1. Click vào đây để xem chi tiết

Hoàn thành Câu chuyện ban chiều - M. R. James

Thảo luận trong 'Góc dịch các tác phẩm tiếng Anh' bắt đầu bởi Cub, 31/7/23.

  1. Cub

    Cub Lớp 3

    Đây là một truyện ngắn thể loại huyền bí của tác giả người Anh Montague Rhodes James. Truyện này đã được dịch từ nguyên bản tiếng Anh và đăng trong tuyển tập "Giếng thở than" do Nhã Nam xuất bản. Đó cũng là một trong những cuốn sách mình rất yêu thích và mình đã đọc nó hàng chục lần. Gần đây, mình tình cờ mua được bản tiếng Đức một tập truyện cũng của M. R. James, trong đó có truyện ngắn này. Khi đối chiếu bản dịch tiếng Việt với bản dịch tiếng Đức, mình phát hiện ra khá nhiều điểm khác nhau. Sau đó mình so sánh với bản gốc tiếng Anh thì thấy bản dịch tiếng Việt có vài sai sót nhỏ, có lẽ vì điều kiện tra cứu thời đó còn hạn chế và tác phẩm của M. R. James khá khó dịch do cần nhiều kiến thức về lịch sử và văn hóa Anh. Còn trong bản tiếng Đức, dịch giả đã tự ý thay đổi vài chi tiết, có lẽ để câu chuyện dễ hiểu hơn với độc giả Đức. Mình thấy thú vị nên dịch bản tiếng Đức và chia sẻ lên đây với các bạn. Chúc các bạn nhiều niềm vui khi đọc.

    Câu chuyện ban chiều

    M. R. James

    Một hình ảnh rất thường thấy trong các sách cổ là một người bà cao tuổi ngồi bên lò sưởi vào một ngày đông lạnh giá, kể cho lũ cháu đang hau háu nghe hết câu chuyện này đến câu chuyện khác về thần tiên hay ma quỷ và gợi lên trong chúng một niềm sợ hãi thích thú. Nhưng những chuyện đó là gì thì chúng ta chẳng bao giờ được biết. Dù chúng ta vẫn thường nghe kể về những con ma quấn trong vải giường với đôi mắt to bằng cái đĩa lót tách, hoặc ly kỳ hơn nữa là ông kẹ, con quái vật mà người lớn vẫn mang ra dọa trẻ con, nhưng lại tuyệt không có một chút thông tin nào về hoàn cảnh lịch sử khi những sinh vật hư cấu kỳ bí đó ra đời.

    Vấn đề này đã khiến tôi bận tâm từ lâu. Nhưng tôi không tìm được cách nào để giải quyết triệt để. Vì những người bà cao tuổi đã qua đời từ lâu, còn những người sưu tầm truyện dân gian lại bắt đầu công việc của họ quá muộn, ít ra là ở nước Anh, để giữ lại phần lớn những câu chuyện của những người bà ấy cho hậu thế. Vậy mà những thói quen như việc kể chuyện buổi chiều tối ấy cũng không dễ dàng mất đi. Có lẽ ta có thể vận dụng trí tưởng tượng (và dựa trên một vài chỉ dẫn) để hình dung ra những buổi kể chuyện ban chiều rất hữu ích đó, ví dụ như trong quyển The Work-Table, or Evening Conversations, designed for the improvement and instruction of young persons (viết năm 1823) của bà Marcets, Dialogues on Chemistry (1809) của Jeremiah Joyce hay Philosophy in Sport Made Science in Earnest; being an attempt to illustrate the first principles of Natural Philosophy (1827) của John Ayrton Paris. Tất cả những cuốn cẩm nang về cách giáo dục trẻ em này đều nhằm mục đích xóa bỏ những tư tưởng lầm lạc cũng như những sự mê tín dị đoan và thay thế chúng bằng ánh sáng của sự thật và sự hữu ích. Hình thức thì đại khái như sau:

    Charles: Bố ơi, con nghĩ con đã hiểu lý thuyết đòn bẩy mà hôm thứ Bảy bố đã kiên nhẫn giải thích cho con rồi. Thế nhưng, từ hôm đó đến giờ con cứ thắc mắc mãi về tác dụng của con lắc. Ví dụ như, con tự hỏi, tại sao cái đồng hồ đứng ngừng chạy khi ta giữ con lắc lại.

    Người bố: Thằng vô tích sự này, mày lại táy máy cái đồng hồ đứng trong hành lang phải không? Lại đây ngay lập tức! (Không, dòng chú thích trên có lẽ đã lọt vào đây ngoài ý muốn. Đúng ra phải như sau:) Thôi được rồi, con trai. Thật ra thì bố không bằng lòng với việc con thực hành những thí nghiệm như vậy mà không có sự giám sát của bố, vì con có thể gây ảnh hưởng đến tính năng hoạt động của một chiếc đồng hồ quý giá. Dù vậy, bố sẽ cố gắng hết sức để giải thích cho con nguyên lý hoạt động của con lắc. Mang cho bố một sợi dây thật chắc từ trong ngăn kéo phòng làm việc. Và xin bà bếp cho con mượn một quả cân bà ấy vẫn dùng trong bếp.


    Chúng ta chia tay hai bố con ở đây và để mặc họ với thí nghiệm của mình.


    Trong một gia đình khác, nơi ánh sáng văn minh của khoa học còn chưa rọi tới, thì mọi chuyện lại khác hẳn. Vị điền chủ, mệt nhoài sau chuyến đi săn gà so, no nê sau bữa tối tươm tất và lâng lâng trong hơi rượu, đang ngáy bên lò sưởi. Người mẹ già nua của ông ta ngồi ở phía đối diện và đan. Hai đứa trẻ ngoan ngoãn Charles và Fanny (chứ không phải hai đứa nghịch ngợm như Harry và Lucy không chịu được sự yên tĩnh này) tựa vào gối bà.

    Bà: Giờ thì, hai cháu yêu của bà, các cháu phải thật ngoan và yên lặng nhé, không thì đánh thức bố dậy bây giờ. Các cháu biết hậu quả rồi đấy.

    Charles: Vâng, cháu biết. Bố sẽ nổi khùng lên và bắt bọn cháu về giường ngay lập tức.

    Bà (ngừng đan và nói bằng giọng nghiêm khắc): Cháu nói cái gì thế hả? Thật đáng xấu hổ, Charles ạ. Không được phép nói ra những từ như thế. Thực ra thì bà đã định kể cho các cháu nghe một câu chuyện, nhưng nếu cháu dám ăn nói như vậy thì hôm nay bà sẽ không kể một chuyện nào nữa. (Tiếng rên rỉ khe khẽ: Ôi bà ơi, xin bà!) Im ngay! Các cháu đánh thức bố dậy rồi kìa!

    Điền chủ (nói bằng giọng nặng nề): Mẹ nghe này, nếu mẹ không giữ cho hai đứa nhãi này im lặng …

    Bà: Rồi, John, mẹ biết rồi. Thật hết hơi với hai đứa này. Mẹ đã bảo chúng nó rằng sẽ phải đi ngủ ngay nếu lại làm ầm lên lần nữa.

    Vị điền chủ lại ngả lưng ngủ tiếp.

    Bà: Các cháu đã thấy chưa? Bà đã nói gì với các cháu nào? Các cháu phải ngoan và ngồi im! Các cháu biết không? Ngày mai các cháu sẽ đi hái quả mâm xôi đen nhé. Nếu các cháu mang về được một giỏ đầy, bà sẽ làm mứt cho mà ăn.

    Charles: Đúng rồi, bà ơi! Cháu còn biết chỗ những quả mâm xôi ngon nhất mọc. Cháu vừa nhìn thấy hôm nay.

    Bà: Ở đâu vậy, Charles?

    Charles: Ở con đường nhỏ trên kia, ngang qua ngôi nhà của gia đình Collins ấy.

    Bà (đặt ngay đồ đan xuống): Charles! Không được hái dù chỉ một quả mâm xôi ở con đường nhỏ đó! Cháu không biết … Ừ thì, làm sao mà cháu biết được … Bà vừa định nói gì ấy nhỉ? Dù gì thì, cháu hãy ghi nhớ những gì bà vừa nói!

    Charles và Fanny cùng đồng thanh: Tại sao hả bà? Tại sao bọn cháu không được phép hái mâm xôi ở đó?

    Bà: Yên lặng! Thôi được rồi, bà sẽ kể cho các cháu nghe, nhưng các cháu không được ngắt lời bà. Xem nào … Đúng rồi, hồi bà còn ít tuổi, con đường nhỏ này mang tiếng rất xấu, mặc dù bây giờ mọi người có vẻ không còn nhớ đến nữa. Một ngày nọ, đó là một buổi chiều mùa hạ như hôm nay, bà đã kể với mẹ của bà – Chúa phù hộ cho cụ! -, khi bà về nhà ăn tối … Bà kể với cụ mình đã đi dạo ở những đâu, và rằng bà đã quay về bằng con đường nhỏ đó. Bà hỏi cụ, tại sao ở cuối đường, phía trên cao kia lại có nhiều bụi lý chua mọc chen chúc một chỗ thế. Ôi trời, cụ nổi nóng mới ghê chứ! Cụ túm lấy bà mà lắc, cho bà một cái bạt tai và mắng: "Con hư quá, hư quá! Không phải mẹ đã cấm con đến hai chục lần rằng con không được bén mảng đến con đường đó hay sao? Thế rồi con lại lảng vảng ở đó lúc tối tăm thế này!" Khi cụ ngừng lại thì bà choáng váng tới mức không tìm được lời nào để đáp. Nhưng cuối cùng thì bà cũng thuyết phục được cụ rằng cụ chưa bao giờ nói với bà về chuyện này cả, và đó là sự thực. Dĩ nhiên là cụ thấy hối hận vì đã nổi cáu lên như vậy. Và để chuộc lỗi với bà, sau bữa ăn, cụ đã kể cho bà nghe toàn bộ câu chuyện. Từ đó, bà cũng đã nhiều lần nghe chuyện này từ những người già trong vùng. Hơn nữa, bà cũng có lý do riêng để tin rằng trong câu chuyện này cũng có ít nhiều sự thật. Tí nữa bà sẽ nói.

    Ở trên kia, tận cuối con đường – đi từ dưới này lên thì ở bên trái hay bên phải nhỉ? Đúng rồi, ở bên tay trái, bà nhớ ra rồi, có một bụi cây nhỏ, đằng sau nó là một mảnh ruộng hoang, xung quanh có một hàng rào đổ nát. Ở đó có nhiều bụi lý chua già cỗi. Chắc chắn hồi đó là như vậy, nhưng nhiều năm rồi bà không đến đó nữa.

    Ta có thể tự đoán ra được rằng ở đó từng có một ngôi nhà, và đúng là như thế thật. Trước khi bà ra đời, khi còn chưa có ai nghĩ đến việc bà sẽ được sinh ra, từng có một người đàn ông tên là Davis sống trong căn nhà đó. Theo những gì bà nghe được thì ông ta không phải người ở vùng này. Suốt những năm bà sống ở đây cũng không thấy có ai tên như thế ở trong làng. Dù sao thì: Ông Davis sống rất khép kín và cũng ít khi đến quán rượu. Ông ta cũng không làm công cho người nông dân nào ở đây. Có vẻ như ông ta có của cải riêng nên không cần bận tâm đến tiền bạc. Nhưng vào những ngày họp chợ, ông Davis cũng xuống làng và mang thư đến bưu điện. Một ngày nọ, khi từ chợ về, ông ta dẫn theo một chàng trai trẻ. Hai người họ chung sống một thời gian dài và đi đâu cũng có nhau. Chàng trẻ tuổi đó làm việc nhà cho Davis hay học hỏi gì từ ông ta thì chẳng ai biết.

    Bà nghe nói rằng, anh chàng đó là một người nhợt nhạt, xấu xí và có vẻ khó ưa. Thế là mọi người trong làng thắc mắc không biết hai người bọn họ làm gì với nhau suốt cả ngày. Dĩ nhiên là bà không muốn nhắc lại những điều vớ vẩn mà người làng đã thêu dệt. Các cháu cũng biết rằng chúng ta chớ nên rêu rao những chuyện xấu về người khác khi mà chính chúng ta cũng không biết chắc rằng chuyện đó có thật hay không. Kể cả sau khi người đó đã chết cũng vậy.

    Như bà đã nói, hai người bọn họ luôn bên nhau như hình với bóng, từ sáng đến tối, dù ở trên đồi hay trong rừng. Mỗi tháng một lần, họ lại làm một chuyến đi dạo đến chỗ hình người chạm khắc trên đồi mà các cháu cũng thấy rồi đấy. Mọi người phát hiện ra rằng khi hai người bọn họ lên đó vào mùa hè, họ sẽ cắm trại cả đêm, hoặc là ngay trên đồi, hoặc ở gần đó.

    Bà còn nhớ rằng bố của bà – cụ của các cháu – một lần đã kể với bà rằng cụ từng nói về chuyện đó với ông Davis. Họ quen nhau vì ông ta sống trên mảnh đất thuộc quyền sở hữu của cụ. Khi cụ hỏi ông ta tại sao lại thích lên trên đồi đến vậy thì ông ta chỉ đáp: "Ồ, đó là một mảnh đất cổ xưa tuyệt diệu, thưa ngài, còn tôi thì vẫn luôn yêu thích những thứ thuộc về những thời đại xưa cũ. Khi tôi đến đó với cậu ta", ý ông ta là chàng trẻ tuổi sống cùng mình, "tôi có cảm giác, những thời đại xa xưa đó lại quay về."

    "Vậy thì", cụ bảo, "có lẽ ông thích những thứ đó, chứ tôi thì chẳng ham gì việc đêm hôm ở lại một nơi hẻo lánh đến vậy."

    Ông Davis nghe thế thì chỉ mỉm cười, còn chàng trẻ tuổi đã lắng nghe câu chuyện thì xen vào: "Ồ, vào những đêm đó, chúng tôi cũng không thiếu bầu bạn đâu."

    Về sau cụ bảo, lúc đó cụ có cảm giác ông Davis đã ra dấu gì đó cho chàng trai, vì chàng ta đã ngay lập tức đính chính: "Ý tôi là, tôi chỉ cần có ông Davis ở bên cạnh là đủ rồi, và ông chủ tôi cũng nghĩ vậy, phải không ạ? Trong một đêm hè như thế, bầu không khí trên đó thật tuyệt diệu. Ta có thể nhìn bao quát toàn bộ vùng lân cận ngập trong ánh trăng, mà cảnh vật lại khác hẳn ban ngày, với tất cả những gò đống trên đồi …"

    Có vẻ ông Davis rất không vừa lòng khi chàng trẻ tuổi nói huyên thiên vì ông đã ngắt lời chàng: "Đúng rồi, ngọn đồi này cũng là một trong những nơi có lịch sử vô cùng lâu đời, phải không ngài? Ngài nghĩ những gò đống đó đã được dùng vào mục đích gì?"

    Và cụ trả lời … Ôi trời, sao mà bây giờ bà lại nhớ ra tất cả những chuyện này chứ? Nhưng hồi đó, chúng đã kích thích trí tưởng tượng của bà. Kể cả khi các cháu thấy chán thì bà cũng phải kể cho bằng hết. Cụ đã trả lời thế này: "Những gò đống này là những ngôi mộ, theo những gì tôi nghe được, ông Davis ạ. Từ khi tình cờ cày lật vài chỗ lên, tôi biết rằng ở đó có xương và đồ gốm. Nhưng là mộ của ai thì tôi không biết. Người ta nói rằng, thời xưa, người La Mã đã cư ngụ ở khắp nơi trên đất nước ta. Nhưng họ có chôn cất người theo lối này không thì tôi chịu."

    Ông Davis lắc đầu vẻ suy ngẫm. "Theo ấn tượng của tôi thì trông họ còn cổ xưa hơn cả người La Mã cổ, quần áo họ mặc cũng khác – ý tôi là, theo như tranh ảnh thì người La Mã từng mặc giáp phục. Và theo những gì ngài nói thì ngài không tìm thấy bộ giáp nào, đúng không nhỉ?"

    Cụ lấy làm ngạc nhiên: "Tôi không nhớ rằng mình có nhắc đến giáp phục nào cả. Nhưng mà đúng vậy: cứ như tôi biết thì tôi chưa từng tìm được thứ nào giống thế. Mà theo những gì ông kể thì có vẻ như ông đã tận mắt nhìn thấy những người được chôn cất ở đó, thưa ông Davis."

    Ông Davis và chàng trẻ tuổi cười phá lên: "Tận mắt nhìn thấy ấy ạ?", ông Davis hỏi. "Sau ngần ấy năm thì việc đó gần như là không thể. Nhưng tôi rất muốn được tìm hiểu thêm về những thời đại xa xưa và những con người từng sống thời đó. Và cả việc họ từng thờ cúng ai hay cái gì nữa."

    "Thờ cúng hả? Chắc là cái hình người đàn ông khắc trên đồi từ thời xưa ấy", cụ đáp.

    "Có thể lắm", ông Davis nói. "Nếu là thế thì tôi cũng không lấy làm lạ."

    Sau đó, cụ kể cho hai người đó nghe những gì cụ đã đọc và nghe được về những người theo tín ngưỡng đa thần và nghi thức tế lễ của họ. Cháu cũng sẽ được biết những thứ đó, Charles ạ, khi cháu đến trường và học tiếng Latinh. Hai người đó có vẻ rất hứng thú. Nhưng cụ bảo rằng, có vẻ như họ đã biết tất cả những điều cụ kể với họ từ trước rồi.

    Đó là lần duy nhất mà cụ có dịp trò chuyện lâu với ông Davis, và cụ không thể quên được cuộc nói chuyện – nhất là câu mà chàng trẻ tuổi lỡ miệng nói ra: "Vào những đêm đó, chúng tôi cũng không thiếu bầu bạn." Lý do là vì thời bấy giờ, trong những ngôi làng ở vùng này, có nhiều lời đồn đại về những cuộc tụ họp ban đêm. Nếu cụ không can thiệp thì người làng thậm chí đã dùng phép thử nướcVui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link với một bà già mà họ nghi là phù thủy.

    Charles: Phép thử nước là gì hả bà? Bây giờ ở đây có còn phù thủy không ạ?

    Bà: Không đâu, cháu yêu ạ. Mà sao bà lại nói về chủ đề này nhỉ? Nó chẳng liên quan gì đến chuyện này hết. Bà chỉ muốn nói rằng, người dân những làng khác trong vùng từng tin rằng ban đêm, trên ngọn đồi với hình khắc người đàn ông khổng lồ, có những cuộc tụ tập nào đó. Họ cho rằng, ai mà đi đến đó thì đều có ý đồ ám muội. Nhưng đừng ngắt lời bà nữa nhé. Muộn rồi.

    Theo những gì bà biết thì ông Davis và chàng trẻ tuổi sống cùng nhau được ba năm. Sau đó thì đột ngột xảy ra một chuyện khủng khiếp. Bà không biết có nên kể cho các cháu nghe hay không đây. (Lũ trẻ bất bình kêu lên: Có chứ bà, bà phải kể cho chúng cháu nghe. Xin bà đấy!) Thôi được, thế thì các cháu phải hứa rằng không được sợ và nửa đêm kêu ầm lên đấy nhé! (Nhất định không ạ!)

    Một sáng nọ, khi sắp đến mùa thu, bà nghĩ là vào tháng Chín, một người thợ rừng phải lên đồi có việc. Trời vừa sáng thì ông ta lên đường. Ở trảng trống sâu trong rừng, nơi có vài cây sồi cao, ông ta nhìn thấy từ xa thứ gì đó màu trắng sáng lên trong sương sớm. Ông ta kể rằng đã nhận ra hình dáng một người đàn ông. Dù phân vân không biết có nên đi tiếp hay không nhưng cuối cùng ông ta cũng đi về phía hình người và nhận ra rằng đó thực sự là một người đàn ông mặc áo choàng trắng. Một cái thòng lọng thít chặt cổ người đó. Anh ta treo lủng lẳng không chút sinh khí trên cây sồi lớn, dưới chân là một cái rìu dính đầy máu đã đông lại.

    Đó phải là một cảnh tượng vô cùng kinh khủng! Có lẽ ai cũng sợ chết khiếp nếu đột nhiên nhìn thấy cảnh này ở một nơi hoang vắng. Dù sao thì người thợ rừng đã sợ hãi đến phát cuồng. Ông ta bỏ lại mọi thứ mang theo mình và chạy hết tốc lực đến nhà linh mục. Ở đó, ông ta đánh thức mọi người và thuật lại những gì mình chứng kiến trên đồi.

    Ông White, thời đó là linh mục làng ta, bảo ông ta đi gọi hai hay ba người đàn ông đáng tin cậy – ông thợ rèn, một trong số những bô lão của nhà thờ và có lẽ cả một người làng nữa. Trong thời gian đó, vị linh mục sửa soạn trang phục. Lát sau, họ cùng nhau đến nơi kinh khủng đó, đem theo một con ngựa để chở xác chết về nhà linh mục.

    Lên đến trên đồi, họ thấy mọi thứ đúng như người thợ rừng đã kể. Tuy vậy, họ vẫn bàng hoàng khi nhìn thấy trang phục của người chết. Người sửng sốt nhất là vị linh mục già, vì chiếc áo người chết mặc chẳng khác gì một bản sao do những kẻ ngoại giáo tạo ra của chiếc áo choàng tế của nhà thờ, theo những lời sau này ông ta kể cho cụ.

    Khi họ định gỡ xác chết xuống từ cây sồi thì phát hiện ra một sợi xích làm từ một thứ kim loại nào đó quấn quanh cổ người chết. Móc vào sợi xích là một mặt dây có hình một bánh xe nhỏ xíu. Sau này họ nói rằng, mặt dây đó trông có vẻ rất lâu đời rồi.

    Trong khi đó, họ đã cử một thằng bé trong làng đến nhà ông Davis. Nó có nhiệm vụ kiểm tra xem ông ta có nhà không, vì dĩ nhiên là họ đã có vài phỏng đoán. Linh mục White, đồng thời cũng là viên chức, nói rằng họ còn phải đi gọi viên cảnh binh ở địa phận bên cạnh và báo tin cho cả một viên chức khác nữa. Thế là mỗi người bổ đi một ngả. Cụ các cháu hôm đó có việc phải đi chỗ khác, không thì người ta đã gọi cụ đến trước tiên rồi.

    Toán người đặt cái xác lên lưng ngựa. Sau này họ kể rằng, họ phải cố gắng lắm mới giữ được cho con ngựa khỏi lồng lên bỏ chạy, vì cứ hễ nhìn thấy cái cây là nó lại sợ đến phát cuồng. Cuối cùng thì họ cũng bịt được mắt nó lại và dẫn nó qua rừng xuống đến đường làng. Ở đó, ngay gần cái cây to nơi có mấy bụi hoa hồng, họ gặp một đám phụ nữ xúm đông xúm đỏ. Những người này đang vây quanh thằng bé người ta đã cử đến nhà ông Davis. Nó nằm dưới đất, mặt mũi tái mét như chết rồi, cạy miệng cũng không nói một lời. Mọi người biết ngay rằng còn có chuyện kinh khủng hơn nữa liền vội vã chạy vào con đường nhỏ lên nhà ông Davis. Gần đến nơi thì con ngựa họ dắt theo lại lên cơn. Nó lồng lên, hí ầm ĩ và đá lung tung bằng hai chân trước. Tí nữa thì nó đá chết người dắt ngựa, hoặc ít ra thì cũng làm cho trọng thương. Dĩ nhiên là cái xác rơi từ trên lưng ngựa xuống đất.

    Linh mục White ra lệnh cho mọi người đưa con ngựa đi chỗ khác. Còn cái xác thì họ vác thẳng vào phòng khách nhà ông Davis, vì cửa nhà mở toang. Ở đó, họ nhìn thấy cái đã khiến thằng bé sợ đến gần chết và con ngựa phát điên. Ai cũng biết rằng ngựa sợ mùi máu đông.

    Trên chiếc bàn dài hơn một người là cái xác của ông Davis. Đôi mắt ông ta bị bịt kín bằng một mảnh vải lanh, hai tay buộc chặt sau lưng, hai chân cũng bị trói gô. Nhưng khủng khiếp nhất là bộ ngực gần như bị mở phanh, vì xương ức đã bị xẻ dọc từ trên xuống dưới bằng một cái rìu.

    Cảnh tượng ghê rợn đến mức tất cả những người ở đó đều thấy hoa mắt chóng mặt và phải vội vàng tháo chạy ra ngoài. Cả linh mục White, vốn có tiếng là cứng cỏi, cũng bị cảnh đó làm cho choáng váng đến mức phải ra vườn cầu Đấng Bề Trên ban cho sức mạnh.

    Sau đó, mọi người cẩn thận đặt cái xác thứ nhất lên sàn phòng khách và ngó quanh xem có thấy thứ gì khả dĩ giải đáp sự việc kinh hoàng này. Họ tìm thấy trong các kệ tủ nhiều thảo dược và bình đựng chất lỏng. Sau này, khi những người am hiểu nghiên cứu những chất lỏng này, họ phát hiện ra rằng, một vài bình có chứa thuốc ngủ. Gần như chẳng có ai không nghĩ rằng chàng trẻ tuổi mà họ vẫn luôn thấy đáng ngờ ấy đã pha thuốc ngủ vào đồ uống của ông Davis để rồi đoạt mạng ông bằng cách thức man rợ như trên. Có vẻ như sau đó anh ta đã nhận thức được tội ác tày đình của mình và chọn cách quyên sinh.

    Các cháu không thể hiểu được, sau đó có bao nhiêu vấn đề pháp lý mà vị thẩm phán và các viên chức phải giải quyết đâu. Dù sao thì, trong hai ngày tiếp theo, mọi thứ cứ rối tung cả lên vì rất nhiều người cùng tham gia vào việc xử lý vụ việc. Sau đó, dân làng tổ chức một cuộc họp và thống nhất rằng họ không thể chấp nhận việc chôn cất hai người này trong nghĩa trang của nhà thờ.

    Lý do là, người ta đã tìm thấy trong các ngăn kéo và tủ của ông Davis một số giấy tờ mà linh mục White và vài tu sĩ khác đã cùng nhau xem xét. Sau đó, họ cùng ký vào một văn bản với nội dung rằng, hai kẻ kia đã tự nguyện phạm phải tội lỗi chết người là thờ ngẫu tượng. Những tu sĩ lo ngại rằng, một số người khác trong vùng cũng có thể đã sa ngã theo dị giáo này liền kêu gọi họ mau thành tâm sám hối để thoát khỏi số phận nghiệt ngã như của hai kẻ vừa bỏ mạng. Rồi họ đốt hết số giấy tờ tìm được trong nhà.

    Cũng vì lý do đó mà linh mục White chiều theo nguyện vọng của dân làng và không cho phép hai kẻ tội lỗi đó được chôn cất theo nghi thức Cơ Đốc giáo. Một buổi chiều nọ, ông ta cùng mười hai người đàn ông được chọn cùng đến ngôi nhà nơi cái ác từng ngự trị. Họ mang theo hai tay đòn sơ sài và hai tấm vải liệm màu đen. Ở ngã tư, nơi con đường rẽ về phía Bascombe và Wilcombe, đã có những người đàn ông khác đứng đợi. Họ đã đào sẵn một cái hố và thắp đuốc lên. Một đám đông những người đến từ khắp các vùng lân cận đã tụ tập ở đó.

    Linh mục White và mười hai người khiêng xác bước vào nhà ông Davis mà không bỏ mũ ra, đặt hai xác chết lên tay đòn và bọc vào vải liệm đen. Không ai nói một lời nào trong suốt quá trình đó. Rồi họ khiêng tay đòn đến bên hố, ném hai cái xác xuống và lấp đất đá lên trên. Xong việc, linh mục White mới nói vài lời với những người có mặt.

    Bố của bà cũng có mặt ở đó, vì cụ đã ngay lập tức quay lại sau khi nghe tin về vụ việc xảy ra trong làng. Cụ nói rằng, khung cảnh quái lạ đó không bao giờ rời khỏi trí nhớ của cụ - những ngọn đuốc bập bùng, hai cái xác quấn vải đen nằm chen chúc trong hố, và sự im lặng tuyệt đối, chỉ có tiếng một đứa trẻ hay một phụ nữ thỉnh thoảng lại rên lên vì sợ hãi.

    Khi linh mục White kết thúc bài phát biểu, tất cả bỏ đi và để hai người chết lại đó.

    Có người bảo, đến bây giờ, ngựa vẫn sợ không dám đi đến ngã tư đó. Bà còn nghe nói rằng, bên trên hố chôn xác, có một làn sương kỳ dị, cũng có thể là một ánh sáng, lơ lửng suốt một thời gian dài. Không biết thực hư thế nào.

    Nhưng có một điều bà biết chắc: Ngày hôm sau, khi cụ các cháu có việc đi qua chỗ rẽ vào con đường nhỏ nơi có ngôi nhà của ông Davis, cụ thấy ở ba hay bốn chỗ có vài người đang tụ tập và tranh luận kịch liệt. Thế là cụ cưỡi ngựa lại gần và hỏi họ có chuyện gì. Họ vây lấy cụ và kêu: "Ở đó có máu, thưa ngài! Ngài xem này!"

    Cụ xuống ngựa và được họ chỉ cho bốn vũng máu to đọng trên con đường nhỏ. Thứ máu đã đông lại đó bị những con ruồi đen to tướng bu kín đặc. Chúng đứng bất động, không chịu bay đi. Đó là máu của ông Davis đã nhỏ xuống khi người ta khiêng xác ông ta đến hố chôn.

    Cụ thấy cảnh tượng đó quá kinh tởm nên chỉ nhìn qua rồi bảo một trong số những người ở đó: "Anh hãy mau đi lấy một cái giỏ hay một xe cút kít đầy đất sạch lấy ở nghĩa trang về đây rồi rắc lên mấy vũng máu. Tôi sẽ đợi ở đây đến khi anh quay lại."

    Một lát sau, người đó quay lại cùng người giúp việc nhà thờ. Họ mang theo một xe cút kít đựng đất lấy ở nghĩa trang và một cái xẻng. Họ dựng xe cút kít cạnh một vũng máu rồi bắt đầu xúc đất đổ lên. Các cháu nghĩ, chuyện gì đã xảy ra tiếp theo nào? Những con ruồi, trước đó còn bất động, đồng loạt cất cánh như một đám mây dày đặc và bay về phía ngôi nhà của ông Davis.

    Người giúp việc nhà thờ đồng thời cũng là người quản trang lặng đi một lúc, nhìn theo bầy ruồi và nói với cụ: "Là Chúa Ruồi, thưa ngài". Rồi ông ta không nói thêm gì nữa.

    Ở những vũng máu còn lại cũng xảy ra chuyện tương tự.

    Charles: Ý người giúp việc nhà thờ là gì thế hả bà?

    Bà: Cháu yêu của bà, tốt nhất là ngày mai cháu hỏi ông Lucas khi đến tiết học. Bây giờ thì bà không giải thích cho cháu được vì sẽ mất thời gian lắm. Lẽ ra các cháu phải lên giường đi ngủ từ lâu rồi.

    Sau đó, cụ quyết định rằng không ai được phép dùng ngôi nhà của ông Davis hay bất kỳ thứ gì trong đó nữa. Mặc dù ngôi nhà đó là một trong những căn nhà to đẹp nhất bên con đường nhỏ, cụ vẫn bảo với dân làng rằng nó phải bị phá bỏ ngay lập tức. Ai muốn thì cứ ôm một bó củi đến mà đốt trụi nó đi. Và dân làng đã làm thế thật.

    Họ chất củi vào trong phòng khách, rải rơm vào giữa những thanh củi để chúng mau cháy rồi châm lửa. Vì ngôi nhà không xây bằng gạch nên cháy rụi rất nhanh. Chỉ còn sót lại ống khói bằng đá và bếp lò bằng gạch men. Hồi còn nhỏ, bà vẫn còn nhìn thấy cái ống khói. Nhưng rồi nó cũng sập nốt.

    Giờ thì bà sẽ kể phần cuối của câu chuyện.

    Các cháu có thể tin bà, rằng dân làng mãi về sau còn kháo nhau rằng họ nhìn thấy ông Davis và chàng trai trẻ đó – lúc thì một người ở trong rừng, khi thì cả hai ở nơi từng là ngôi nhà của họ, hoặc cả hai cùng đi trên con đường nhỏ, nhất là vào mùa xuân và mùa thu.

    Bà không biết gì về chuyện đó. Nhưng nếu chúng ta biết chắc rằng ma quỷ có thật trên đời này, thì ta có thể nói rằng những người như hai kẻ đó không được phép yên nghỉ.

    Có một điều bà chắc chắn: Không lâu trước khi ông các cháu và bà làm lễ cưới, có lần ông và bà đã cùng đi dạo rất lâu trong rừng vào một buổi chiều tháng Ba. Ông bà mải hái hoa và nói đủ thứ chuyện như bao cặp tình nhân trẻ khác, đến nỗi không để ý đến con đường mình đang đi. Bỗng nhiên bà kêu toáng lên và ông các cháu lo lắng hỏi có chuyện gì vậy. Có con gì đó đã đốt vào mu bàn tay bên phải của bà và vết đốt đau kinh khủng. Có một con ruồi còn đậu trên tay bà nên bà dùng tay còn lại đập chết nó luôn.

    Vì ông các cháu rất quan tâm đến các loại côn trùng nên bà đưa con ruồi chết cho ông xem. Ông nói: "Anh chưa từng thấy con ruồi nào như thế này bao giờ." Bà thì không thấy con ruồi này có gì khác thường lắm, nhưng căn cứ vào hậu quả sau này của vết đốt thì chắc chắn là ông có lý.

    Khi ông bà nhìn quanh thì hốt hoảng nhận ra mình đang đứng ngay nơi từng là ngôi nhà của ông Davis. Sau này bà mới được biết rằng những người khiêng xác đã từng đặt tay đòn xuống một lát ở ngay chỗ đó, trước cánh cổng vườn xưa kia.

    Ông bà cuống cuồng chạy khỏi đó – có nghĩa là bà giục ông chạy vì quá hoảng sợ khi nhận ra mình đã đi đến nơi nào. Cứ theo ý ông thì có lẽ ông đã ở lại đó xem xét thêm một lúc cho thỏa trí tò mò. Nếu vậy, có khi ông bà đã khám phá ra thêm vài điều, ai mà biết được.

    Nhưng bà cảm thấy không khỏe, có lẽ cũng vì chất độc của con côn trùng đáng sợ ấy đã phán tán trong cơ thể bà. Bàn tay và cánh tay bà sưng vù lên và đau khủng khiếp. Không có loại băng quấn hay thuốc bôi nào của mẹ bà có thể giảm nhẹ được cơn đau. Chỉ đến khi bà vú già thuyết phục cụ đi gọi nhà thông thái ở Bascombe đến khám tay cho bà thì mọi chuyện mới khá hơn. Ông ta có vẻ am hiểu những vết côn trùng đốt và nói rằng bà không phải là người đầu tiên gặp phải chuyện này.

    "Khi thần Mặt Trời đang thu thập sức mạnh và đạt cực thịnh vào dịp Điểm Phân, đầu mùa xuân cũng như mùa thu, để rồi lại dần suy yếu, những kẻ đang ám con đường này, hãy liệu hồn", ông ta nói. Nhưng nhà thông thái đó đã quấn thứ gì quanh tay bà cũng như ông ta đã lẩm bẩm những gì lúc đó thì ông ta không chịu tiết lộ.

    Sau đó, bà hồi phục nhanh chóng. Nhưng từ đó trở đi, bà thường nghe tin có người cũng gặp phải chuyện tương tự. Chỉ từ vài năm gần đây mới ít hẳn đi - có lẽ thời gian trôi qua thì chuyện đó cũng sẽ biến mất hẳn.

    Nhưng vì tất cả những lý do đó, Charles ạ, bà tuyệt đối không muốn các cháu hái quả mâm xôi ở con đường đó cho bà hay để ăn. Và bây giờ, khi đã biết toàn bộ câu chuyện rồi, có lẽ các cháu cũng chẳng có hứng nữa.

    Giờ thì lên giường đi ngủ!

    Cháu nói gì hả, Fanny? Có ánh sáng trong phòng ngủ của cháu? Vớ vẩn! Cởi ngay quần áo ra và đọc kinh đi. Tí nữa bà sẽ lên chúc cháu ngủ ngon, nếu bố các cháu không cần đến bà khi ông ấy thức dậy.

    Còn Charles: Nếu bà nghe thấy, dù chỉ một từ, rằng cháu dọa em nó khi lên phòng ngủ, thì bà sẽ kể ngay cho bố cháu, và qua lần trước thì cháu đã biết hậu quả thế nào rồi đấy.

    Cửa đóng lại sau lưng hai đứa trẻ. Sau khi đã dỏng tai nghe ngóng tiếng động vọng xuống từ bên trên một lúc, người bà lại cầm lấy que đan, trong khi vị điền chủ vẫn say sưa giấc nồng.


    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem linkBiện pháp thời Trung Cổ để xác định một người có phải là phù thủy hay không. Trong phép thử nước nóng, người bị tình nghi sẽ phải dùng tay trần nhặt một cái nhẫn hay hòn đá nhỏ từ trong nồi nước sôi. Nếu sau vài ngày, vết thương không mưng mủ, người đó được coi là vô tội. Trong phép thử nước lạnh, người này sẽ bị trói chân tay rồi quẳng xuống nước. Nếu người đó nổi lên mặt nước thì sẽ bị coi là phù thủy.
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/8/23
    meetdak, nhanjkl, machine and 6 others like this.
  2. camtho21

    camtho21 Mầm non

    Bạn dịch hay thật đấy. Cảm ơn bạn nhiều nhé ^^
     
    Cub thích bài này.
  3. Narga

    Narga Lớp 5

    Bạn dịch hay thật đấy, mình xin phép đưa vào cuốn TRUYỆN MA nhé (tái bản của Giếng thở than), mình đang vừa đọc vừa làm lại theo bản mới
    IMG_20230810_235339(1).jpg IMG_20230810_235304(1).jpg Screen Shot 2023-08-11.jpg
     
    machine, Cub and Anan Két like this.
  4. Cub

    Cub Lớp 3

    Mình dịch từ bản tiếng Đức bạn ạ. Bản này có vài điểm khác biệt so với bản gốc tiếng Anh, do dịch giả tự ý thay đổi, như mình đã viết ở post đầu ấy. Cho nên có lẽ không dùng được rồi, vì lệch so với bản gốc. Bản tiếng Việt của dịch giả Lê Nguyệt Áng thì có vài lỗi dịch sai. Hay là bạn đối chiếu với bản gốc tiếng Anh ở link này: Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
    nhanjkl and amylee like this.
  5. Narga

    Narga Lớp 5

    Mình thêm vào thành một chương riêng, để đọc song song tham khảo đó bạn
     
    Cub thích bài này.
  6. Cub

    Cub Lớp 3

    Ừ, vậy cũng hay. Nói thực mình cũng hơi ngạc nhiên khi đọc bản tiếng Đức. Mình không ngờ rằng dịch giả ở đây lại tự cho mình quyền sửa đổi nội dung truyện như vậy, mặc dù những thay đổi này rất nhỏ và trong nhiều trường hợp còn khiến câu chuyện hay hơn. Ví dụ như câu nói của chàng trẻ tuổi "chúng tôi không thiếu bầu bạn" là dịch giả Đức tự biên tự diễn, câu trong bản gốc là "chúng tôi không muốn có người khác ở bên cạnh". Câu trong bản tiếng Đức khiến câu chuyện trở nên rùng rợn hơn, theo cảm nhận của mình. Còn câu trong bản gốc thì có thể khiến người đọc liên tưởng đến những chuyện khác :P
     
    amylee thích bài này.
  7. Narga

    Narga Lớp 5

    Chuyển ngữ một cách uyển chuyển là nghệ thuật mà bạn, gặp dịch giả giỏi đọc sách đôi khi hay hơn nguyên tác, vì có những con chữ đặc biệt chỉ có trong một vài ngôn ngữ thậm chí còn khiến tác giả không ngờ :p


    P/S: Bạn cũng đang sống ở Đức?
     
  8. Cub

    Cub Lớp 3

    Ừ, mình sang học rồi ở lại cũng khá lâu rồi. Bạn cũng vậy?
     
  9. Narga

    Narga Lớp 5

    Mình đi công tác vài năm, giờ đang chuẩn chuyển sang nước khác theo dự án mới.
     
  10. Cub

    Cub Lớp 3

    Mình muốn sửa lại vài chỗ trong bản dịch. Tối nay rảnh mình sẽ làm. Mai bạn hẵng lấy nhé.
     
  11. Narga

    Narga Lớp 5

    Okie bạn, mình đang điều chỉnh để nó giống bản in 2023
     

Chia sẻ trang này