không ổn (xem chương 15 trong Buddhist Phenomenology). Đây là bản dịch duy nhất của Huyền Trang không dựa vào một bản gốc mà thay vào đó, một cách tuyển chọn, biên dịch từ nhiều bản khác nhau (theo truyền thống là 10 bộ luận). Bởi vì Khuy Cơ theo giáo lý của bộ luận này trong khi xem tự mình là đệ tử kế thừa Huyền Trang, truyền thống Phật giáo Đông á xem Thành duy thức luận là biểu trưng trung tâm của học thuyết Huyền Trang.

    Năm 660
    65. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (大般若波羅蜜多經; sa. mahā-prajñā-pāramitā-sūtra), 600 quyển. 16.02.660 đến 25.11.663, tại Ngọc Hoa cung (玉華宮). Tác phẩm vĩ đại này với tổng cộng 600 quyển chiếm giữ trọn vẹn ba bộ của Đại chính tân tu, bao gồm những bài kinh nổi danh như Kim Cương, và là một trong những bộ kinh hệ Bát-nhã đầy đủ nhất. Huyền Trang có ý định giản lược để tránh trường hợp trùng lặp trong khi dịch nhưng bị một giấc mộng ngăn cản, vì vậy nên Sư dịch bộ kinh Bát-nhã này trọn vẹn.

    66. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨品類足論; sa. abhidharma-prakaraṇa-pāda), 18 quyển. 10.10. đến 30.11. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Thế Hữu (尊者世友; sa. vasumitra). Bộ luận thứ hai trong A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Bao gồm: Thuật ngữ, phân loại và lập trường.

    67. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨集異門足論; sa. abhidharma-saṅgītī-paryāya-pāda-śāstra), 20 quyển. 02.01.660 đến 01.02.664, tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Xá-lợi tử (尊者舍利子; sa. śāriputra). Bộ luận thứ nhất trong A-tì-đạt-ma của Thuyết Nhất thiết hữu bộ, được truyền thống Tây Tạng xem là của Mahākauṣṭhila, được Yaśomitra xem (trong bài luận giải của chính mình) là của Phú-lâu-na (sa. pūrṇa). Giáo lý được sắp xếp theo nhóm pháp số.

    Năm 661
    68. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (辯中邊論頌; sa. madhiānta-vibhāga-kārikā), 1 quyển. 03.06. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Di-lặc (彌勒). Kệ tụng căn bản của một bài luận Du-già; tác giả được xem là Di-lặc hoặc Vô Trước.

    69. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (辯中邊論; sa. madhyānta-vibhāga-bhāṣya), 1 quyển. 12.06. đến 02.07. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Thân (世親). Bài giảng giải những kệ tụng trong Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (辯中邊論頌), được xem là của Thế Thân.

    70. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (唯 識 二 十 論; sa. viṃśatikā-vṛtti), 1 quyển. 03.07. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Thân. Một trong những tác phẩm triết học Duy thức quan trọng nhất của Thế Thân.

    71. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (緣起經; sa. pratītya-samutpāda divibhaṅga-nirdeśa-sūtra), 1 quyển. 09.08.661. Một bài kinh nói về Nhân duyên sinh, có những điểm giống với kinh thứ 33 trong Trung bộ kinh (pi. majjhima-nikāya): Mahāgopalaka-sutta.

    Năm 662
    72. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (異部宗輪論; sa. samaya-bhedoparacana-cakra), 1 quyển. 02.09. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Thế Hữu (theo truyền thống Tây Tạng). Một cách nhìn tổng quát về 20 bộ phái theo quan điểm Thuyết nhất thiết hữu bộ.

    Năm 663
    73. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (阿毘達磨界身足論; sa. abhidharma-dhātu-kāya-pāda-śāstra), 3 quyển. 14.04. tại Ngọc Hoa cung. Tác giả: Tôn giả Thế Hữu (尊者世友). Bộ luận thứ ba trong A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ. Phân loại, liệt kê tâm pháp.

    74. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (五事毘婆沙論; sa. pañca-vastuka-vibhāṣa), 2 quyển. 18.11. tại Đại Từ Ân tự. Tác giả: Tôn giả Pháp Cứu (尊者法救; sa. dharmatrāta). Một bài luận theo lối A-tì-đạt-ma về sắc, tâm và tâm sở hữu.

    75. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (寂照神變三摩地經; sa. praśānta-viniścaya-prātihārya-samādhi-sūtra), 1 quyển. 01. 02. 664 (hoặc 12.02.665) tại cung Ngọc Hoa.

    Năm 664
    76. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (咒五首經), 1 quyển. 02. 02. tại Ngọc Hoa cung.

    77. Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link (八識規矩頌). Tác giả: Huyền Trang. Bài được Huyền Trang biên soạn (thay vì thường gặp là ‘dịch’) này không được tìm thấy trong Đại chính tân tu, mặc dù một bài luận của Phổ Thái (普泰) nhắc đi nhắc lại là chính văn nằm trong Đại chính tân tu (Taishō 45, 467-476) với tên Bát thức quy củ bổ chú (八識規矩補註). Luận này bao gồm những luận đề tương tự Thành duy thức luận, nhưng được tổ chức, biên soạn khác một chút.

    Viên tịch
    Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, Thầy Huyền Trang gác bút nghìn thu tại chùa Ngọc Hoa, vì bệnh tật và già yếu. Thọ 62 tuổi. Ngày 14 tháng 4 thi hài Huyền Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. [Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link]. Từ xưa đến nay chưa có vị sư nào được ngưỡng mộ sùng bái bằng vị Thánh Tăng có một không hai này.

    Xem thêm
    Tham khảo

    Liên kết ngoài

     
    xaodeso thích bài này.
  5. mr.toanphan82

    mr.toanphan82 Lớp 3

    Chính xác Đường Tăng đã phải đi bao xa để thỉnh kinh ở Tây Trúc?




    [​IMG]
    Đường Tăng là một nhân vật rất gần gũi với tuổi thơ của chúng ta. Ai cũng biết ông phải sang tận Tây Trúc xa xôi để thỉnh kinh, nhưng chính xác quãng đường đó xa như thế nào?


    Có thể nhiều người chưa biết, Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link là một nhân vật có thật trong lịch sử. Với tâm niệm một lòng hướng Phật, ông đã không quản ngại gian khó lặn lội đến Tây Trúc xa xôi trong hơn 14 năm để có thể hoàn thành tâm nguyện.

    1. Cuộc đời, thử thách và sự nghiệp

    Thật vậy, Trần Huyền Trang không chỉ là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện kinh điển Tây Du Ký của tác giả Ngô Thừa Ân mà còn là một người có thật và rất nổi tiếng thời Đường.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Trần Huyền Trang tên thật là Trần Huy (Có nơi ghi là Trần Vỹ) xuất thân khốn khó nhưng lại đam mê đạo Phật. Năm 10 tuổi đã theo anh trai tham gia kỳ thi độ tăng và là 1 trong 27 người có kết quả cao nhất.

    Sau 3 năm thử thách, Trần Huy chính thức xuất gia và lấy hiệu là Huyền Trang, cùng hai anh trai tu tại chùa Tịnh Thổ. Năm 21 tuổi, ông dần nổi tiếng hơn vì có cuộc tranh luận về phật phápở Trường An.

    Cũng từ đây, ông nhận ra rằng, mỗi người có một cách hiểu khác nhau về đạo Phật, gây ra nhiều mâu thuẫn.

    Năm 629, ông quyết tâm sang Tây Trúc (Ấn Độ bây giờ), nơi được coi là nguồn gốc của đạo Phật, để giúp bá tánh có thể thống nhất 1 cách hiểu đúng nhất và chính xác nhất về kinh Phật.

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Khác với trong Tây Du Ký, Đường Tăng được vua kết huynh đệ, tặng bát vàng, áo cà sa quý... thực tế là ông đã một mình một ngựa, quyết đi về Tây phương mà không nhận được bất kỳ sự ân chuẩn nào từ hoàng đế Đại Đường.

    Trải qua bao nắng mưa khổ cực, tai họa chết người hay nhiều cám dỗ khó cưỡng, vẫn một lòng hướng Phật, quyết chí thỉnh kinh, Huyền Trang đã đến được cái nôi của Phật giáo.

    Tại đây, ông được Giới Hiền đại sư, một vị cao tăng đức cao vọng trọng của chùa Na Lan Đà nhận làm đệ tử.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Năm 643, sau hơn 14 năm từ khi bắt đầu đi lấy kinh, Đường Tăng quyết định trở về quê hương cùng hơn 650 bộ kinh Phật từ Tây Trúc về Trường An.

    Ông trở thành một đại sư về Phật học, đồng thời là một dịch giả nổi tiếng. Sự nghiệp dịch thuật của ông vô cùng đồ sộ với 75 bộ kinh Phật gồm 1335 quyển với hơn 1330 vạn chữ.

    Phần lớn là dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Hán để truyền bá đạo Phật đến rộng rãi quần chúng nhân dân.

    Ngoài ra, Huyền Trang còn dịch ngược bộ Đạo Đức Kinh và bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận từ tiếng Hán ra tiếng Phạn. Ông cũng là tác giả của bộ Đại Đường Tây Vực Du Ký gồm 12 quyển.

    Bộ sách ghi lại đầy đủ những điều Đường Tăng thấy trong suốt những năm tháng đi thỉnh kinh như những chuyện ở Tân Cương, Afganistan, Pakistan, Nê pan và đặc biệt là Ấn Độ.

    Đây là một tài liệu vô cùng quan trọng mà ông để lại cho hậu thế sau này.

    2. Con đường Huyền Trang đã đi dài bao xa?

    Ai cũng biết trong truyện Tây Du Ký, Đường Huyền Trang đã phải nếm trải bao khó khăn, cực nhọc để có thể đến được Tây Thiên (hay còn gọi là Tây Trúc). Con đường ông đi dài dằng dặc. Vậy chính xác thì nó dài bao nhiêu?

    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
    Theo như chuyện kể lại, Đường Tăng đã phải vượt "mười vạn tám ngàn dặm" mới có thể lấy được hơn 650 bộ kinh Phật về đến quê hương. Thực chất, chúng ta có thể hiểu Huyền Trang đã phải đi qua 108.000 dặm mới thỉnh được kinh.

    Với hệ đo lường cổ Trung Hoa, 1 dặm tương đương với khoảng nửa cây số bây giờ, tức xấp xỉ 500m. Vậy chúng ta dễ dàng tính được quãng đường mà Đường Tăng đã đi qua:

    Quãng đường thỉnh kinh = 108.000 dặm x 0,5km = 54.000km.

    Theo nhiều ghi chép, Đường Tăng đã vượt qua quãng đường này chỉ trong 2 năm. Hai năm để chinh phục 54.000 km, quả thật đây là một trong những con người có ý chí mạnh mẽ nhất thế giới.

    Tất nhiên, cũng có thể 10 vạn 8 ngàn dặm đó chỉ là cách nói tượng hình, diễn tả quãng đường xa xôi, gian khó mà Đường Tăng đi qua.
     
    quocthang_1989 and duchuy2007 like this.
Moderators: mopie

Chia sẻ trang này