Văn học trong nước CÁNH ĐỒNG PHÍA TÂY (Hồ Phương)

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi hoi_ls, 24/10/23.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    CÁNH ĐỒNG PHÍA TÂY

    Tiểu thuyết
    Tác phẩm đạt Giải thưởng Bộ Quốc phòng 1994
    Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001

    Tác giả: Hồ Phương
    Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2014


    Thực hiện ebook: hoi_ls




    [​IMG]

    Nhà văn HỒ PHƯƠNG


    TIỂU SỬ


    HỌ VÀ TÊN KHAI SINH: Nguyễn Thế Xương. Sinh ngày 15 tháng 4 năm 1930. Quê quán: Kiến Hưng, Hà Đông (cũ). Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.

    Thuở nhỏ đi học ở Hà Nội, tháng 12 năm 1946 tham gia quân đội. Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp ông là chiến sĩ, rồi làm phóng viên, cán bộ phụ trách báo của Đại đoàn 308, chính trị viên đại đội chiến đấu. Đã dự nhiều chiến dịch lịch sử trong đó có Biên giới 1950 và Điện Biên Phủ. Năm 1954 về Tổng cục Chính trị viết văn, làm Tạp chí Văn nghệ quân đội. Sau đó làm Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam. Tham gia BCH Hội Nhà văn Việt Nam khóa 3. Năm 1990 được phong quân hàm Thiếu tướng.

    TÁC PHẨM: Thư nhà (truyện ngắn, 1949); Những tiếng súng đầu tiên (tiểu thuyết, 1955); Cỏ non (tuyển truyện ngắn, 1960); Xóm mới (tập truyện ngắn, 1965); Kan Lịch (tiểu thuyết, 1967); Chúng tôi ở Cồn Cỏ (ký sự dài, 1968); Những tầm cao (tiểu thuyết, 2 tập, 1974); Biển gọi (Tiểu thuyết, 1978); Cánh đồng phía tây (tiểu thuyết, 1994); Yêu tinh (tiểu thuyết, 2001); Ngàn dâu (tiểu thuyết, 2002); Những cánh rừng lá đỏ (tiểu thuyết, 2005); Cha và con (tiểu thuyết, 2007)...

    GIẢI THƯỞNG: Giải thưởng Báo Văn nghệ với truyện ngắn Cỏ non (1958); Giải thưởng Bộ Quốc phòng (1994) với tiểu thuyết Cánh đồng phía tây, giải thưởng Hội Nhà văn - Bộ Công an với tiểu thuyết Yêu tinh (2001). Giải thưởng ƯBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam (2003) với tiểu thuyết Ngàn dâu. Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001: Cỏ non (truyện ngắn); Những tầm cao (tiểu thuyết, 2 tập); Kan Lịch (tiểu thuyết); Cánh đồng phía tây (tiểu thuyết). Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2012: Ngàn dâu (tiểu thuyết); Những cánh rừng lá đỏ (tiểu thuyết).
     
    tducchau and machine like this.
  2. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    1



    Tiếng sấm rền rĩ mãi ở phía Tây nhìn về nơi đó, những đỉnh núi trùng điệp như bị chìm lấp hết trong mây đen vần vụ. Chớp sáng chốc chốc lại vọt lên lằng nhằng dữ tợn. Bà Lợi, phó chủ tịch phụ nữ tỉnh X, trưởng đoàn phụ nữ lên mặt trận úy lạo binh sĩ, chép miệng nói với những người trong đoàn cùng đang tạm trú ở một chiếc lán cách đường cái không bao xa:

    - Mưa! Trên ấy khéo mưa. Anh em bộ đội lại khổ lắm đây. Các chị hẳn còn nhớ Tỉnh hội mình cũng đã đi những chiến dịch như Hoàng Hoa Thám - Hà Nam Ninh. Cũng mưa. Khổ hết chỗ nói. Buồn cười, còn nhớ một cậu bộ đội còn trẻ lắm, khiêng pháo, leo đèo, giữa lúc mưa to, cứ mếu máo khóc: “Cha sinh mẹ đẻ chưa bao giờ khổ đến như thế này. Khổ ơi là khổ! Ước gì tàu bay nó bắn chết mẹ đi, cũng còn sướng”...

    Mọi người cùng cười theo, tiếng cười con gái và đàn bà thật giòn giã, trong trẻo.

    Trời cũng vừa nhá nhem. Bà Lợi ra hiệu cho mọi người lên đường sớm hơn thường lệ ba mươi phút:

    - Ta tranh thủ, các chị, các cô ạ! Giờ này, lại tối trời, chắc mấy thằng phi công bay trở về Gia Lâm, Cát Bi ráo rồi. Còn tắm rửa, rồi mở sâm banh, ăn bữa tối và nhảy đầm nữa chứ.

    Mọi người cùng nhận thấy bữa nay bà Lợi như vui vẻ khác hẳn. Phải chăng vì sắp tới Điện Biên Phủ? Tối nay đoàn sẽ vượt đèo Pha Đin. Tối mai tới Tuần Giáo. Nếu không gặp khó khăn đường sá, hoặc máy bay, bom nổ chậm... thì có lẽ có thể vào sâu địa phận Điện Biên Phủ chừng hai chục cây số...

    Sấm vẫn rền rĩ phía chân trời Tây Bắc tím bầm với những tia chớp lằng nhằng dữ tợn. Một chiếc xe tải Mô-lô-tô-va cũ kỹ, rách nát đã bò tới chờ sẵn ở bên đường. Bà Lợi, là trưởng đoàn được ưu tiên lên ca bin ngồi cùng lái xe, còn toàn đoàn leo lên quầy phía sau. Một nửa quầy đã chất đầy hàng quân sự, kể cả quà biếu của đoàn: bánh, mứt, kẹo, trà, thuốc, đường, sữa... Nửa quầy còn lại được trải hai chiếc chiếu cá nhân ghép lại cho cả đoàn cùng chú phụ lái và một chú bộ đội áp tải xe, ngồi quây quần trò chuyện.

    Chiếc xe bắt đầu lăn bánh. Toàn đoàn đã lên đẩy đủ. Gọi là đoàn đại biểu phụ nữ, nhưng thật ra không phải chỉ có toàn đàn bà mà còn có cả một "đấng nam nhi", đó là đổng chí Văn Túc, trưởng ban Tuyên huấn kiêm chủ bút tờ báo Phụ nữ tỉnh. Vốn tính vui vẻ lại thêm cái bệnh nghề nghiệp hay nói, Văn Túc thường tâm sự với mọi người: "Nếu không phải là thằng đảng viên, Đảng đặt đâu ngồi đấy, thì tớ đã tếch từ lâu rồi. Các bố chán bỏ mẹ, ai đời lại bắt một thằng đàn ông vào làm việc lọt thỏm trong một thế giới toàn đàn bà!

    Chẳng phải ngại "Kính thưa chị", "Kính thưa các em". Không phong kiến, sĩ diện đến nỗi thế! Cái chính là cứ phải luôn luôn gồng mình lên để khỏi... phạm kỷ luật. Uất lắm, cái thân mình thật chẳng kém gì thằng hoạn quan các ông ạ"...

    Vừa lên xe, một chị nào đó đã nhớ ngay tới Văn Túc:

    - Này, Văn Túc tiên sinh, tối qua đã kể chuyện Him Lam, tối nay, kể tiếp đồi Độc Lập đi!

    Mọi người cùng nhao nhao họa theo. Văn Túc làm ra bộ khiêm tốn:

    - Nói vậy chứ, tôi cũng chỉ đi nhặt nhạnh tin tức thôi... Các chị, các cô cứ làm như tôi được trực tiếp chiến đấu ở trên ấy không bằng.

    - Ồ, không sao? Nhưng mà anh tổng hợp giỏi đấy! Phải chịu tài con nhà tuyên huấn. - Một chị động viên.

    Văn Túc vẫn còn cố làm ra vẻ ngần ngại:

    - Cũng không có gì nhiều lắm đâu. Chỉ có điều là tôi phải chịu khó sang bên Tỉnh ủy nghe nhờ cái đài bên ấy. Nhưng cái của nợ ấy có lẽ sản xuất từ thời đồng chí Xit-ta-lin còn đi học cấp hai thì phải, nên cứ nói được mấy phút nó lại câm bặt. Lắc thế nào thì lắc, cứ ỳ ra. Nhưng té ra thân lừa ưa nặng các vị ạ, cứ đập cho đánh bốp một cái, thế là lại nheo nhéo: "Thưa các đồng chí và các bạn, đây là tiếng nói Việt Nam...".

    Mọi người cười bò ra.

    - Thôi, thôi, lạc đề. Tán mãi, bắt đầu đi nào - Một chị xua tay. Bấy giờ Văn Túc mới trở lại nghiêm chỉnh, hắng giọng:

    - Vâng, thôi được, tối qua tôi đã kể Him Lam với anh Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai. Tối nay, tôi sẽ kể tới trận thứ hai. Đó là trận tiêu diệt cụm cứ điểm trên đồi Độc Lập, cũng nhằm để mở cửa tập đoàn cứ điểm. Đây cũng là một trận cực kỳ ác liệt và oai hùng không kém gì Him Lam.

    - Không biết hôm nay ở trên ấy đã đánh tiếp đến đâu rồi nhỉ? - Một chị bỗng xen vào hỏi.

    Mọi người cùng ồ lên:

    - Đừng ngắt lời anh ấy. Cứ kể tiếp đi anh Văn Túc.

    Văn Túc gật đầu:

    - Vâng, nếu như ở Him Lam có anh Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, thì trong trận đồi Độc Lập cũng có các dũng sĩ Nguyễn Văn Ti và Phan Bá Tuệ đã tung hoành ở cửa mở như những thiên thần...

    Trong lúc Văn Túc đang kể chuyện trên xe, thì từ những cánh rừng hai bên đường, những đoàn bộ đội nai nịt gọn gàng, cùng các đoàn dân công đã lũ lượt kéo ra, kín trên mặt đường, dài như tới vô tận. Dân công Kinh có, Tày Nùng có, Mường Thái có, H’mông, Sán Dìu, Mán đỏ, Mán tiền có, Khu ba có, Thanh - Nghệ có... và cả những đoàn xe đạp thồ với "tay ngai", gậy chống tua tủa, nghênh ngang. Chưa hết, cũng từ các cánh rừng khe suối, từng đoàn xe hơi vận tải ầm ì tiến ra. Đủ các kiểu đủ các loại: xe Nga có, xe Trung Quốc có, cả xe GMC của Mỹ mà quân ta đã thu được qua các chiến dịch trước. Tất cả hợp thành những công-voa dài dặc cài lá ngụy trang bù xù như những đoàn voi thần thời tiền sử, hòa cùng những dòng người kĩu kịt cùng hối hả tiến về trước, nơi đang có nhiều tiếng sấm ì ầm và những tia chớp lằng nhằng dữ tợn. Nơi ấy là Điện Biên. Nơi ấy đang là rận lớn nhất trong lịch sử chiến tranh cận đại của Tổ quốc. Nơi ấy, ai cũng biết, đang là một trận đánh có thể là trận quyết chiến cuối cùng...

    Trên ca bin xe, bà trưởng đoàn cứ thò đầu ra để ngắm nhìn quang cảnh "trẩy hội chiến dịch". Bà thốt lên với anh lái xe nhưng cũng như để nói với chính mình:

    - Người đâu mà lắm thế! Như cả nước ra trận vậy!

    Anh lái xe cũng có vẻ hào hứng:

    - Chắc chị mới được thấy trên đường này thôi. Còn nhiều con đường khác cũng dẫn tới Điện Biên, cũng như trẩy hội cả. Đúng là tất cả cho tiến tuyến, tất cả cho Điện Biên. Mà còn cả đường thủy nữa chị ạ. Tụi bạn em nó bảo Trung ương phái lên phía Lai Châu nhiều công binh lắm. Để phá thác mở luồng cho thuyền bè chuyên chở gạo, đạn cho Điện Biên. Nghe nói có nhiều anh em công binh rất dũng cảm đã phá được nhiều thác dữ, như anh Phan Tư, dân bản Mường đã gọi anh ấy là "Con trai của thủy thần"...

    Ở quầy xe phía sau, Văn Túc vẫn đang thao thao kể chuyện đánh đồi Độc Lập. Anh nói chuyện quả là có duyên. Tuy vậy, có chị tinh ý nhận thấy, anh vẫn như chưa trổ hết tài nghệ, còn có chút dè giữ nào đó. Anh hay liếc nhìn về phía một người đàn bà còn trẻ ngồi hơi lui về phía sau mọi người. Đó là Nguyệt Lệ, thành viên trẻ nhất trong đoàn và cũng là người đẹp nhất trong đoàn. Nguyệt Lệ đã lấy chồng được hai năm nay, khi cô mới hai mươi hai tuổi. Đúng là Văn Túc có phần như không được hoàn toàn tự tin trước Nguyệt Lệ.

    Sắc đẹp dễ làm cho người khác phải bối rối. Hơn nữa, Văn Túc biết chồng Nguyệt Lệ là một cán bộ cao cấp trong quân đội. Vậy rất có thể chồng cô cũng đã kể cho cô nghe hết mọi chuyện về Him Lam và đồi Độc Lập.

    Tuy vậy, Nguyệt Lệ vẫn tỏ ra chăm chú như tất cả mọi người. Cô quả là rất đẹp. Nhưng rất ít nói. Dường như để thay cho những lời nói là một nụ cười rất có duyên với hai cái lúm đồng tiền nho nhỏ. Đôi mắt dài đen thăm thẳm có một sức hút thầm kín rất lạ. Tuy đã có chồng, nhưng cô vẫn để tóc thề, mái tóc đen huyền, óng ả, buông xõa trên đôi vai tròn đẹp như vai tượng. Văn Túc đã được biết đôi điều về Nguyệt Lệ: cô tốt nghiệp trung học kháng chiến thì được sang Hoa Nam (Trung Quốc) theo học sư phạm cùng một số anh chị em khác. Sau ba năm, cô trở về, và lấy chồng. Chồng cô là Hồng Đăng, lúc đó đang là một trung đoàn trưởng khá nổi tiếng. Anh đã xin cho Nguyệt Lệ về cơ quan phụ nữ tỉnh, không muốn cho cô dạy học, e vất vả. Nguyệt Lệ rất thông minh, lại biết cách ứng xử, nên được bà hội trưởng rất quý, thường dùng như thư ký riêng, mặc dầu Nguyệt Lệ ở ban nữ công. Đã hai năm, hai vợ chồng vẫn chưa có con. Hồng Đăng đang hết sức băn khoăn. Nhưng trái lại Nguyệt Lệ vẫn bình thường như không. Cô nói cô chưa muốn có con. Nghe nói hai vợ chổng không nhất trí với nhau về việc này, nhưng họ vẫn sống với nhau rất êm đẹp.

    Câu chuyện về đồi Độc Lập của Văn Túc vừa kết thúc thì có tiếng thét ở phía trước rồi một người cầm một chiếc đèn pin bọc vải xanh hiện ra ở đầu mũi xe:

    - Có tiếng máy bay đấy. Dừng lại!

    Chiếc xe phanh cứng. Mọi người cùng vội vã nhảy xuống, chạy dạt vào cánh rừng ở bên đường. Cũng như mọi đêm, chạy máy bay hoặc phải xuống xe qua phà, qua ngẩm, hoặc chờ phá bom nổ chậm, Văn Túc thường luôn ở bên cạnh Nguyệt Lệ.

    Hai người cùng đứng nấp sau một thân cây cổ thụ, lắng tai, hồi hộp nghe ngóng. Tiếng máy bay ì ì ở khá xa, phía Sơn La thì phải. Giờ phút chờ đợi hơi lâu, vốn tính hay chuyện, Văn Túc lại cất tiếng hỏi:

    - Này, cô Nguyệt Lệ, chắc ở nhà, trước khi đi, anh Hồng Đăng cũng đã kể cho cô nghe hết chuyện về Him Lam, Độc Lập rồi phải không?

    Nguyệt Lệ lắc đầu. Trong bóng đêm lờ mờ, gương mặt cô càng đẹp một cách dịu dàng và thầm kín.

    - Không. Anh Đăng nhà tôi đi từ trước Tết.

    Văn Túc ngạc nhiên:

    - Trước Tết? Đi chuẩn bị cho Điện Biên từ trước Tết?

    Nguyệt Lệ nho nhỏ:

    - Vâng, nhưng lúc đó tôi không biết anh đi đâu. Anh ấy giữ bí mật không nói. Nhưng nay thì chắc là anh ấy đang ở Điện Biên.

    Văn Túc tươi cười:

    - Này, giá anh Đăng vẫn còn ở đơn vị, không lên Tổng cục Hậu cần thì chắc chuyến này ông ấy chỉ huy đánh Him Lam, Độc Lập là cái chắc. Trước kia anh Đăng đã có tiếng là “húc” khá lắm mà.

    Nguyệt Lệ im lặng. Câu nói của Văn Túc đã gợi lại cho cô kỷ niệm cũ: Hè 1952, vừa từ khu học xá Hoa Nam trở về, chưa nhận công tác, một hôm cô nhận được giấy mời của Sở Giáo dục Liên khu, mời tới dự nghe một buổi nói chuyện thời sự mặt trận. Người nói hôm ấy là Hồng Đăng. Trên ba mươi tuổi nhưng anh vẫn còn trẻ. Áo blu - dông Mỹ chiến lợi phẩm, dây lưng cũng Mỹ với khẩu côn bát xệ một bên hông. Một đôi giầy cao cổ với ghệt ngắn cũng của Mỹ. Một con ngựa tía rất đẹp buộc ngay ở lối vào hội trường X. Một cậu chiến sĩ khoác tiểu liên luôn đứng quanh quẩn ở gần chỗ Hồng Đăng ngồi... Anh có hoàn toàn đầy đủ dáng vẻ một “người hùng” mà nhiều cô gái trong kháng chiến thường mơ ước. Và không phải chỉ có cái dáng vẻ hấp dẫn ấy. Hồng Đăng còn tỏ ra có tài nói chuyện. Hôm ấy anh nói về trận tiêu diệt đồn Bản Toọc mà chính anh là người chỉ huy cao nhất ở đó. Khi nói xong, Hồng Đăng trở lại chỗ ngồi, mọi người vỗ tay vang dậy. Một số người còn đổ xô tới bắt tay và gần như công kênh anh lên trong những tiếng hò reo vui vẻ. Tới giây phút ra về, Hồng Đăng đã có một cử chỉ hết sức bất ngờ làm cho mọi người vừa ngạc nhiên vừa thú vị: anh rút chiếc bút máy đang gài trên túi áo ngực, tươi cười nói: “Trước khi trở về đơn vị, tôi xin các đồng chí và các bạn cho tôi một đặc ân là tặng cây bút này, cây bút mà tôi đã ký vào bản mệnh lệnh tiêu diệt đồn Bản Toọc, cho một cô gái bất kỳ nào trong cuộc họp này”. Mọi người đều vỗ tay vang dậy. Trong lúc ai ai cũng còn đang hồi hộp, kể cả Nguyệt Lệ, thì Hồng Đăng đã từ từ bước tới trước mặt cô và dùng cả hai tay đưa chiếc bút tặng cho cô... Cả hội trường như bùng nổ trong một trận sấm vỗ tay. Ai ai cũng biết anh đã tặng cây bút ấy cho cô gái đẹp nhất cuộc họp. Nhưng cũng có người còn biết rõ hơn: Ông Huyến ở Sở Giáo dục, bạn cũ của Hồng Đăng, đã bố trí một màn kịch tuyệt vời để giới thiệu Hồng Đăng với Nguyệt Lệ. Hai người đã quen nhau như thế đấy. Và, cũng không mấy ai ngờ, chỉ mấy tháng sau Nguyệt Lệ đã trở thành vợ của anh...

    - Cô Nguyệt Lệ này - Văn Túc lại nói - Lên Điện Biên chuyến này thế nào cô cũng gặp được anh ấy đấy nhỉ? Thật là thú vị đấy!

    Nguyệt Lệ chỉ hơi mỉm cười, im lặng. Văn Túc hồ hởi tiếp:

    - Còn tôi, chuyến này tôi cũng hy vọng gặp được mấy thằng bạn cũ ở đại đoàn 213 và cả đại đoàn 803. Lâu lắm rồi tụi tôi không gặp nhau. Nói thật, cũng tiếc cho cái thân tôi chẳng được bay nhảy, tung tẩy như chúng nó. Làm thằng con trai, thằng đàn ông thời buổi này mà chỉ nằm ở xó hậu phương, nó chẳng ra làm sao cả, cô ạ!

    Nguyệt Lệ lại mỉm cười, một nụ cười rất dịu dàng và thân mật làm cho Văn Túc cũng thấy mát lòng mát ruột:

    - Những số phận khác nhau. Làm sao mà ai cũng như ai cả anh? Anh Túc có nhiều cống hiến rất quý cho cơ quan đấy chứ!

    Rồi cô bỗng như chăm chú:

    - À, mà này, anh Túc ơi, anh là người “cái gì cũng biết”, giao du rộng, anh có biết anh Dũng Linh không nhỉ?

    Văn Túc nhíu mày:

    - Dũng Linh nào nhỉ? Anh ấy ở đơn vị nào mới được chứ?

    - Trước kia anh ấy ở 803, còn bây giờ thì không biết ở đâu.

    - Cô... quen anh ấy, hay là bà con?

    - Quen. Cũng có thể gọi là... anh nuôi cũng được. Hồi 1948, 1949, ấy ở Thái Nguyên, vâng, hồi ấy gia đình tôi tản cư, ở bến Huống, tôi học trung học ở đấy. Còn đơn vị anh ấy thì đóng đâu ở Kép Le, hoặc Phúc Trìu, Phú Xuân thì phải...

    Văn Túc lắc đầu:

    - Thế thì tôi không biết cô ạ. Hồi đó tôi đang còn công tác ở phòng thông tin huyện Thanh Ba - Phú Thọ...

    Nguyệt Lệ khép lại hai tà áo khoác, và khoanh tay trước ngực cho đỡ lạnh. Cô ngước nhìn lên vòm trời đêm Tây Bắc đen xanh thăm thẳm. Thác Huống. Quả thật cô vẫn chưa sao quên những buổi chiều anh từ đơn vị cuốc bộ ra chơi, hai người cùng đi bên dòng sông yên tĩnh, đẹp vô ngần ấy. Vẫn chưa sao quên cả những buổi học vừa tan tẩm, ra khỏi cổng trường đã thấy anh đang đứng chờ ở đó, áo quần ướt đẫm mồ hôi. “Anh tìm em có việc gì gấp vậy?”, “Không, anh chỉ muốn được gặp em, nhìn thấy em trong chốc lát”. Và đúng như vậy, anh chỉ có thể đi nói chuyện với Nguyệt Lệ được chừng mười lăm, hai mươi phút, sau đó lại hộc tốc quay trở về đơn vị, mà cô biết ở cách xa trường phải tới trên mười cây số đường rừng... Nguyệt Lệ được biết: anh đã học xong trung học, lên ban tú tài chưa trọn khóa thì kháng chiến bùng nổ. Anh trở thành bộ đội. Thoạt đầu, như anh nói, ở Hải Phòng. Sau ra Quảng Ninh, đơn vị anh đã đánh đảo Cô Tô. Hy sinh gần hết chỉ còn một tiểu đội trong đó có anh sống sót, bơi được vào bờ giữa lúc đơn vị đang làm lễ truy điệu... Khá trắng trẻo, mảnh mai. Con người hết sức tế nhị, nhưng vô cùng nồng nhiệt. Các bạn anh nói với cô: đây là chàng trai hào hoa, dễ thương nhất đơn vị. Nhưng rồi anh phải đi mặt trận và cũng dịp đó Nguyệt Lệ cùng một số học sinh được sang nước bạn học tiếp. Vẫn còn nhớ cuộc ra đi của anh vô cùng đột ngột, đến nỗi cô chỉ kịp nhận được một mẩu giấy viết hết sức vội vàng gửi lại: “Anh phải đi đây, Nguyệt Lệ ơi. Trăm ngàn lần xin lỗi em, không kịp đến để chia tay với em. Nhưng, xin hãy hiểu cho anh. Chiến tranh mà em! Biết làm sao hơn? Cũng không dám hẹn cả ngày về. Thế đấy, Nguyệt Lệ ơi, cuộc đời người lính là như vậy, mà từ nay, anh được biết chiến tranh sẽ còn gay go, tàn khốc và lâu dài. Nguyệt Lệ ơi, anh nhớ em, nhớ lắm em ơi, lòng anh như xé, nhưng làm sao được! Nhiệm vụ là phải ra đi...”. Nhận mẩu thư ấy, Nguyệt Lệ không khỏi bật khóc, và cô đã khóc mãi. Có phải đây là những dòng chữ cuối cùng của anh? Có phải đây là những lời tỏ tình bối rối và đau khổ của một chiến sĩ? Quả thật chưa một lẩn anh thổ lộ rõ tình yêu của anh, mặc dầu cô hiểu đầy đủ những gì đã xảy ra trong trái tim anh và cô đã sẵn sàng để đón nhận lấy mối tình đầu tuyệt vời ấy...

    Sang tới nước Bạn, mong mòn con mắt cô mới nhận được một lá thư của anh. "... Một lần nữa thần chết đã quá ngán cái mặt anh. Anh lại được trở về Thái Nguyên. Nhưng không còn Thác Huống, không còn Kép Le, Gia Bảy nữa. Anh buồn tưởng chết. Cơn lốc chiến tranh đã cuốn đi, đã tàn phá hết cả, làm mất đi tất cả. Nhưng anh vẫn luôn luôn nghĩ tới em, vầng trăng đẹp nhất của đời anh. Anh luôn nghĩ tới em ngay cả những lúc anh như đang ở trong một lò lửa, hoặc một địa ngục...”. Nhưng rồi sau đó là sự im lặng đến kinh khủng. Nguyệt Lệ đã viết thư nhờ một số bạn tìm tin tức về anh. Nhưng phần lớn đều thất bại. Có người khẳng định anh đã hy sinh trong trận đánh đồn Non Nước - Ninh Bình, năm 1951. Có người nghe nói anh đã chết vì sốt rét ác tính trong rừng sâu Chiêm Hóa... Nhưng ngược lại có người cho biết tình cờ đã gặp anh một lần trên đỉnh đèo Khế, hè 1952. Nhưng gần như không nhận ra anh nữa, cả về phần xác cũng như phần hồn. Không còn đâu chàng trai hào hoa, mà nay là một con người bất cần đời, thậm chí cục cằn và thô lỗ. Toàn thân anh đầy thương tích. Không còn biết tin ai nữa, năm sau Lệ trở lại Thái Nguyên. Gần như còn chân ướt chân ráo, Nguyệt Lệ đã gặp Hồng Đăng như ta đã biết... Đám cưới của cô không phải đã không có những tiếng xì xầm trong đám bạn bè. “Chết mệt vì ngựa hồng côn bạt mà!”. Nguyệt Lệ đã phải cắn răng chịu đựng. Đã mấy ai hiểu cho cô: đám cưới ấy đâu có phải vì “ngựa hồng côn bạt”, mà chủ yếu là một sự đền ơn đáp nghĩa. Thật vậy, đã mấy ai hiểu được nỗi lòng và gia cảnh của cô năm đó khốn khổ và túng quẫn đến thế nào: cha hy sinh ở Hà Nội tháng Chạp 1946. Có độc một anh trai, anh Biền, Nam tiến từ 1946 cũng hy sinh nốt ở mặt trận Tuy Hòa. Cả nhà chỉ còn có Nguyệt Lệ là lớn, cùng một lũ em nhỏ lốc nhốc. Bà mẹ lại đổ xuống ốm liệt giường liệt chiếu. Không còn lấy một hạt gạo, chứ đừng nói tới thuốc thang. Tất cả ly tách, đồ dùng bán hàng, thậm chí tới cả giường phản trong nhà cũng đã phải bán dần, gần hết sạch. Từ nước Bạn trở về, Nguyệt Lệ dành dụm được chút ít, nhưng cũng chỉ cứu vãn được tình thế trong có vài tháng. Giữa lúc tối tăm, nguy ngập ấy, Hồng Đăng đã đến như một vị cứu tinh. Không những thuốc men đầy đủ mà còn cả cơm áo cho lũ trẻ ăn học nữa... Đến khi Đăng tỏ tình và xin cưới, Nguyệt Lệ chỉ còn biết cúi đầu... Và lúc đó thật ra cô không có ai để chờ đợi nữa. Mà bà mẹ thì giục giã kinh khủng. Như thế đã hai năm trôi qua...

    Lúc đó, một chiếc xe gíp từ phía sau lao lên. Thấy chiếc xe tải đỗ bên đường và có người lố nhố trú ẩn trong rừng, chiếc gíp đỗ lại. Trên xe có một bộ phận điện đài đang làm việc: hai chiến sĩ đang cắm đầu quay chiếc ra-gô-nô phát điện, một người khác đang phát moóc như mưa tuôn. Trên ghế trên, một người to béo, không rõ cấp bậc gì, cất tiếng nói to:

    - Này, xe nào đây? Cứ tiếp tục đi thôi! Tụi nó không tuần đường đâu. Điện đài chúng tôi vừa bắt được: chúng nó đang thả dù xuống Điện Biên. Hai tiểu đoàn dự bị chiến lược.

    Rồi như phấn chấn, ông nói thêm:

    - Tụi nó đang phải dốc túi đấy.

    Đoạn, chiếc gíp lại vọt đi tiếp.

    Bà Lợi mừng rỡ chạy ra mặt đường trước tiên, sau đó là toàn đoàn. Rồi chiếc Mô-lô-tô-va lại gầm vang, hăm hở bò đi. Văn Túc nhìn với ra phía chân trời xa đang tiếp tục ầm ì tiếng máy bay, mà nay anh đã biết rõ là chúng bay lên Điện Biên thả dù đêm. Hào hứng, anh quay lại với mọi người:

    - Các chị, các cô thấy chưa? Quả là Điện Biên! Cái thung lũng xa mù kia, mấy ai ngờ nay đang trở thành bãi chiến trường quyết đấu. Nó đang ngày đêm thu hút tất cả lực lượng và tâm trí của cả đôi bên ta và địch. Chả trách mà các đồng chí bên Tỉnh ủy cho biết: Bác và Trung ương đã có nhận định: chiến dịch lớn này có thể sẽ kết thúc chiến tranh. Nếu không, cũng sẽ có sự ngã ngũ rõ rệt: ta sẽ hoàn toàn ở thế thượng phong, còn bọn Pháp sẽ hoàn toàn lâm vào thế bị động trên toàn cuộc...

    Vừa lúc đó ở dưới mặt đường lại có tiếng léo nhéo:

    - Chuẩn bị vượt Pha Đin nhá!

    Ô, Pha Đin! Thì ra sắp tới ngọn đèo hùng vĩ nổi tiếng trên đường lên Điện Biên rồi ư? Pha Đin, ngọn đèo cao nhất, hiểm trở nay đã có biết bao sự tích như huyền thoại. Mọi người trên xe, không ai bảo ai, cùng vén bạt thò đầu ra, ngó về phía trước, nơi những ngọn núi trùng trùng che kín cả đường chân trời như một bức tường thành vĩ đại. Pha Đin kia rồi. Đó là con đường sống còn để lên Điện Biên. Đó cũng là một “cửa tử” với biết bao chuyện kinh hãi. Máy bay địch đánh phá ngày đêm ác liệt. Hết bom tấn lại bom chùm. Hết bom chùm lại bom nổ chậm. Trong trăm ngàn câu chuyện về Pha Đin có chuyện chiếc dải yếm của một cô dân công đẫm máu vương lại bên hố bom. Anh em bộ đội đã nhặt về bỏ vào một chiếc ca sắt và đặt một bát hương thờ ở ngay đỉnh đèo. Từ đó, bất cứ xe nào, đoàn bộ đội, đoàn dân công nào qua lại, đều thắp một nén nhang và cầu khấn cô gái phù hộ cho mình và cả đoàn bình an vô sự.

    Nguyệt Lệ bỗng nhắm mắt lại. Cô cũng thầm khấn: “Lạy chị, xin hãy phù hộ cho chúng em chân cứng đá mềm, đi đến nơi về tới chốn. Lạy chị, xin hãy phù hộ cho đất nước ta mau vượt được qua cơn binh lửa tàn khốc, đau khổ này”.

    Chiếc xe hào hển và lắc lư rất mạnh. Nó bắt đầu lên đèo...
     
    machine and amylee like this.
  3. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    2


    Ngày nào cũng vậy, từ mờ sáng, những chiếc thám thính Morane và những phi đội oanh tạc B. 26 nối tiếp nhau bay lên quần đảo trên khắp thung lũng Mường Thanh. Tiếng gầm vang không ngớt làm cho bầu trời Điện Biên luôn luôn như sôi lên, quay vòng, rạn nứt. Chốc chốc, một loạt bom lại nổ rung chuyển từ tây sang đông. Những loạt trọng pháo 105 ly, 155 ly cũng luôn luôn dựng lửa trên hầu khắp các cửa rừng, khe suối bốn chung quanh cánh đồng, tạo nên không biết bao nhiêu “cửa tử” nhằm ngăn chặn không cho quân ta từ trên các triền núi ở phía đông và cả ở phía tây tràn xuống.

    Trong một căn hầm khá kiên cố đào sâu vào vách núi, phía trước còn có cả một bức tường bằng các thân gỗ lớn ghép lại, đổ đầy đất, để che chắn, Hồng Đăng, một trong các cán bộ cao cấp của hậu cần chiến dịch, đang bồn chồn trước một chiếc bàn làm bằng tre nứa, trên có đặt mấy chiếc máy điện thoại dã chiến. Trong khi đó, ngồi trước mặt anh, trên một chiếc ghế bằng các chạc cây ghép lại sơ sài, một người Âu lại tỏ ra hết sức hào hứng, sôi nổi, như còn muốn được nói thêm nhiều chuyện nữa. Đó là Léon phóng viên một tờ báo của Đảng Cộng sản Pháp vừa mới sang ta. Cũng dép lốp, cũng áo trấn thủ, cũng mũ nan tre, chàng phóng viên ngoại quốc này đã tỏ ra thích thú với trang phục này, mà anh nói là “đẹp nhất thế giới" xét về giá trị tinh thần và đạo lý.

    Sau khi gặp được đồng chí Ngọc (Võ Nguyên Giáp), Tổng chỉ huy mặt trận, và làm việc với cơ quan tham mưu mặt trận, hôm nay, Léon tới cơ quan hậu cần để lấy tài liệu. Vì màn 2 chiến dịch sắp mở, đồng chí chủ nhiệm cùng các phó chủ nhiệm đều đi xuống các cơ sở hết, chỉ có Hồng Đăng ở nhà tiếp Léon. Nhưng chính Hồng Đăng cũng có kế hoạch sáng nay đi xuống các kho vũ khí và lương thực ở phía tây mặt trận. Ngoài ra, trong chuyến đi này, anh còn có cả một việc riêng. Hồng Đăng đã gắng làm việc rất nhanh với Léon để đi được sớm. Anh biết đi càng muộn, càng dễ bị máy bay làm rầy rà ở dọc đường. Câu chuyện coi như đã xong, anh đã cung cấp cho Léon nhiều con số to lớn, cụ thể và cả một vài mẩu chuyện có tính điển hình cho sự hy sinh, kể cả trí sáng tạo của anh chị em cán bộ hậu cần cùng dân công các miến, các giới. Vậy mà Léon vẫn chưa chịu đi cho. Anh hào hứng thực sự, đến mức như mê say:

    - ... Tôi hiểu, đồng chí ạ, đây là chiến dịch vĩ đại nhất Đông Dương hiện nay. Vậy mà có một số bạn tôi vẫn cứ băn khoăn chưa thật rõ lắm. Họ cứ hỏi: vì sao có Điện Biên Phủ? Tại sao đôi bên lại kéo nhau hết lên khu vực núi non xa xôi này mà đánh nhau? Đúng là họ đã chưa nhìn thấy rõ toàn cuộc: Pháp đã kiệt sức, không thể kéo dài cuộc chiến này nữa, còn đánh còn thua, chính hai phái đoàn của chính phủ Laniél được phái sang Việt Nam thị sát trở về đã cùng thống nhất nhận định như vậy, chứ không phải ai khác. Do đó, tướng Navarre mới được cử sang Việt Nam. Mà thực chất là để chấm dứt chiến tranh, nhưng trên thế mạnh. Để làm được việc đó, tướng Navarre chủ trương trước hết năm nay tập trung lực lượng quét sạch miền Nam Việt Nam đã. Bắc Bộ thì cầm cự, cố giữ vững. Sang năm mới là Bắc Bộ. Nhưng thu đông này phát hiện thấy các đồng chí đưa chủ lực lên Tây Bắc định đánh Lai Châu, và có thể cả Thượng Lào, Navarre bèn cho rút Lai Châu, vì lượng sức ở đó không cự nổi. Và tương kế tựu kế, ông ta cũng tập trung quân luôn ở đó, và đưa thêm chủ lực lên, lập thành cái tập đoàn cứ điểm này, mà ông ta cho sẽ là cái bẫy, thu hút chủ lực Việt Nam để tiêu diệt. Nhưng sự thể ra sao, chúng ta biết cả rồi: ông ta đã sai lầm chết người...

    Từ hai năm nay lên làm cán bộ cấp cao trên Tổng cục Hậu cần, Hồng Đăng đã quá quen với những bản tổng kết, những nhận định có tính chiến lược, kể cả quen nghe những lời ca ngợi, cho nên lúc này anh không chú ý và “sướng tai” bởi những lời ca ngợi sôi nổi của Léon. Anh vẫn bồn chồn vì máy bay địch quần mỗi lúc một nhiều hơn, khi xa, khi gần. Cũng may, Léon đã đứng dậy ra về. Hồng Đăng thở trút. Khoác tấm vải dù lên vai, xốc lại khẩu côn bạt bên hông, anh ra khỏi hầm. Được mấy bước, đã thấy Mạn, anh chiến sĩ cần vụ lớn tuổi, đang ngồi dưới một gốc cây với một chiếc ba lô đồ sộ đang đựng quần áo của Mạn thì ít mà của Hồng Đăng thì chiếm gần hết. Đã quá nhiều quần áo chăn màn, chiếc ba lô còn phải đèo thêm ở chung quanh lủng lẳng đủ thứ: xoong nồi để nấu riêng cho Hồng Đăng ăn, đèn bão cho Hồng Đăng làm việc, cuốc xẻng để đào công sự cho Hồng Đăng trú ẩn, kể cả mấy chai rượu Tây chiến lợi phẩm để cho Hồng Đăng uống giải buồn hoặc tiếp các bạn hẩu. Và không thể thiếu hộp thịt kho tàu là món anh rất thích.

    Quay lại, nom thấy Hồng Đăng, bộ mặt đang buồn thiu của Mạn chảy xị xuống:

    - Sao mà lâu thế, Ban chỉ huy?

    Đã quá thuộc tính nhau. Hồng Đăng biết Mạn thi thoảng thích được gắt “Ban chỉ huy” của mình một tí, nhưng đó là biểu hiện của lòng yêu thương vô bờ bến và đó cũng là sự biểu lộ niềm sung sướng của người nông dân chất phác khi đã biết mình được cấp trên rất tin cậy.

    - Ta đi thôi ông Mạn! - Hồng Đăng tươi cười.

    - Chờ đến sốt cả ruột! - Mạn vẫn còn cằn nhằn như một đứa con làm nũng mẹ.

    - Chà, chà, cái “ông Tây” này ngồi có khí dai! - Hồng Đăng vui đùa.

    - Chưa chiến dịch nào em thấy có Tây dân chủ đi với mình như lần này. Dễ có đến chục ông chứ không ít, Ban chỉ huy nhỉ? - Mạn vui vui nói theo.

    - Ừ, tám tay. Nhà báo có, quay phim, chụp ảnh có, nhà văn có. Đủ. Chỉ vất vả cho tớ, trên giao cho tớ phải lo ăn, lo ở cho họ. Mà cậu biết đấy: đến cái hố ỉa, tớ cũng phải chỉ đạo. Tây họ có ỉa như ta đâu...

    Tuy Mạn lớn tuổi hơn, nhưng Hồng Đăng vẫn cứ cậu cậu tớ tớ, cũng giống như nhiều cán bộ lớn nhỏ khác cho thế là “bình dân”, là “thân mật”, thậm chí có ông còn khái quát lên một cách lý luận: “cách xưng hô ấy biểu thị một mối quan hệ rất dân chủ trong quân đội ta!”.

    Hai thầy trò theo một lối mòn ngoắt ngoéo, dần dần đi ra tới một con đường mòn lớn hơn có nhiều nhánh tỏa đi các ngả. Hai người rẽ vào con đường đi sang cánh tây mặt trận, cũng có nghĩa là cả sườn phía tây của cánh đồng Mường Thanh. Tuy đi trong rừng, nhưng thường đi trên các sườn núi cao, và thi thoảng lại gặp một cánh rừng thưa, hoặc rừng mới bị bom, pháo của địch quần nát, xơ xác, nên Hồng Đăng và Mạn vẫn có thể nhìn thấy cánh đồng Mường Thanh mờ xa. Nhiều lúc Hồng Đăng dừng lại, dùng ống nhòm để nhìn. Cánh đồng quả là mênh mông, không thể thấy rõ được các căn cứ, trận địa của địch đã như nấm độc mọc chi chít, dày đặc hai bên bờ sông Nậm Rốm. Chỉ có thể thấy rõ hơn những quả đồi nối liền nhau san sát bên kia sông Nậm Rốm, đỏ loét như cả một bầy voi khổng lồ bị lột hết da. Đó là dãy đổi ở khu đông Mường Thanh mà Bộ chỉ huy mặt trận đã gọi là “cái xương sống” của Điện Biên Phủ, cũng như đã gọi sân bay ở cánh đồng phía tây này là “dạ dày của tập đoàn cứ điểm”. Nếu đánh gãy được cái xương sống ấy, và cắt đứt được cái “dạ dày” ấy thì tập đoàn cứ điểm của địch sẽ sụp đổ hoàn toàn... Cánh đồng Mường Thanh kia. Nhìn càng xa, nó càng mờ mờ sương khói. Nếu không có những chiếc máy bay đang gầm gào ở trên không thì khó có ai nghĩ hơn một vạn quân thù đang tập trung ở đó. Khó có ai có thể nghĩ: cánh đồng bao la, xanh biếc tuyệt đẹp kia đang trở thành biển lửa, biển máu.

    Chiếu cố cho người cần vụ mẫn cán, trung thành, Hồng Đăng thi thoảng lại trao ống nhòm cho Mạn coi. Mạn như vồ lấy, hết nhìn trái, nhìn phải lại nhìn trên, nhìn xuống dưới, rồi nhe hàm răng ám khói thuốc lào cười khoan khoái:

    - Năm quả đồi ở khu đông thì nom rõ rồi, dưng mà còn cái sân bay của nó đâu. Ban chỉ huy nhỉ? Trên bảo nó sẽ là cái đinh, cái huyệt của mặt trận phía tây phải không, Ban chỉ huy?

    - Nó ở giữa cánh đồng kia kìa! Tuy vậy ta ở xa, trên dưới bốn cây số, ống nhòm ở đây cũng không nhìn rõ dược, vì còn có cả sương mù nữa.

    - Mẹ kiếp, chỉ có mỗi cái sân bay này, bao giờ mà quân ta phăng teo được thì cha con nhà nó chết ráo cả, Ban chỉ huy nhỉ?

    Hồng Đăng cười:

    - Cậu cũng hiểu thế hả? Nhưng cũng phải nói cho rõ: cả cái khu đồi phía đông kia nữa, phải đập cho bằng được...

    Mạn sung sướng gật đầu lia lịa:

    - Vâng, đúng thế, đúng thế!

    Hai thầy trò tiếp tục đi. Một quãng đường lầy lội hiện ra phía trước. Dân công, bộ đội đi lại nhiều chỗ này bùn nước sâu tới quá mắt cá chân, thậm chí có đoạn còn ngập tới bắp chân. Hồng Đăng dừng lại, ngần ngại liếc nhìn xuống đôi giày da cao cổ chiến lợi phẩm của mình. Đôi giày còn khá mới và được gìn giữ khá sạch sẽ. Trong lúc đó, Mạn cúi xuống loay hoay xắn quần lên tới sát bẹn. Hồng Đăng bỗng cất tiếng gọi:

    - Mạn, ông cõng hộ mình một tí nhá!

    Mạn liếc nhìn xuống đôi giày của Hồng Đăng, đoạn lặng lẽ trút chiếc ba lô đồ sộ xuống, ngoan ngoãn bước tới trước mặt Hồng Đăng. Anh khom mình xuống, chống hai tay vào hai đầu gối cho vững. Hồng Đăng tươi cười nhảy lên tấm lưng còn đang đẫm mồ hôi của anh cần vụ, và dang rộng hai chân, đưa thẳng về phía trước. Mạn quài hai tay ra phía sau, ôm lấy hai vế đùi to và còn rắn chắc của anh, cẩn thận nhắc:

    - Ban chỉ huy bám chắc vào đấy nhá!

    - Cứ yên trí! Có ngã, tớ sẽ ngã trước.

    - Nào!

    Mạn nói to một tiếng lấy đà bắt đầu bước loạng choạng xuống bùn. Hồng Đăng to lớn, Mạn lại thấp bé thành ra trông giống như một con chuột đang cõng một con mèo. Dân công, bộ đội đi công tác ai nấy đều che miệng trước cảnh tượng khá bất ngờ và độc đáo ấy. Mạn vừa thở phì phò vừa nặng nhọc rút từng bàn chân ra khỏi bùn. Anh không lo mình ngã mà chỉ lo mình làm ngã cấp trên. Tất nhiên, anh chẳng thú gì cái công việc phục dịch như thế này, nhưng anh cứ nghĩ đây là bổn phận tất nhiên mình phải làm. Trong khối óc thuần phác của anh chỉ hơi vẩn lên một chút băn khoăn: cách đây hơn hai năm, khi Hồng Đăng còn ở dưới đơn vị chiến đấu, Mạn đã là cần vụ cho anh, nhưng sao hồi đó Hồng Đăng nhanh nhẹn và xuề xòa đến thế. Qua các chiến dịch, gặp phải những đoạn đường như thế này, thậm chí còn tồi tệ hơn, anh cứ xông băng băng, chân bước miệng nói: “Khẩn trương lên các cậu!”. Hồi đó anh cũng đã thích đi giày cao cổ Mỹ như thế này. Bây giờ anh có phần giữ gìn quá. Nhưng có lẽ cấp cao thì phải như thế chăng? Giữ gìn cả trong ăn uống, không ào ào như trước. Bây giờ cái tăm vót không kỹ, có khi cũng bị cự nự. Quần áo giặt còn sót vết bẩn thì bị “cạo” thẳng thừng... Hay là do có vợ rồi, thì phải thế? Nhưng cô Nguyệt Lệ lại là người hết sức giản dị. Mạn đã nhiều lần nghe thấy cô bảo Hồng Đăng: “Thôi, phiên phiến thôi chứ”. Và mỗi khi về cơ quan gặp chồng vài ngày, thấy Mạn phải quét dọn, giặt giũ, nấu nướng quá vất vả, cô rất thương, đã bảo riêng: “Anh liệu mà làm thôi, cái gì anh ấy nhà tôi có thể làm được cứ để anh ấy tự làm lấy”. Quả thật cũng có lúc tủi thân và đôi khi bực bội, nhưng vốn tính dễ dãi, hồn nhiên, anh lại thường thầm an ủi mình: “Cấp trên ai mà chẳng vậy?”. Rồi lại vui lên, anh tự đùa: “Ấy, không biết chừng mai sau mình cũng được làm cấp trên, khéo mình còn bằng bốn anh ấy”.

    Vượt được đoạn đường lầy, hai thầy trò lại vui vẻ đi tiếp. Tới một khu rừng thưa, bỗng thấy mùi na-pan. Hồng Đăng chăm chú quan sát, vẻ mặt trở nên lo lắng:

    - Này, cẩn thận đấy nhá! Chỗ này nó hay ném bom đấy!

    Anh vừa nói dứt câu thì tiếng máy bay rú lên như ma như quỷ ào tới.

    - Mạn!...

    Hồng Đăng vừa kịp gọi to một tiếng thì hai trái bom đã rít lên rồi nổ bùng ở gần ngay đó. Hai trái bom đào, chứ không phải na-pan. Trời, đất, rừng cây như tan tành trong khói lửa và những mảnh gang kinh hồn cùng sóng xung kích như bốc cả những gốc cây quăng đi xa... Cũng rất may, cả hai thầy trò đã kịp cùng lăn xuống một khe suối nhỏ. Họ chỉ bị một “cơn hồng thủy” đất đá và cành cây trào qua làm tối tăm cả mặt mũi, bị nâng cao lên khỏi mặt đất và ném xuống tức rực. Hai chiếc máy bay đã đi xa. Khói bom cũng tan dần. Mạn lồm cồm bò dậy. Việc trước tiên là anh nhớn nhác tìm Hồng Đăng. Anh hãi hùng muốn kêu lên khi nhìn sang bên cạnh không thấy Ban chỉ huy của mình đâu. Không kịp giũ đất cát trên đầu, trên cổ, cũng không kịp nhìn xem mình có bị dính mảnh nào không, Mạn vùng chạy lên một chỗ đất cao, gọi to:

    - Ban chỉ huy! Ban chỉ huy! - Anh gọi mà như khóc.

    Mạn gọi tới lần thứ ba mới thấy Hồng Đăng ở dưới khe bò lên, áo quần đầy đất cát, chiếc mũ bê-rê quen thuộc đã bay đi đâu mất. Anh bước đi thất thểu, vai như lệch hẳn về một bên, miệng há ra. Đang lúc còn bàng hoàng, nhưng nom thấy Hồng Đăng như thế, Mạn không khỏi bật cười. Quả thật nom anh buồn cười quá, Mạn phải cố che miệng lại:

    - Ban chỉ huy ở đâu thế, em tìm mãi chẳng thấy?

    Hồng Đăng vẫn còn thở hổn hển:

    -Tớ lăn đi một quãng, xuống được một chỗ thấp và kín hơn...

    Đến lúc ấy, Mạn hết buồn cười, chỉ còn thấy vô cùng xót xa cho cấp trên của mình. Hồng Đăng có vẻ quá mệt và cả quá sợ nữa. Mạn bảo anh ngồi xuống để mình phủi quần phủi áo cho, nhưng Hồng Đăng xua tay, giục:

    - Thôi, đi mau! Đi mau khỏi chỗ này ngay! Nhỡ nó quay lại thì khốn.

    Mạn lại còng lưng thồ chiếc ba lô đồ sộ, cầm cây tiểu liên, và lần này thì anh đi trước. Vừa đi anh vừa thầm ái ngại cho cấp trên của mình bị một hôm “xuất hành" không may. Tuy nhiên, trong góc sâu kín của lòng anh, dù đó là một tấm lòng đơn giản ngây thơ, cũng lại thấp thoáng nổi lên một nỗi băn khoăn: Trước đây, hồi còn ở đơn vị, anh ấy thường rất bình tĩnh dù có khi bom pháo còn gấp mấy... Thế mới biết bây giờ cái câu “Thân trọng thiên kim” là có thật. Bây giờ Mạn mới thật thông cảm vì sao giờ đây Hồng Đăng thường ngại xuống các đơn vị. Ngồi ở hậu cứ nhiều và có điều kiện tẩm bổ, Hồng Đăng càng ngày càng béo đẹp ra.

    Qua một quãng đường nữa. Dân công, bộ đội càng tấp nập. Dân công gồng gánh, tải gạo, đạn. Bộ đội đủ loại: anh đi công tác lẻ, toán rải dây thông tin. Lại có anh chăn cả một đàn lợn. Những con lợn khá béo tốt, có con cũng bị thương vì bom đạn, được băng bó như người. Đó là những con lợn không hiểu đã được “quân ta” huấn luyện thế nào mà tinh khôn như chó. Anh chăn lợn hô nằm là nằm, hô tiến là tiến, hô chạy là chạy, rẽ trái là rẽ trái, rẽ phải là rẽ phải... Mạn thú quá cứ cười nghiêng cười ngả. Riêng Hồng Đăng vẫn chưa hoàn toàn hết bàng hoàng vì trận bom. Màn 1 chiến dịch đã qua, bây giờ màn 2 chiến dịch chưa mở, mà bọn Pháp đã phản ứng ngày đêm bằng phi pháo kinh hồn thế này, mặc dầu cao xạ của ta đã vào được cánh đồng. Màn 2 bắt đầu thì sự ác liệt không rõ sẽ còn tới mức nào, một khi quân ta bắt đầu phải rời rừng núi đánh xuống đồng bằng trống trải ở phía tây này, và “húc” vào cả một loạt ngọn đổi hiểm yếu ở phía đông bên kia tả ngạn sông Nậm Rốm? Khi ấy, tất nhiên Hồng Đăng cũng phải bám theo các đơn vị xuống đồng bằng. Ngồi mãi trong hầm trên núi sao được?

    Hồng Đăng cứ loanh quanh mãi với những ý nghĩ rối rắm nặng nề, cho tới khi nhìn thấy một tấm biển gỗ có vẽ mũi tên chỉ rẽ trái với một ký hiệu “QY10”, anh mới như choàng tỉnh và thoắt vui vẻ hẳn lên.

    - Mạn ơi, ta dừng lại đã!

    Anh cần vụ vẫn đang cắm đầu cắm cổ thồ ba lô đi trước, ngơ ngác quay lại.

    Hồng Đăng đang giũ áo, phủi quần, vuốt lại tóc, tươi cười:

    - Ta rẽ vào đây một chút cậu ạ!

    - Đây là đâu, Ban chỉ huy?

    - Quân y tiền phương.

    Nhìn vào cặp mắt ngạc nhiên, thoáng cả vẻ nghi hoặc của anh cần vụ, Hồng Đăng thân mật giải thích:

    - Tớ muốn tranh thủ vào thăm anh em thương binh một chút, cậu ạ! Đi ngang qua đây mà không vào thăm anh em một tý, áy náy lắm.

    Mạn vẫn đứng im, không đáp lại. À, thì ra thế! Ông ấy vào thăm thương binh. Nhưng có thật không, hay là thăm ai? Người ta đồn rằng ông ấy đang “dăng dện” với một cô bác sĩ nào đó bên quân y. Khéo cô ta ở đây, và hai bên đã có hò hẹn nhau cũng nên.

    - Đi Mạn, nào, ta đi! Từ đây xuống tổng kho cánh tây cũng không còn xa nữa. Không sợ tối đâu.

    Vốn đã quen tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên, cuối cùng Mạn chỉ còn biết lặng lẽ xốc ba lô, đi theo Hồng Đăng, rẽ vào một lối mòn, đi sâu mãi vào những khe núi phía trong. Mạn lại thầm nghĩ: khổ cho cô Nguyệt Lệ, cô mà biết chuyện này, cô còn buồn tới đâu. Chỉ nguyên những chuyện về ý ăn ý ở thường ngày cô đã không vui rồi. Còn nhớ không ít lần hai vợ chồng gặp nhau ở cơ quan, không rõ va chạm gì mà Nguyệt Lệ thường bỏ ra về rất sớm. Còn những khi cô về chỗ ở riêng của Hồng Đăng, coi như nhà riêng, Mạn cũng đã thấy nhiều khi cô khóc thầm sau những cuộc cãi cọ mà Mạn không được hiểu rõ. Thấy vậy, bây giờ mà cô ấy còn biết cả chuyện này nữa thì không hiểu rồi sẽ ra sao?

    Lát sau, hai thầy trò tới trạm gác đầu tiên. Hồng Đăng bảo Mạn ngồi chờ. Mạn lặng lẽ trút ba lô xuống.

    Hồng Đăng đi như gió lướt. Càng vào rừng càng rậm hơn, nhưng cũng nhiều lán trại hơn, những lán trại khá lớn có hàng có lối. Cũng thấp thoáng những tà áo trắng, không khí phảng phất mùi ê-te và cả mùi mủ máu...

    - Anh Hồng Đăng!

    Một tiếng reo lanh lảnh. Hồng Đăng cũng gần như reo to:

    - Kim Oanh!

    Từ phía trước, một bóng áo trắng đang như bay lại. Không phải là một chiếc áo trắng nữa mà là một bộ ngực cao vút, nở căng tràn đầy sinh lực đang lao lại phía anh, cùng một cặp mắt long lanh rực sáng, đầy đam mê...

    Hai người gần như ôm choàng lấy nhau.

    - Ôi, em cứ mong anh mãi. Em đã nhắn tới ba lần...

    - Có! Có, anh biết cả. Nhưng lắm việc quá, hôm nay mới đi được...

    - Việc! Việc! Lúc nào cũng việc! Còn em thì chỉ là cục đất hả?

    Kim Oanh vừa nũng nịu nói, vừa uốn éo, đung đưa tấm thân đầy khêu gợi. Hồng Đăng nhìn quanh:

    - Bây giờ ta... vào viện, hay đi đâu ngồi nói chuyện em?

    Đôi mắt lúng liếng, Kim Oanh cầm lấy tay anh:

    - Thôi, khỏi vào viện. Ta ra chơi ở con suối mà em vẫn thường ra tắm. Xa một tí, nhưng chỗ ấy đẹp lắm anh ơi.

    Hồng Đăng đùa:

    - Em tắm có đứa nào nhìn trộm không đấy?

    Kim Oanh véo một cái vào sườn anh:

    - Cái anh này!... Chỗ ấy kín, lại chưa có đứa nào trong viện biết mà mò tới.

    - Thế thì ta đi!

    Vừa đi, Kim Oanh vừa nhún nhẩy:

    - Anh có biết em nhớ anh đến thế nào không?

    Hồng Đăng cũng không kém ga-lăng, mỉm cười đáp lại bằng một giọng êm như nhung:

    - Chắc chắn không thể nào hơn được với nỗi nhớ của anh...

    - Xạo! Anh chỉ nhớ bà vợ “nữ hoàng thầm lặng”, vừa quyến rũ vừa bướng bỉnh của anh thôi.

    - Bậy nào!

    - Thế sao anh không lôi bà ấy cùng đi chiến dịch cho vui?

    - Cô ấy còn đang mải đọc sách ở căn cứ địa Thái Nguyên. Mà dù cô ấy có thích đi anh cũng bảo cô ấy ở lại. Vì ở chiến dịch này đã có em là quá đủ hạnh phúc đối với anh rồi. Không ai được quấy phá hạnh phúc ấy.

    - Lại xạo!

    Con suối quả là kín đáo và cảnh cũng khá đẹp. Hai người cùng ngồi xuống một vạt cỏ. Sát phía sau họ là một lùm cây rậm. Vừa ngồi xuống, bốn cánh tay đã ngay tức khắc cùng như bốn con rắn quấn chặt lấy nhau, và hai cặp môi cùng tìm nhau mút chặt...

    Một cánh tay của Hồng Đăng rời khỏi tấm thân nóng bỏng những thèm muốn của Kim Oanh. Bàn tay anh hấp tấp luồn vào dưới các làn áo, rồi ngược nhanh lên, xoa tròn trên hai bầu vú rắn căng đang như rung lên và trào ra những khoái cảm.

    Hai cánh tay Kim Oanh cũng từ từ buông rời. Cặp mắt nhỏ, dài từ từ khép lại, và tấm thân bốc lửa cũng từ từ nằm ngả ra trên bãi cỏ...

    Kim Oanh là bác sĩ khoa gây mê hồi sức của viện. Cô là một trong số khá đông bác sĩ ở đây chưa có chồng hoặc chưa có vợ. Nhưng cô là người được chú ý nhiều hơn cả. Cô không đẹp lắm, nhưng vì có một tấm thân với bộ ngực tuyệt vời, một tấm thân mà dường như bất cứ người đàn ông nào đứng trước cũng gần như bị điện giật. Với tấm thân đầy khêu gợi ấy, lại thêm tính táo bạo và sự đam mê, cô đã làm cho nhiều anh liêu xiêu. Tuy vậy không phải bất cứ người đàn ông nào cô cũng có thể dễ dàng chấp nhận hoặc chấp nhận lâu dài. Đã đành phải là những chàng trai cường tráng đủ sức đáp ứng, chưa nói tới thỏa mãn những đòi hỏi mãnh liệt của cô. Nhưng dẫu sao cô vẫn thích những chàng trai có văn hóa và biết chiều nịnh, nếu biết cả những ngón chơi và có bản lĩnh không sợ mọi tai tiếng, lại có nhiều tiền nữa thì càng tuyệt.

    Nghe nói, Kim Oanh đã từng yêu một anh đại đội trưởng cực kỳ khỏe mạnh, gân guốc, đen bóng, mà cô vẫn thường gọi yêu là “Chàng mọi đen của tôi”. Nhưng rồi cô đã bỏ anh khá nhanh. “Anh ta chỉ có những bắp thịt vô giá, nhưng cái đầu thì rỗng tuếch”. Người tình thứ hai của cô là một bác sĩ dân y. Cuộc tình này cũng ngắn ngủi, thậm chí còn ngắn hơn cả cuộc trước. “Nom bên ngoài tưởng hùng dũng, vậy mà té ra một tên mới đánh đã phải bỏ chạy!”. Người tình thứ ba là một cậu bé mười sáu tuổi ở một đội văn nghệ. Cậu ta rất xinh trai và đang mơn mởn tuổi phát dục. “Cô ta bế nó lên bụng”. Thiên hạ cười vui nói vậy. Nhưng rồi cậu bé cứ van xin bà chị tha cho, bao nhiêu tháng trời mà không được. Cuối cùng để cứu cậu ta, cấp trên phải điều cậu sang một tỉnh khác. Hồng Đăng là người tình thứ tư và có vẻ là người tình được lâu lâu hơn các anh trước. Hồng Đăng đã có gần đủ mọi ưu thế: sức khỏe, địa vị và cả tiền tài, ngón chiều nịnh phụ nữ cũng tỏ ra là ngưởi khá lão luyện... Biết Hồng Đăng đã có vợ, Kim Oanh vẫn phớt tỉnh: “Ồ, mặc! Ai mạnh thì người đó thắng”. Ngang như cua, lưỡi sắc như dao, cả bệnh viện ai cũng kiêng mặt cô. Nói cho đúng ra ở viện này, cũng như tất cả mọi nơi trên trái đất này, cũng đều có đủ cả thần thánh và ác quỷ, người anh hùng và kẻ hèn mạt, và đã có độc cũng sẽ có cái trị độc. Ở đây không ai dám đụng tới cô chỉ vì cô là con một ông lớn, mà oái oăm thay, một ông lớn đi giảng dạy về đạo đức cách mạng. Ở bệnh viện này, người khổ sở nhất là đồng chí chính ủy viên. Ông gần như võ vàng đi vì phải liên tục làm công tác tư tưởng với Kim Oanh. Nhưng “nước đổ lá khoai hết”. Cô cứ nhơn nhơn. Nhiều khi còn như thách đố cả mọi người, thậm chí giỡn cả với chính ủy: “Nói thật chứ, cuối cùng em là em yêu chính ủy nhất đấy”. Ôi, cái con Thị Mầu...

    Trong lùm cây bên bờ suối, hai tấm thân vẫn xoắn chặt lấy nhau, oằn oại và rú rít hồi lâu mới buông nhau ra và cùng ngồi dậy. Hai người nhìn vào mắt nhau cùng cười. Mồ hôi còn đầm đìa, nhưng cả hai khuôn mặt đều rạng rỡ như mặt trời, nụ cười sáng lóa thỏa mãn. Thốt nhiên như có một ánh chớp xanh lướt ngang qua đầu óc Hồng Đăng. Anh thầm nghĩ: “Ôi, Nguyệt Lệ, giá mà em cũng nồng nàn, cũng đam mê như thế này thì có phải là...”. Nhưng Kim Oanh đã cắt đứt ý nghĩ của anh bằng một nụ hôn. Lền này là một nụ hôn cảm ơn, lướt nhanh chứ không phải là những nụ hôn đầy nhục cảm, cháy bỏng lúc trước. Rồi hai người cầm tay nhau cùng đứng dậy, đi trở ra phía trạm gác, nơi người cần vụ trung thành đang bồn chồn, nóng lòng, sốt ruột chờ đợi.

    Trước khi chia tay, Hồng Đăng ôm ghì lấy Kim Oanh cho cặp vú nở căng của cô áp chặt vào ngực mình. Anh hôn dài một lần nữa. Bàn tay cô run rẩy, từ từ lần xuống chỗ bụng dưới của anh, làm cho anh suýt tưởng mình không tài nào đi nổi nữa...

    Mạn vẫn ngồi đó chờ.

    - Gớm, sao mà lâu thế? Thăm gì mà thăm...

    Lần này không phải là gắt nhẹ như lúc ra đi, mà là một sự hờn dỗi rõ rệt. Hồng Đăng hết sức làm lành. Giọng anh êm mượt:

    - Thông cảm cho mình! Gặp anh em thương binh, xúc động lắm. Không dễ gì mà dứt ra đi được, Mạn ạ!

    Thật tuyệt, cũng chỉ cần một câu nói dịu dàng và thái độ biết lỗi như thế là mọi việc xong cả. Mạn lại xốc ba lô lên vai, hăm hở bước trước.

    Hồng Đăng vẫn chưa hết lâng lâng, khoan khoái. Anh lại nhớ tới Nguyệt Lệ. Gần như từ khi lấy nhau, Lệ chưa một lần làm cho anh sung sướng, thỏa mãn được đến thế. Không phải chỉ vì cô chưa muốn có con. Không, Hồng Đăng không tin như vậy. Còn những điều khác nữa. Nhưng cô luôn là một người trầm lặng. Nhẹ nhàng cũng thế, mà nổi nóng cũng vậy, cô chỉ im lặng, im lặng lắm lúc như một người xa lạ, không thể chịu nổi.

    Vừa chợt ra tới ngã ba có tấm biển chỉ vào quân y viện, Hồng Đăng gặp một nhóm bốn năm người, nhác nom biết ngay là cán bộ và chiến sĩ dưới đơn vị cũng vào trạm. Chắc hẳn họ cũng thăm thương binh, mà là thăm thật. Hồng Đăng nhận ra một người quen: trung đoàn trưởng Lê Thâu ở Đại đoàn cánh tây. Lê Thâu cũng nhận ra Hồng Đăng. Cả hai cùng vui vẻ siết chặt tay nhau.

    - Anh bây giờ... đẫy ra đấy - Ông Thâu nói.

    - À, vẫn thường thôi. Còn “ông”, xem ra... vất vả tợn hả!

    Lê Thâu cười, nụ cười vừa khiêm nhường vừa kiêu hãnh của những người lính chiến. Quả thật ông Thâu dạo này như tóp hẳn đi. Trước đây ông vốn đã không béo tốt, vạm vỡ gì. Lính trung đoàn vẫn đùa: ông không có thớ võ tướng như hai ông trung đoàn trưởng 1 và 3 cũng ở đại đoàn này. Hồng Đăng biết Lê Thâu từ hồi 1947, khi ông còn làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn chủ lực của tỉnh nọ. Dân trong tỉnh đã có câu vè về ông: “Hoan hô bộ đội ông Thâu/ Đánh giặc cũng giỏi mà diệt trâu cũng tài...”.

    Số là hồi đó đơn vị ông tác chiến, chống càn cũng khá, nhưng thói tự do cũng ghê, lính thường lén bắn trâu của dân đem về liên hoan rồi đổ cho là “trâu gian” hoặc trâu do Tây bắn chết bỏ lại. Hồi đó ông Thâu như thủ lĩnh cả một vùng, hét ra lửa, đi đâu cũng kiếm Nhật, côn bạt bên hông, ống nhòm trước ngực. Bây giờ về chủ lực, đã đổi khác rất nhiều. Dầu dãi, chiến trận hơn, nói năng cư xử cũng nghiêm ngắn hơn.

    - Thế nào, anh xuống với chúng tôi chứ? Lâu tôi không gặp anh.

    - Được, để rồi xem! Này, màn 1 “Sông Mã” nó làm cái Him Lam cừ quá, mà “Sông Hồng” các anh làm cái Độc Lập cũng ra trò. Tốt. Nhưng mà này, nghe các anh bên tham mưu mặt trận cho biết đâu như có người bên các anh, tuy vậy vẫn còn chưa thật chịu cách đánh và cả một số điểm về chỉ huy trong trận đó có phải không?

    Ông Thâu cười chỉ tay:

    - Đây chứ đâu! - Ông quay lại phía một cán bộ trạc hai mươi-hai mươi tám, hơi gày, với bộ áo quần dầu dãi, xộc xệch như không hề bao giờ được chú ý tới, kể cả giặt giũ. Gương mặt cháy nắng hơi tối dưới vành mũ, một chiếc mũ tre y như của chiến sĩ, có bọc vải dù làm anh có vẻ cứng cỏi. Nhất là đôi mắt, đôi mắt màu chì gan góc. Nhưng có lẽ một vết sẹo khá dài ở ngang gò má trái đã làm cho anh thêm vẻ gì đó như hơi dữ dằn nữa.

    - Đây là đồng chí Dũng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 của chúng tôi - Ông Thâu giới thiệu.

    Hồng Đăng không khỏi chăm chú tới con người này:

    - Mấy chiến dịch trước, tôi đã đi với đại đoàn các anh, nhưng không thấy đồng chí này nhỉ?

    - À, “ông” này trên bổ sung về cho chúng tôi mới được hơn năm nay.

    Vốn người cũng đàng hoàng, e Hồng Đăng có thể nghĩ đây là một anh “sáu chân” (cán bộ văn phòng) mới được hạ phóng, ông Thâu nói rõ thêm:

    - Anh này lăn lộn cũng đã nhiều. Đã chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ, rồi Tây Nguyên, lại sang cả Lào, gần đây mới trở lại Khu ba thì được Bộ đưa về đại đoàn chúng tôi.

    Trong lúc Hồng Đăng và ông Thâu nói về mình, người tiểu đoàn trưởng nọ vẫn nhìn lơ đãng đi nơi khác.

    Hồng Đăng cảm thấy mình không bắt tay con người này sẽ có thể bị coi là kém lịch sự. Và thật lạ, khi vừa cầm lấy bàn tay đen đúa và đầy chai sẹo của anh, linh giác của Hồng Đăng bỗng vụt lóe lên rất lạ. Anh nói:

    - Tôi muốn sẽ có dịp được nghe ý kiến riêng của đồng chí về các trận trong màn 1.

    Dũng bình thản:

    - Dạ, thật ra không có gì đáng kể cả.

    Khi quay đi được một quãng xa, Dũng mới bỗng bật nói nho nhỏ, giọng anh hơi khàn, có lẽ vì một vết thương nhỏ ở cổ, gần thanh đới:

    - Tôi biết ông này.

    - Hả? - Ông Thâu ngạc nhiên - Cậu biết ông ta từ hồi nào?

    Dũng không đáp, tiếp tục đi. Ông Thâu đã hiểu được phần nào tính nết của anh: rất ít nói, và điều gì anh đã không muốn nói thì cậy răng cũng không nói.
     
    machine thích bài này.
  4. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    3


    Sở chỉ huy trung đoàn 2 ở khá sâu trong một khe núi. Rừng không rậm lắm nhưng thế rất hiểm, máy bay rất khó bổ nhào bắn phá, trừ phi ở dưới để lộ chúng mới có thể đạp bom xuống theo tọa độ.

    Từ sáng sớm, các cán bộ chỉ huy tiểu đoàn và cán bộ tham mưu chính trị, hậu cần của trung đoàn đã được triệu tập về họp để nghe trung đoàn trưởng Lê Thấu phổ biến nhiệm vụ màn 2 chiến dịch. Cuộc họp thu gọn trong một căn hầm không lớn lắm nhưng khá kiên cố, đào sâu vào vách núi. Trong hầm khá tối. Một ngọn đèn bão đỏ kè, bóng đen kịt những muội treo trên trần hầm chỉ có thể soi rõ được gương mặt của những người ngồi phía trên, quanh tấm bản đồ lớn treo ở vách hậu và ông Thâu trung đoàn trưởng. Nói năng lưu loát, giải quyết công việc khá nhanh, đó là mấy đặc điểm của ông mà cán bộ toàn đại đoàn đều biết. Ông cầm cái que tre chỉ liên tục trên tấm bản đồ. Ông đang mở đầu bằng việc nhắc lại ý nghĩa lớn lao của chiến thắng màn 1 với Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Cái lớn lao của nó, cái màn 1 ấy, trong chiến dịch này, không chỉ trước hết là tiêu diệt được một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, mà quan trọng nhất là nó, cái màn 1 ấy, đã mở toang được cánh cửa phía bắc của tập đoàn cứ điểm, nói theo từ ngữ quân sự là đã đột phá được cửa mở ở hướng tấn công chủ yếu của chiến dịch, để cho quân ta có thể triển khai nhanh chóng binh khí khí tài lớn. Như vậy, thắng lợi của màn 1 đã tạo được cái thế vô cùng lợi hại. Chả trách vì thế mà mới sau có màn 1 của quân ta, theo cơ quan Mặt trận vừa cho biết: Navarre đã phải sớm nói với Cogni: “Điện Biên Phủ có nguy cơ hỏng. Phải tìm mọi cách giữ lấy nó”. Và họ bắt đầu cãi nhau. Cogni đổ lỗi cho Navarre đã thành lập tập đoàn cứ điểm này. Navarre cãi: Chủ trương của ông ta là năm nay (1954) tập trung lực lượng quét cho xong miền Nam Việt Nam đã, Bắc Bộ chỉ cầm cự. Nhưng chính vì thấy động ở Tây Bắc nên đã cho co cụm lại ở Điện Biên, và tương kế tựu kế đã thành lập tập đoàn cứ điểm này. Khi đó Cogni cũng rất hoan nghênh, đâu có phản đối.

    Kể lại chuyện hai viên tướng giặc bắt đẩu hục hặc nhau, ông Thâu cười và đọc một câu thành ngữ cổ:

    “Vui thì chén chú chén anh
    Gặp thác gặp ghềnh cặc văng tứ tán”


    Đám đông cán bộ đang ngồi chen chúc nhau cùng bật cười. Tính ông Thâu vẫn thế, thỉnh thoảng lại thích nói xen vào một câu ca dao hoặc hò vè. Anh thanh niên phố huyện khi xưa xem ra vẫn chưa hết phong độ và tâm hồn dân dã.

    Rồi ông Thâu chuyển sang phần phổ biến chủ trương của Bộ chỉ huy Mặt trận về màn 2 chiến dịch, đợt chiến đấu có tầm quan trọng quyết định tới toàn bộ mặt trận. Tới đâyy, các cán bộ tham mưu nhanh nhảu hạ tấm bản đồ vẽ những diễn biến trong màn 1, thay vào đó một tấm bản đồ mới. Vẫn những ký hiệu rừng núi, cánh đồng và toàn bộ các vị trí của quân Pháp dày đặc, kéo dài gần suốt hai bờ sông Nậm Rốm. Nhưng bản đồ này có khác: có một đường vòng hình bầu dục, màu đỏ, ôm vòng lấy toàn bộ khu trung tâm Mường Thanh và các vị trí ngoại vi trong đó có cả sân bay. Dịch xuống dưới một chút cũng có một vòng tròn đỏ với cái tên địa phương: Hồng Cúm. Từ hai vòng tròn to, nhỏ ấy còn có rất nhiều mạng đường chì đỏ chi chít. Tất cả đều hướng vào Mường Thanh tựa như có hàng chục, hàng trăm mũi tên cùng nhằm bắn vào một đích ở trung tâm. Tấm bản đồ đã đập mạnh vào mắt mọi người. Có anh hình dung ra ngay: đây là những vòng vây lửa, có người lại tưởng tượng ra một chiếc thòng lọng khổng lồ đang khoanh tròn lấy cổ quân địch...

    Ông Thâu phấn khởi:

    - Các đồng chí quả là rất tinh, chưa nói đã biết cả rồi đấy. Thú không nào? Mà cũng ghê không nào? Các “cụ” ở trên chủ trương kiến thiết một trận địa bao vây vĩ đại như thế này, quả là sáng tạo và cũng quyết liệt. “Trận địa chưa có, chưa xong chưa cho đánh. Đánh mà không có trận địa chiến hào bao vây và tấn công, trong màn 2 này, xuống cánh đồng sẽ là ném quân ra cho thằng Tây nó tàn sát. Các “cụ” ở trên nói thế. Có hiểu không nào? Tôi bắt đầu nói cụ thể từng điều về nhiệm vụ cơ bản của màn 2 chiến dịch nhá.

    Ông Thâu đã gây được không khí hào hứng.

    - Nhưng này! Phải ghi chép đấy nhá! Điều thứ nhất...

    Giọng ông vang, to hơn lên, rành mạch, rõ ràng. Ông nói lại đầy đủ nhiệm vụ lớn mà hội nghị cán bộ toàn Mật trận tại Mường Thanh do đồng chí Ngọc (Võ Nguyên Giáp) trực tiếp chủ trì, đã đề ra: Để tích cực chuẩn bị mở màn 2 chiến dịch, phải nhanh chóng tiếp cận bao vây quân Pháp bằng cách xây dựng một trận địa lớn khắp bốn bề, để sau đó sẽ tấn công lớn đánh chiếm khu đồi phía đông là khu phòng ngự then chốt, và cũng phải đánh chiếm bằng được sân bay Mường Thanh, cái “dạ dày” của tập đoàn cứ điểm... Đánh thắng được hai nơi này thì tình hình sẽ biến chuyển cực kỳ to lớn và mau lẹ, có thể coi như ta như đã cầm chắc toàn thắng ở trong tay...

    - Nhưng trước hết phải đào trận địa chiến hào đã các đồng chí ạ - Ông nhấn mạnh - Tôi đã nói rồi: “Các cụ” đã “quát” là: “Chưa có trận địa, chưa xong trận địa, chưa cho đánh!”. Hiểu chưa? Trận địa và trận địa. Trận địa chiến hào này đã được coi là một chiến thuật lớn, mà trận địa chiến hào thì ở cánh tây này lại rất nặng. Các đồng chí quá biết rồi đấy, cánh đồng Mường Thanh mênh mông thế kia...

    Sau đó ông bắt đầu chuyển sang phần phổ biến kế hoạch cụ thể của trung đoàn: Bốn cây số chiều dài, phía bắc nối với trận địa giao thông hào của trung đoàn 3, phía nam tiếp với giao thông hào của trung đoàn 1. Tuyến hào trục giao thông lớn cách địch khoảng hai ki-lô-mét. Chính diện của trung đoàn là sân bay với cả một loạt cứ điểm bao quanh, do toàn lê dương trấn giữ.

    Trong kế hoạch, phần phân công, phân nhiệm cho các tiểu đoàn cũng được vạch ra khá cụ thể. Mức thời gian cũng rất rõ. Ngoài ra còn có cả sự nhắc nhở để phòng địch oanh tạc hoặc ra cản phá các trận địa của ta...

    Ông Thâu nói xong, vừa là thói quen, vừa có ý thức, quay lại phía chính ủy Đỗ Gia Quý một người khá thấp bé, tóc cắt kiểu móng lừa, gương mặt thông minh có vẻ có học thức đang ngồi cạnh, hỏi:

    - Anh có ý kiến gì bổ sung hoặc nhắc nhở thêm?

    Đỗ Gia Quý mỉm cười lắc đầu khiêm tốn. Nhưng rồi anh cũng đứng dậy. Anh nhấn mạnh thêm về ý nghĩa rất quan trọng của việc đào trận địa chiến hào bao vây, tấn công. Anh nhắc lại phương châm “Đánh chắc, tiến chắc”. Chính vì phương châm ấy mà quân ta đã chiến thắng rất to lớn trong màn 1 chiến dịch. Vậy màn 2 cũng phải như thế. Đào trận địa bao vây tấn công cũng là thực hiện phương châm tuyệt vời ấy. Anh nói rất say sưa, và có vẻ có nhiêu lý luận. Anh lại nói khá dài, cho tới khi thấy các cán bộ ngồi dưới cựa quậy và xì xầm nói chuyện hơi nhiều, bấy giờ mới dừng lại, và không quên kết thúc bằng những lời cổ vũ kêu gọi thật nồng nhiệt. Trong những người sốt ruột có cả ông Thấu. Ông biết anh em đang có vẻ có nhiều ý kiến muốn nói. Họ đang quan tâm nhiều tới cái kế hoạch mà ông vừa phổ biến.

    - Nào, thế bây giờ anh em ai có ý kiến gì không? - ông Thâu đưa mắt nhìn bao quát cả căn hầm, cất tiếng hỏi, nhưng chợt nhớ ra còn một vị phái viên của Mặt trận cũng đang có mặt ở đây, ngồi hơi xế phía sau lối chính ủy Quý, ông Thâu cảm thấy suýt nữa mình mắc lỗi:

    - Bây giờ, xin ý kiến anh Hồng Đăng. Anh có điều gì giúp đỡ thêm không? - ông Thâu tươi cười và nhũn nhặn.

    Hồng Đăng tựa như người đang mơ ngủ chợt bị đánh thức. Anh choàng ngồi thẳng dậy, hơi lúng túng:

    - Không, không! Tôi đề nghị anh Thâu cứ để cho anh em phát biểu.

    Muốn tỏ ra khiêm tốn, nhưng thật tình anh cũng không biết rõ kế hoạch hành động mà ông Thâu vừa phổ biến có những gì để mà góp ý. Gần như suốt từ đầu buổi họp, tâm trí anh đều để vào những chuyện khác. Mới cách đây hai hôm, thật không ngờ, anh đã gặp Nguyệt Lệ cùng đoàn cán bộ phụ nữ úy lạo thương binh và binh sĩ. Anh không khỏi vui mừng. Hai vợ chồng được gặp nhau ở trận địa, thật là thú vị, ít có. Bà trưởng đoàn đã rất tế nhị cho phép Nguyệt Lệ ở lại với Hồng Đăng vài ngày tại khu hậu cần mặt trận. Anh chị em trong cơ quan cũng hết sức nhiệt tâm, bảo nhau thu xếp cho hai vợ chồng anh một căn hầm riêng. Nhưng thật không ngờ, Nguyệt Lệ đã từ chối. Cô kiên quyết từ chối. Nói thế nào cô cũng chỉ có một lời: “… Em lên đây mục đích là để thăm anh em thương binh, bộ đội. Để cho em đi, anh ạ”. Cuối cùng, Hồng Đăng đành phải chịu, và trong lòng đầy hờn giận. Đây không phải là lần đầu tiên người vợ xinh đẹp mà bướng bỉnh ấy đã làm anh buồn phiền và cả bực bội. Bướng bỉnh và cả cái gì đó như... thiếu nồng nhiệt, thậm chí như lạnh lùng, xa lạ nữa. Không phải bây giờ mà gần như ngay từ sau khi lấy nhau đã như thế. Điều gì vậy? Có chuyện gì đã xảy ra? Sự săn sóc, yêu thương của Hồng Đăng có thể nói là vô cùng chu đáo. Anh không hề tiếc Nguyệt Lệ bất cứ cái gì, điều gì. Anh yêu nàng say đắm đến như tôn thờ. Vậy mà anh chưa hề bao giờ được đáp lại bằng những tình cảm như vậy. Nói cho đúng ra về mặt trông nom cái ăn cái uống, áo quần, thuốc thang, sức khỏe của anh... thì không thể chê trách Nguyệt Lệ một điều gì, dù chỉ là nhỏ bé. Như vậy bổn phận một người vợ, Nguyệt Lệ đã làm tròn một cách cực tốt. Nhưng Hồng Đăng không chỉ mong đợi ở nàng có vậy. Nếu chỉ có thế, cậu cần vụ Mạn cũng có thể giúp được anh tương tự. Hồng Đăng cần ở nàng những cái khác. Đó là sự vuốt ve, yêu chiều, nũng nịu nhất là sự nồng cháy trong yêu thương. Những đêm hai vợ chồng ăn nằm với nhau, anh chưa hề bao giờ cảm thấy mình hoàn toàn sung sướng. Nguyệt Lệ cứ nằm đó, như khiên cưỡng nhiều hơn là tự nguyện, càng không bao giờ nàng chủ động. Nằm đó, nàng mặc cho anh vần vò, muốn làm gì thì làm, cho đến khi mệt thì lăn ra ngủ... Thân thể ở đó mà hồn nàng tựa như bay tận nơi đâu. Bay về nơi đâu? Về với mẹ? Hay là vẫn bay tìm cho đến tuyệt vọng cái anh chàng bộ đội nào đó mà nàng đã từng cho biết là thân thiết từ hồi 1947, 1948? Dũng Linh! Nàng đã gọi tên anh ta như vậy. Nàng còn tả cả hình dáng con người đó: trẻ trung, hào hoa. Nàng không giấu anh: nàng rất buồn khi được tin anh đã hy sinh. Ôi phải chăng cô gái lãng mạn đã không dứt ra được cái hình ảnh cũ quá xa vời ấy, đến mức không còn cảm nhận thấy được hạnh phúc đang ở ngay trong lòng bàn tay mình nóng hổi? Dũng Linh, cái tên ấy đã luôn ám ảnh anh một cách khó chịu, và đôi khi cũng không kém nặng nề. Nhưng khốn nỗi em quá đẹp. Sắc đẹp đằm thắm của em có một sức quyến rũ lạ lùng đến như mê hoặc. Và rút cục cũng vì thế, luôn luôn Hồng Đăng chỉ như một anh lính bại trận leo đẽo đi theo nàng...

    Kim Oanh đã xuất hiện giữa màn bi kịch này. Nhưng cô thật ra cũng chỉ là nhân vật giải sầu dù đã luôn luôn đem lại cho anh những khoái cảm tuyệt vời. Thật vậy, anh vẫn không thể thiếu Nguyệt Lệ.

    Cách đấy mới mấy hôm, Hồng Đăng tình cờ đã gặp một nhóm cán bộ ở lối vào trạm phẫu tiền phương trong đó có một người tên Dũng. Hôm ấy Hồng Đăng còn đang ngây ngất vì cuộc gặp gỡ với Kim Oanh, nên không để ý nhiều. Nhưng rồi anh bỗng có những phân vân rất lạ: Có phải đấy chính là Dũng Linh?...

    Hôm nay xuống trung đoàn này dự họp phổ biến nhiệm vụ, anh lại gặp Dũng - hoặc Dũng Linh - Anh ta đang ngồi kia, ở phía sau cùng, trong một góc tối, như một con báo đen, thu mình. Gần như suốt từ đầu cuộc họp, Hồng Đăng chỉ nghĩ lan man về chuyện Nguyệt Lệ, và chỉ quan sát con người đang ngồi thu mình kia. Có phải Dũng Linh đấy không? Câu hỏi ấy luôn luôn quẩn quanh trong đầu anh. Nhưng không thể thế được. Dũng Linh đã chết. Và, như Nguyệt Lệ tả, anh ta dẹp trai, hồng hào, tươi tắn, sôi nổi. Còn anh chàng tiểu doàn trưởng kia gần như hoàn toàn trái ngược. Vậy phải chăng đây chỉ là một cảm giác lầm? Nhưng quái lạ, đã nghĩ vậy mà nỗi phân vân vẫn không sao đuổi ra khỏi hoàn toàn tâm trí của anh.

    - Vậy nào, bây giờ ai có ý kiến hỏi, hoặc... - Ông Thâu hất hàm.

    Đám đông đang xì xào bỗng im bặt. Chưa một ai chịu phát biểu trước. Người ta vốn biết tính ông Thâu thường chỉ thích mau chóng “nhất trí”. Tiểu đoàn trưởng chủ công Phan Đức người có uy tín cao nhất trong hàng ngũ cán bộ tiểu đoàn cũng không muốn nói ngay. Mọi người đều liếc về phía tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Nguyễn Văn Dũng. Đó là một con người thường ngày lầm lì, nhưng trái lại khi vào việc lại hay có ý kiến, ý kiến thẳng thắn và nhiều khi táo bạo. Lần này mọi người lại có ý chờ cho Dũng lên tiếng trước. Dũng đang ngồi lắng nghe. Anh không để ý tới thái độ chung quanh. Anh chỉ thấy có điểu muốn nói và cần phải nói. Anh giơ tay. Mọi người thoáng mỉm cười. Còn ông Thâu thì chau mày. “Chà, vẫn lại cái anh chàng đa sự!... ”.

    - Báo cáo, tôi xin được hỏi lại: Mức mười ngày là do trên đặt ra hay của trung đoàn?

    Ông Thâu đáp:

    - Cấp trên! Mặt trận! Chẳng phải đại đoàn, cũng không phải trung đoàn. (Ông cố ý nhấn mạnh cụm từ “Cấp trên” và “Mặt trận” như một điều khẳng định tầm quan trọng chính xác và cũng như một lời cảnh cáo khéo kẻ dám vặn hỏi).

    Dũng có vẻ không hề nao núng:

    - Báo cáo, tôi thấy quá gấp, e không kịp!

    Đôi mắt ông Thâu tròn xoe:

    - Không kịp? Vì sao?

    - Một là: bộ đội ta trải qua cuộc truy kích Thượng Lào đã mệt lại vào đợt 1 chiến dịch ngay, chiến đấu ác liệt, thương vong cũng nhiều. Hai là: với kinh nghiệm của anh em đã có, cố lắm với dụng cụ đầy đủ thì cũng chỉ 4 hoặc 5 mét khối một ngày. Vậy tính với quân số của ta, với dụng cụ rất thiếu thốn thì...

    Tới đây, ông Thâu đã bực mình thật sự. Ông ngắt lời Dũng để giảng giải cho anh biết: nào là tinh thần bộ đội đang lên dù quả là đã khá mệt nhọc, nào là đất trên cánh đông Mường Thanh là đất ruộng dễ đào... Nhưng ông nhấn mạnh hơn cả là “sự tính toán rất chính xác” của tham mưu mặt trận. Thoáng một ý nghĩ trong đầu ông: thằng cha này khéo giảm quyết tâm?

    Có lẽ cùng một ý nghĩ như vậy, chính ủy Đỗ Gia Quý cũng bật đứng dậy, tiếp lời. Ông nhắc lại quyết tâm của Đảng, toàn quân, toàn dân tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ. Ông cũng nhấn mạnh lại phương châm “đánh chắc tiến chắc” của trên. Có vẻ như ông nói chung với mọi người, nhùng ai ai cũng hiểu ông nhằm vào Nguyễn Văn Dũng là chính. Nhưng đã đến lúc nhiều người mạnh dạn xin nói. Hầu hết đều đồng ý với Dũng, kể cả tiểu đoàn trưởng Phan Đức, người được tin cậy hàng đầu ở đây vẫn thường thầm gờm cái anh tiểu đoàn trưởng mới về này, và luôn luôn lo anh ta có thể vượt trội hơn mình.

    - Báo cáo, đã gọi là “đánh chắc, tiến chắc” thì càng phải xây dựng trận địa cho thật tốt, không thể vội vàng được. - Dũng nói tiếp. Anh cảm thấy được khích lệ bởi số đông.

    Cuộc tranh luận trở nên mỗi lúc thêm sôi nổi, thậm chí có phần căng thẳng. “Xã Đệ” - hỗn danh của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 Trần Văn Đệ, người chỉ huy không sắc sảo lắm, nhưng cũng khá ngổ ngáo và ăn nói thì bỗ bã vào loại nhất ở đây. Xã Đệ cũng xin nói:

    - Nói về quyết tâm thì chưa biết ai đã quyết tâm hơn ai. Chỉ có điều đã là kế hoạch mà lại là kế hoạch quân sự thì phải chính xác và cụ thể mới được. Tham mưu mặt trận thì mặt trận, các ông ấy đề ra mức này, đã tham khảo ý kiến các đơn vị tác chiến chưa?

    Hồng Đăng bị cuộc tranh cãi lôi cuốn. Thấy chính ủy Đỗ Gia Quý đã tích cực giảng giải mà vẫn còn găng, Hồng Đăng không thể đứng bên ngoài mãi được nữa. Anh bèn xin nói:

    - Tôi thấy ý kiến các đồng chí đều có những mặt đúng, cần lưu tâm. Nhưng cũng xin góp một vài điều mà tôi được nghe ở trên các anh ấy trao đổi, tất nhiên đây không phải là có văn bản chính thức gì cả. Ngoài lề, và nghe loáng thoáng được thôi. Nhưng cũng xin cung cấp để các đồng chí cảm thông với trên: Mùa mưa sắp tới rồi, các đồng chí biết đấy, mấy hôm nay mưa nhiều hơn. Các anh ở trên muốn dứt điểm càng sớm càng tốt. Mưa, bộ đội khổ đã đành, mà tác chiến cũng rất khó khăn, nhất là cơ động pháo lớn, và cao xạ...

    Ý kiến ấy dường như có sức thuyết phục. Đám đông chùng hẳn xuống. “…Thôi, nếu đúng như vậy thì bằng mọi giá cũng phải làm thôi. Chết cũng phải làm!”. “... Được, vậy cứ tiến hành, rồi rút kinh nghiệm sau, miễn là làm hết mình, đánh hết mình”...

    Cuộc họp tưởng như đã có thể giải tán, nhưng Dũng lại giơ tay có ý kiến tiếp:

    - Báo cáo còn một vấn đề nữa, tôi xin xem xét lại.

    Trong khi đám đông lại chăm chú lắng nghe thì ông Thâu lại cằn nhằn trong bụng: “Đúng là anh chàng đa sự!”.

    - Báo cáo, tôi đề nghị cần bổ sung kế hoạch chi tiết và cụ thể hơn trong phần chiến đấu bảo vệ giao thông hào và chiến hào. Chắc chắn địch sẽ có những phản ứng liên tục và ác liệt. Nhỏ thì có thể là phục kích, lấp hào, lớn có thể sẽ có những trận với đơn vị tác chiến hợp thành để đánh chiếm lại nếu không được toàn bộ thì cũng là những đoạn hào và những trận địa tấn công hiểm yếu nhất của ta...

    Dũng chưa nói hết, đám đông lại ồ lên. Họ lại đồng tình với anh. Xã Đệ lại bè nhè: “Đúng đấy, cần cụ thể hơn. Phải có dự kiến nhiều tình huống... Phải có nhiều phương án tác chiến. Chứ chỉ “cảnh giác” với “đề phòng”, “tích cực” với “tăng cường” chung chung thì rồi sẽ... khó đấy!”.

    - Nhưng mà đây mới chỉ tập trung vào nhiệm vụ hàng đầu và trước mắt là đào hào, đào trận địa. Còn kế hoạch đánh địch nhất định là sẽ có cụ thể hơn... - Ông Thâu lại không giấu được sự bực tức nữa.

    - .... của một kế hoạch. Hai việc: đào hào và tác chiến bảo vệ là gắn liền với nhau... - Dũng vẫn cứng cỏi đáp lại.

    Nếu như trong vấn đề trước tích cực ủng hộ ý kiến ông Thâu, tới vấn đề này chính ủy Quý thấy Dũng là phải. Ông lại đứng dậy, và bây giờ thì ông bảo vệ Dũng. Đám đông mỉm cười, nhận thấy ông Quý là người trung thực, đáng quý, đúng như cái tên của ông. Để kết luận ý kiến của mình, ông Quý đề nghị cơ quan tham mưu trung đoàn cấp tốc bổ sung phẩn tác chiến bảo vệ hào và trận địa. Ông Thâu ngồi im lặng. Chẳng phải ở đây, mà ở mọi nơi đều thế, ông đã biết rõ, chính ủy là người có tiếng nói cuối cùng.

    ... Mọi người ra về. Dũng cùng Xã Đệ ra sau cùng. Đi liền với anh là mấy cán bộ trẻ của ban tham mưu trung đoàn. Họ nháy nhau, cái nháy có nhiều ý nghĩa, nhìn theo hai người đoàn trưởng. Họ vốn không thích Xã Đệ cho lắm, chẳng phải vì cái tính lè phè rượu, thịt chó và tác phong luộm thuộm, gia trưởng của anh, mà vì Đệ chỉ huy tác chiến không xuất sắc. Cánh cán bộ tham mưu rất hiểu: cái thời chỉ cần hăng hái, xông xáo là đủ (như những năm đầu của cuộc kháng chiến) đã qua rồi. Nay đã là 1954, những người chỉ huy còn cần phải có “đầu óc”. Tác chiến đã lên tới cấp trung đoàn, thậm chí đại đoàn với binh chủng hợp thành. Người chỉ huy phải có trình độ, đâu phải chỉ có “hét”, đâu phải chỉ có “gan vàng dạ sắt” là được? Cũng bởi vậy cánh cán bộ tham mưu trung đoàn chỉ khoái có Phan Đức tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 và Nguyễn Văn Dũng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2, mặc dầu hai người này có những cá tính hoặc tác phong mà họ cũng chưa chịu. Phan Đức là học viên Võ bị Trần Quốc Tuấn khóa đầu tiên, chỉ huy tương đối bài bản. Còn Dũng trưởng thành từ lính chiến, lăn lộn nhiều, đánh giặc như đã “có sỏi ở trong đầu”, sau cũng đã qua một khóa cán bộ chỉ huy sơ cấp ở Quảng Ngãi. Các trận thắng của Dũng thường nhanh gọn và ít thương vong.

    Chia tay với Xã Đệ ở ngã ba, Dũng cắm đầu bước rảo để trở về tiểu đoàn. Chợt có tiếng gọi vọng lên ở phía sau.

    - Dũng Linh!

    Toàn thân anh thoắt rung lên. Nhưng vốn từ lâu đã đề phòng, và sau bao nhiêu năm chiến trận đầu óc anh cũng đã lì ra như đá, sự phản xạ bất ngờ chỉ có thể xảy ra trong những trường hợp thật đặc biệt. Dũng bình thản bước tiếp.

    - Dũng Linh!

    Tiếng người nào đó cất lên một lần nữa.

    Dũng vẫn không quay lại, thậm chí một cử chỉ nhỏ tỏ ra có chú ý tới tiếng gọi cũng không.

    Nhưng đã nghe thấy tiếng chân người, đúng hơn là tiếng giày da luỵch uỵch chạy gấp đuổi theo anh. Dũng vẫn bước nhanh. Người đuổi theo đã bắt kịp. Hồng Đăng. Anh giảm tốc độ, đi bên Dũng, thở gấp gáp, nhọc mệt:

    - Đồng chí Dũng!

    Bây giờ Dũng mới quay mặt lại, đôi mắt lì lợm liếc nhìn Hồng Đăng từ đầu tới chân.

    - À, anh Hồng Đăng! Báo cáo, anh gặp tôi ạ?

    - Phải! Phải - Hồng Đăng vẫn chưa hết hào hển - Này, mình đi với “ông” một đoạn, được chứ?

    - Dạ, không sao - Cái giọng hơi khàn khàn của Dũng vẫn bình thản.

    - Này “ông” Dũng - Hồng Đăng không giấu được vẻ lúng túng - Vừa rồi... mình có gọi...

    Gương mặt sạm nắng như thờ ơ, Dũng đáp:

    - Tôi không để ý. Tôi không nghe thấy gì cả.

    - Mình gọi Dũng Linh - Hồng Dăng như bình tĩnh hơn - “ông” Dũng ạ, “ông” là Dũng Linh, tôi... cảm thấy thế. Phải không, xin lỗi.

    Vẫn nhìn thẳng về phía trước, giọng nói của Dũng trở nên lạnh như băng:

    - Không. Tôi là Nguyễn Văn Dũng.

    Hồng Đăng thở dài:

    - Lẽ nào tôi nhầm nhỉ?

    - Lầm lẫn là thường chứ anh!

    - Này, nhưng hồi 1947, 1948 anh có ở vùng Đại Từ -Thái Nguyên không nhỉ?

    - Không.

    - Anh có biết ai là... Nguyệt Lệ không nhỉ?

    - Không.

    - Lạ nhỉ? - Đôi mắt Hồng Đăng vẫn chưa thôi xoi mói như khoan vào mặt Dũng.

    Hết sức khó chịu, Dũng hỏi lại với mục đích để ngăn chặn sự xoi mói và lục soát ấy:

    - Nhưng sao anh lại có thể nghĩ tôi là Dũng Linh nào đó?

    - À, chẳng là... - Hồng Đăng không khỏi lúng túng. Anh lại liếc nhìn anh cán bộ trẻ hơn mình tới bốn năm tuổi, nhưng có một vẻ gì già dặn và sắc sảo thật đáng gờm, chưa kể cái vẻ lì lợm thản nhiên như khinh khỉnh nữa. - À, chẳng là... gia đình vợ tôi trước có quen biết một anh tên Dũng Linh. Hồi 47, 48 ấy mà! Sau mất liên lạc. Có người bảo anh ấy đã hy sinh, nhưng có người lại nói anh ấy vẫn còn sống... Gia đình vợ tôi rất muốn được gặp lại anh ấy...

    - Để làm gì?

    - Tôi... tôi... cũng không rõ lắm. Nhưng chắc là vấn đề tình cảm.

    Dũng thoáng nhếch môi. Dường như anh cười, nhưng củng lại tựa như lóe ra một nét giận dữ:

    - À, ra thế! - Anh thốt lên khô khan. Và từ đó không nói, cũng chẳng hỏi lại điều gì nữa. Biết ý Dũng không muốn mình cứ lẽo đẽo đi theo mãi, Hồng Đăng buộc phải bắt tay anh: - Thôi nhé, mình xin lỗi. Có lẽ thấy có chữ Dũng giống nhau, và cùng là bộ đội, cho nên cứ tưởng là...

    - Không sao cả - Dũng vẫn khô khan gần như khiếm nhã.

    Hồng Đăng quay trở lại một quãng xa mà đầu óc vẫn còn nặng trĩu. Lại nhớ tới buổi gặp Nguyệt Lệ ở cơ quan hậu cần mặt trận. “Bôn” đến thế kia ư? Nhưng không phải! Con người ấy đâu phải loại cán bộ phụ nữ chỉ có đam mê chính trị mà phải giữ gìn từng cử chỉ, hành động quá đáng đến như thế...
     
    machine thích bài này.
  5. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    *


    Dũng đã về tới tiểu đoàn. Anh cho triệu tập cán bộ lại phổ biến nhiệm vụ luôn, sau khi đã họp tiểu đoàn ủy để tường trình lại toàn bộ các vấn để trong cuộc họp trên trung đoàn. Anh rất tiếc thiếu mất chính trị viên Đỗ Thủy. Thủy là bí thư tiểu đoàn ủy. Anh bị thương trong màn 1 chiến dịch, chưa có người về thay. Trên chỉ định Dũng tạm quyền bí thư.

    Cuộc họp ở tiểu đoàn khá nhanh, gọn. Có thể còn nhanh gọn hơn nữa nếu tiểu đoàn phó anh Hà Giao không dây cà ra dây muỗng đến nỗi mọi người phải sốt ruột, và đại đội trưởng Lanh xồm vốn nổi tiếng nóng nảy đã phải mấy lần nói ngang: “Thôi, rõ rồi, ở mặt trận mà cứ như bà vãi nói chuyện ở cửa chùa thì còn làm ăn gì được nữa”... Ai cũng hiểu Giao luôn luôn muốn mọi người phải hiểu rằng mình cũng sắc sảo không có thua kém bất cứ ai...

    Mọi người đã ra về, chỉ còn lại Dũng và Hà Giao. Anh ta tỏ vẻ vẫn còn nhiều ý kiến quan trọng. Tuy nhiên, lúc này lại có vẻ rất thân mật:

    - Bây giờ tôi nói riêng với anh, anh Dũng ạ. Nói thật chứ anh nhận nhiệm vụ của tiểu đoàn mình quá nặng đấy!

    Đã quá hiểu Giao, không ngạc nhiên chút nào, cũng không cảm động, Dũng lắc đầu:

    - Không phải thế đầu.

    - Sao lại không? Đoạn hào của tiểu đoàn mình vừa dài vừa lại ở ngay đối diện với sân bay của nó, mà tiểu đoàn mình sau màn 1 cũng đã bã cả ra rồi. “Xê” thằng Niên, thì chính trị viên “đổ” rổi. Hai trong ba trung đội trưởng thì mới lên. “Xê” thằng Thìn thì chính trị viên mới ở cơ quan xuống chưa quá hai chiến dịch; riêng thằng Thìn chỉ được cái tận tụy, nhưng lại thiếu văn hóa, kém linh hoạt. Chỉ có thằng Lanh “xê ba” chiến đấu tốt, nhưng lại nóng nảy, bộp chộp... Còn quân số nói chung toàn tiểu đoàn thì chưa được bổ sung đẩy đủ. Lớp tân binh vừa về mấy hôm nay phần đông là dân địch hậu mới ra, về chủ lực đánh lớn như thế này, e gay đấy.

    Dũng hơi nhếch môi, thoáng một nụ cười nhiểu ý nghĩa:

    - Khó khăn thì bên “ông” Phan Đức xem ra còn hơn ta. Vả lại, là chủ công, cũng cần phải tập trung củng cố cho “ông” ấy để chuẩn bị cho những trận ác chiến sắp tới, nên lần này trên có nhẹ cho D1 cũng là đúng. Còn bên “ông” Xã Đệ tuy phụ trách đoạn chếch xuống phía nam, tiếp giáp với trung đoàn 1 chỗ ấy có ngắn thật, nhưng quân “ông” Đệ còn thiếu hơn ta...

    - Chà! Người ta vẫn bảo anh hay quá nhường nhịn...

    - Thôi, ta bắt tay vào việc đi ông! - Dũng chỉ nói gọn.

    Đã quá thuộc tính nhau, mỗi khi Dũng đã cất cái giọng khàn khàn khô khốc lên nói gọn một hai câu, là Giao thường phải thôi luôn, mặc dầu trong lòng còn đầy hậm hực.

    Sau khi Hà Giao chạy sang hầm của trợ lý tác huấn, Dũng cũng bắt tay vào việc chuẩn bị kế hoạch để đêm nay đưa các cán bộ đại đội ra cánh đồng nghiên cứu, trinh sát thực địa, và phân công, vạch ranh giới ngay tại chỗ. Anh vừa ngồi xuống chưa được quá ba mươi phút bỗng có tiếng máy bay lượn tới rất gần, tiếng máy bay trinh sát. Anh còn đang lắng nghe, thì một loạt trọng pháo đã gầm lên rung chuyển cả căn hầm. Tiếp đó là liên hồi những tiếng nổ, như không còn phân biệt được từng trái một, mà là cả những vệt sấm kinh hồn kéo dài. Dũng nhào ra khỏi hầm, quan sát. Không phải ở tiểu đoàn bộ, mà cũng không phải ở c1 của Thìn dóng gần đó! Xa hơn một chút. Anh còn đang ngờ ngợ, thì Báu, cậu liên lạc trẻ măng tròn như hạt mít, lao tới giọng hốt hoảng:

    - Báo cáo, có lẽ nó dập xê ba! Pháo kinh quá tiểu đoàn trưởng ơi!

    Dũng cũng đã nhận ra được hướng bị pháo địch đang nã tới là hướng của đại đội Lanh xồm.

    - Báu, đi với mình, ra đó xem sao!

    Nói đoạn, Dũng vẫy tay gọi một liên lạc viên khác:

    - Báo với anh Hà Giao về trực thay tôi.

    Sau đó, hai anh em, Dũng và Báu, cùng như hai con chim cất cánh bay vù vào rừng rậm.

    Hà Giao nhăn nhó trở lại hầm chỉ huy cùng hai trợ lý:

    - Mẹ kiếp! Vừa giao việc này lại giao việc nọ. Cái gì cũng cứ cuống cả lên. Người chỉ huy phải bình tĩnh chứ. Cứ cho liên lạc chạy ra xem sao đã nào...

    Anh cằn nhằn, dường như nói với mình, nhưng hai anh trợ lý tác huấn cũng hiểu anh muốn nói với cả họ. Cả hai đều im lặng và làm như không nghe thấy gì. Âm thầm đố kỵ với Dũng từ lâu, anh tiểu đoàn phó này đã không từ bất cứ cơ hội nào để gièm pha hoặc tung tin xấu sau lưng bạn. Giữa lúc đó, hai anh em, Dũng và Báu vẫn xé rừng mà chạy. Pháo địch đã ngừng. Nhưng mặt đất, rừng rậm, suối sâu vẫn như còn nghiêng ngả. Quả là pháo Điện Biên. Dũng phải thầm nhủ. Đã qua không ít chiến trường khác nhau, suốt bảy tám năm qua, chưa bao giờ Dũng thấy pháo địch tập trung ác liệt và liên tục như ở đây. Bom cũng vậy. “Chúng ta sẽ cho họ thấy hỏa lực của ta”, Navarre quả là đã không khoác lác cho lắm khi tuyên bố như thế với binh lính của ông ta ở tập đoàn cứ điểm này.

    Vì địa thế chật chội và phức tạp, đại đội của Lanh xồm đã phải đóng hơi xa tiểu đoàn, và ở gần đường mòn trục, hơn nữa lại gần một cửa rừng. Dũng đã bắt Lanh phải cho quân đào hầm hố thật đầy đủ, làm bếp Hoàng Cầm rất cẩn thận để tránh khói lửa. Ngoài ra, công việc ngụy trang cũng được lệnh thực hiện hết sức nghiêm ngặt. Dũng đã xuống kiểm tra nhiều lẩn tất cả công việc này.

    Báu mới mười chín, lại béo khỏe, cắp tiểu liên chạy băng băng. Nhưng bao giờ Báu cũng phải bám đuôi tiểu đoàn trưởng của mình. “Cái ông này kinh thật! Bom đạn đã băm gần nát người mà vẫn cứ như không!”.

    Hai anh em bỗng nhìn thấy một chiến sĩ cài lá ngụy trang bù xù đầy mình đang từ phía trước hộc tốc chạy lại. Chỉ nhác nom, Dũng đã hét lên:

    - Quân xê ba phải không?

    Chiến sĩ nọ dừng lại, thở dốc:

    - Báo cáo, phải ạ!

    - Sao? Xê ba có sao không?

    - Báo cáo, anh Lanh cho em lên tiểu đoàn báo cáo: Xê ba an toàn. Địch bắn vào cửa rừng, chỗ Khe Trăn.

    Dũng thở trút.

    - Nhưng chỗ ấy có gì mà nó bắn?

    - Báo cáo, em cũng không biết. Nhưng nghe đâu đêm qua dân các bản Cò Mỵ và Long Nhai đem trâu chạy vào đó giấu...

    - Vậy hả? - Dũng mím môi lại, suy nghĩ một chút - Thôi được, cho cậu quay vê báo với anh Lanh: tôi ra thẳng Khe Trăn đây, không vào đại đội nữa đâu!

    - Tiểu đoàn trưởng ra đấy làm gì ạ? - Báu hỏi.

    - Ngoài đó có thể có dân, xem có gì cần giúp họ. Cũng muốn quan sát lại khu vực này nữa. Thôi, ta đi, Báu!

    Khe Trăn. Cảnh tàn phá bày ra trước mặt hai anh em thật dữ dội. Cây cối bị phạt đổ tơi bời. Đất bị cày xới lên cồn cồn như sóng biển bão. Đá núi bị phá đổ từng mảng lớn, trắng xóa, mảnh văng khắp chỗ. Mùi thuốc đạn, mùi lửa cháy vẫn còn nồng nặc. Giữa cảnh tàn phá ấy là xác của trên một chục con trâu nằm ngổn ngang, con cụt đầu, con gẫy cẳng, con bị phanh bụng, ruột lòi ra từng đống. Máu chảy luễ lõa khắp mặt đất. Dũng nhảy từ bờ đất cao xuống. Anh gấp gáp đi tìm xác người trước. Báu cũng nhanh như cắt làm theo anh. Nhưng tuyệt nhiên không thấy gì khác, ngoài những xác trâu cùng cây cối đổ gãy bề bộn.

    - Quái, không có người nào nhỉ? Nếu vậy, thật là may.

    Dũng vừa nói với Báu thì có tiếng Lanh xồm như lệnh vỡ vang lên:

    - Anh Dũng!

    Ngẩng lên, tháy không chỉ có Lanh mà còn có một tổ chiến sĩ đi theo.

    - Báo cáo, thấy bảo tiểu đoàn trưởng ra đây, tôi cũng đi liền.

    Dũng rất bằng lòng cách ứng xử của Lanh nhằm sẵn sàng hỗ trợ cho anh khi cần thiết.

    Lanh cho biết rõ hơn: chiều tối qua khi dân các bản đưa trâu vào đây, Lanh đã cho người ra căn dặn phải giữ kín khu vực, hơn thế nữa còn chỉ cho họ một chỗ ẩn náu khá tốt. Cũng vì thế từ sáng nay, dân buộc trâu xong đã rời khỏi khu vực này, đi khá xa. Nhờ vậy, chỉ có trâu bị trọng pháo địch giết chết. Có lẽ đã có con do buộc không kỹ, sổng ra, đi lại lộn xộn, máy bay “bà già” của địch nom thấy...

    Lanh xồm còn cho biết thêm: khi pháo địch vừa dập được vài loạt, Lanh cũng đã cho người ra quan sát, thì gặp một nhóm ba phụ nữ đi công tác ngang qua khu vực này đang nằm chết khiếp trong một khe suối, ở ngoài khu vực bị tàn sát. Nhưng cũng chỉ suýt soát với những loạt đạn ngoài cùng không quá 50 mét..

    - Họ đâu? - Dũng hỏi.

    - Báo cáo kia! Anh em còn để cho mấy bà ngồi thở và hoàn hổn, ở sau khe đá kia! Tí nữa tôi định mời họ vào đại đội nghỉ ngơi, rồi sẽ cho đưa họ ra khỏi khu vực nguy hiểm này.

    - Tốt.

    - Báo cáo, anh nên gặp họ một chút để trấn an.

    - Cũng được.

    Dũng vẫy Báu cùng đi theo Lanh và nhóm chiến sĩ lên bờ đất cao, rồi rẽ vào một khe đá có những tảng chồng chất, như cả một bầy voi lớn đang quần tụ uống nước bên bờ suối.

    Ba người phụ nữ đang ngồi nép vào một tảng đá lớn hơi ngả xuống như một mái che. Hai người đã đứng tuổi, búi tóc còn một người rất trẻ, trạc hăm ba, hăm bốn. Tất cả đểu còn đang xanh tái. Vừa chợt nom thấy người trẻ tuổi, đất dưới chân Dũng thoắt như chao đi. Anh đứng sững lại, vịn vội vào một thân cây. Cũng vừa lúc đó, người phụ nữ trẻ bật dậy, hai mắt sáng lòa. Cô lập cập chạy lại phía Dũng, kêu lên:

    - Anh Dũng Linh!

    Tiếng gọi gần như thất thanh. Lanh xồm và tất cả mọi người đều sững sờ, ngạc nhiên.

    - Anh Dũng Linh!

    Cô gái đã tới trước mặt Dũng và cầm chặt lấy hai tay anh. Lanh xồm càng tròn xoe đôi mắt.

    - Anh Dũng Linh! Trời ơi, làm sao em lại được gặp anh ở đây?...

    Tới lúc đó, Dũng đã tự trấn tĩnh lại được. Anh từ từ rút tay mình ra khỏi bàn tay run rẩy của cô gái:

    - Không! Có lẽ cô lầm rồi.

    Đôi mắt rất đẹp của cô gái càng mở to và như long lanh có ngấn lệ:

    - Ô kìa! Anh Dũng Linh! Em không lầm mà! Làm sao mà em lầm được? Nhìn thấy anh là em nhận ra ngay. Trời ơi, sau bao nhiêu năm rồi, mà em cứ tưởng là anh đã...

    Rồi cô bật khóc rũ:

    - Ôi chắc là có trời phật dun dủi, mới có ngày hôm nay, em được gặp lại anh... Vậy sao anh lại không nhận là anh? Sao vậy ? Sao vậy anh ơi ?...

    Mọi người càng đứng ngây trước cảnh tượng hết sức lạ lùng và bất ngờ này. Không một ai biết nên nói gì hoặc hỏi gì lúc này nữa.

    Dũng đã kịp xử trí.

    - Ông Lanh, chúng ta hãy rút ngay khỏi nơi này đã! Về đại đội mau! Đưa các chị cùng về.

    Lanh "rõ" một tiếng thật to. Anh đã được gỡ ra khỏi cảnh huống hết sức khó xử này. Anh xăm xăm chạy trước. Mọi người cùng vội vã đi theo anh. Dũng ra hiệu cho Báu. Hoàn toàn hiểu ý anh, Báu tụt lại, đi cùng ba chị phụ nữ, vừa để giúp họ vượt đá, leo dốc, vừa để bảo vệ. Tổ chiến sĩ của Lanh cũng nhanh ý, cùng lùi lại với Báu.

    Về tới khu vực của đại đội, Lanh cũng trở nên nhanh trí hơn: anh đưa hai chị phụ nữ lớn tuổi sang khu hầm của trung đội, riêng người phụ nữ trẻ anh mời vào hầm của anh cùng với Dũng, đoạn nháy mắt cho Báu đi theo mình. Dũng không kịp cản lại ý định tế nhị đó. Anh miễn cưỡng bước vào hầm, ngồi xuống mấy chiếc hòm đạn, trước mặt Nguyệt Lệ. Tới lúc này chỉ còn có hai người, cô lại cầm chặt lấy hai bàn tay đầy chai sẹo của anh và lại khóc ròng:

    - Ôi làm sao mà anh đến nông nỗi này? Làm sao mà anh lại khổ cực đến như thế này?...

    Rồi cô run rẩy hết sờ lên vết sẹo ở ngang gò má, lại tới mấy vết sẹo nhỏ ở trên trán và cả ở nơi cổ anh.

    Dũng từ từ gỡ bàn tay cô. Trên gương mặt sạm đen cứng cỏi của anh có cái gì đó xôn xao như sóng. Và anh không thể không cất tiếng buồn bã:

    - Phải! Tôi không cần chối cãi nữa, khi cô vẫn còn nhận ra tôi. Nhưng nay tôi là Dũng. Cái từ Linh gắn thêm vào trong những năm đầu chiến tranh đầy mơ mộng, lãng mạn nay đã bỏ đi rồi.

    - Ôi anh Dũng Linh, anh Dũng Linh của em... - Cô vẫn siết chặt lấy tay anh.

    - Và có nghĩa là Dũng Linh cũng không còn nữa, cũng như mối tình đầu khốn khổ của anh ta cũng đã chết...

    - Trời ơi! Không! Không! - Nguyệt Lệ gần như thét lên - Sao lại thế? Sao lại thế anh?

    Dũng trở lại câm lặng. Nhưng có lẽ tiếng khóc não lòng của Nguyệt Lệ đã làm cho anh lại phải cất tiếng:

    - Vì sao ư? Người ta đã phản bội tôi, phản bội mối tình mà tôi cứ nghĩ rằng tôi có thể chết vì nó...

    - Không! Không - Nguyệt Lệ lắc mạnh tay Dũng - Anh lầm rồi. Ôi anh lầm rồi. Anh đã không hiểu thấu cho em...

    - Tôi không hề lẩm.

    - Anh ơi khổ thân em anh ơi, hãy nghe em nói đây, em nói đây, nghe em đã...

    - Không!

    Ngọn lửa hờn giận tưởng đã lụi tàn theo năm tháng máu lửa khổ cực, gian nan không ngờ nay lại vụt cháy bùng, làm cho Dũng cảm thẫy hết sức đau đớn và mất bình tĩnh.

    - .. . Anh ơi, hãy thương em, hãy nghe em nói đã: em lấy chổng chỉ vì nghĩa, vì anh ấy cứu vớt gia đình em. Anh ấy...

    - Tôi có biết anh ta. Năm 1952 gần như thân tàn ma dại từ chiến trường Thượng Lào trở về Khu ba, tôi đã được nghe kể về một câu chuyện hôn nhân tuyệt vời ngựa hồng côn bạt... Và tôi cũng đã tình cờ gặp anh ta từ trên Bộ xuống kiểm tra hậu cần các đơn vị. Tôi đã toan giết chết anh ta, không bằng súng mà chỉ bằng một lưỡi dao nhọn. Nhưng rồi, tôi hiểu: anh thật ra không có lỗi. Người đàn ông nào cũng thế cả. Lỗi chính là ở người đàn bà phản bội... Nhưng với cô tôi sẽ không cần làm như thế, cô cứ yên tâm.

    Tôi chỉ coi như chưa bao giờ quen biết cô, và cũng mong cô hãy tin là tôi đã chết. Thế là đủ!

    - Trời ơi!... Nguyệt Lệ gục hẳn đầu mình lên hai đầu gối của Dũng và gần như ngất xỉu. Dũng lặng ngồi như tượng. Trong lòng anh vẫn chưa thôi cháy bỏng. Anh cũng không ngờ hôm nay anh lại nói nhiều và cay đắng đến như thế.

    ... Trong lúc đó, ở hầm bên, Lanh xồm đang mời nước hai chị phụ nữ. Anh băn khoăn:

    - Quái, có thể nhầm thật các chị ạ! Năm ngoái, trung đoàn trưởng của chúng tôi đưa anh ấy về tiểu đoàn giới thiệu, chỉ thấy nói là Nguyễn Văn Dũng. Không thấy nói Dũng Linh - Dũng Lung nào cả.

    Hai chị phụ nữ tỏ vẻ suy nghĩ. Với mẫn cảm giới mình, hai chị em đều cảm thấy có chuyện gì đây khá hệ trọng. Một chị nói nho nhỏ:

    - Cứ để xem sao đã anh ạ! Cũng có thể có điều gì mắc mớ đây...

    Trong căn hầm của Lanh. Nguyệt Lệ vẫn nước mắt chảy dài:

    - ... Ôi khổ thân anh, và cũng khổ thân em biết chừng nào. Vì sao vậy? Giá mà khi ấy anh đừng đột ngột đi xa, thì có phải là...

    Nguyệt Lệ đã nhắc lại cái mùa hè năm 1948 không sao quên ấy. Dũng thở dài đứng dậy, anh đã ra đi đột ngột, hết sức đột ngột, và cũng hết sức bí mật nữa. Dạo ấy có một đợt cán bộ tốt nghiệp bộ. Thiếu mất vài người. Một số cán bộ trung đội trẻ thuộc các đơn vị quanh Bộ đã được chọn đi. Dũng rất thích, nó hoàn toàn phù hợp với tâm hồn đang đầy lãng mạn, phiêu lưu, phơi phới, với tinh thần hăng say sẵn sàng sả thân vì nước đang rất bồng bột. Nhưng phải xa Nguyệt Lệ lại là một điều thật sự đau khổ. Dũng đã ra đi với một tâm trạng phức tạp như vậy. Suốt dọc đường khi trên bộ, lúc nằm thuyền, buổi trên rừng, ngày xuống biển, đêm đêm anh đều nằm mơ, ú ớ gọi tên em, đến nỗi đã nổi tiếng trong đoàn về chuyện này. Rồi bước vào chiến đấu ở Tuy Hòa, Quy Nhơn. Mặt trận vỡ, dạt lên Cao Nguyên. Chiến đấu ở đó một hồi, anh lại dược điều qua Lào tham gia tình nguyện quân. Tới 1952 dược trở về Khu ba, sau một khóa học sĩ quan cấp đại đội và tiểu đoàn. Và sau chót, được về đại đoàn này, một đơn vị chủ lực trực thuộc Bộ. Luôn luôn hình ảnh Nguyệt Lệ không rời anh. Có lần ở Tuy Hòa, bị thương đã tưởng chết, đồng đội nghẹn ngào, hỏi anh có muốn nhắn gì về Bắc không? Dũng chỉ thều thào: “Nguyệt Lệ...”. Lên Cao Nguyên, một lần địch phục kích bất ngờ, anh bị thương. Bị bắt và bị tra tấn cực hình, anh và mấy chiến sĩ đều không một lời cung khai. Địch đem đi bắn. Chúng hỏi anh trước khi chết muốn nói điều gì? Dũng cũng chỉ trả lời: “Nguyệt Lệ”. Nhưng, cũng may sao, giữa lúc đó, các chiến sĩ du kích Thượng đã phục sẵn, phóng ra một trận mưa tên nỏ và cứu thoát anh, cõng chạy lên núi. Địch bắn đuổi theo. Anh lại bị thêm một vết thương nữa vào đùi. Máu anh đã chảy dài suốt từ đó lên tới đỉnh núi. Tưởng rằng mất hết máu, anh không còn sống nổi nữa, các chiến sĩ Thượng cùng khóc rống, chuẩn bị đem chôn thì anh lại lắp bắp: “Nguyệt Lệ”... Và cũng như bao lần trước, không hiểu sao thần chết cũng chưa bắt nổi anh. Anh chỉ hiểu có một điều: anh vẫn không muốn chết. Anh còn muốn được trở về với Nguyệt Lệ... Nhưng Nguyệt Lệ đây, Nguyệt Lệ đã phản bội anh từ lâu.

    Cuối cùng, anh đứng dậy, mặt sắt lại, đôi mắt lạnh ngắt:

    - Thôi thế có lẽ đủ rồi. Tôi xin nhắc lại: cô cứ yên tâm. Và quên mọi chuyện đi, quên cả cuộc gặp này. Tôi cũng vậy. Đó là điều tốt nhất đối với cô và cả tôi. Thôi cô ở lại đây một lát, rồi sẽ có người đưa cô và hai chị ra khỏi chốn này. Chào cô!

    Đoạn anh khom mình bước nhanh ra khỏi căn hầm trước sự sững sờ, bàng hoàng của Nguyệt Lệ. Cô vội nhào ra theo, chới với:

    - Anh Dũng! Anh Dũng! Em không có tội, em không có tội...

    Nhưng Dũng đã khuất vào khu rừng rậm ở phía bên. Anh không ở lại gặp Lanh và hai chị phụ nữ. Cũng không cần gọi Báu, anh đạp rừng cắt thẳng một đường về tiểu đoàn bộ. Bước chân anh như điên cuồng và tàn bạo.
     
    tducchau and machine like this.
  6. hoi_ls

    hoi_ls Lớp 7

    Ebook đã hoàn thành. Mời các bạn xem tại đây:
    Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link
     
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này