Văn học trong nước Bến Nước Ngũ Bồ - Hoàng Công Khanh

Thảo luận trong 'Phòng đọc trực tuyến' bắt đầu bởi huytran, 6/3/24.

Moderators: galaxy, teacher.anh
  1. huytran

    huytran Lớp 5

    SỬ LIỆU​

    Sau khi đánh thẳng được đôi ba trận, xét thấy khí thế của mình còn yếu, Lê Lợi rút quân về núi Chí Linh, chỉnh đốn binh mã.

    Một mặt, ông sai người đi liên lạc với đám khởi nghĩa trong nước: Phan Liêu ở Nghệ An, Lê Ngã ở Lạng Sơn, Trịnh Công Trương và Nguyễn Đặc ở gần Đông Đô. Mặt khác, ông phái người em họ, và cũng là một tráng sĩ, Lê Liêm vượt sông sang Chiêm Thành, để lôi kéo một số nghĩa sĩ Việt còn ẩn náu ở bên đó từ khi Hồ Quý Ly thất trận, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của vua Chiêm Trà Toàn. Trong khi đi đường, Lê Liêm đã phải hạ thủ một số quân Minh để thoát hiểm, rồi ruổi nhanh đến Ngũ Bồ giang, con sông chia đôi biên giới Chiêm Việt. Lê Liêm vào chờ đò sang sông trong quán nước Lão Đồ, một ông chài nghĩa khí vẫn chuyên đưa đón những người vì quốc sự qua về Bến Ngũ Bồ giang.

    Không may, viên Thám binh người Việt theo giặc Minh là Đặng Ích lần theo dấu vết, định vây bắt.

    Lão Đồ và con gái ông là Thị Trinh tìm cách che chở và đánh lạc hướng tên Việt gian này, cuối cùng đã đưa được Lê Liêm sang sông.

    Nhưng khi người tráng sĩ họ Lê buộc cương bên gốc cây trước quán ở miền quan tái này, thì đồng thời cũng bắt đầu tấn kịch bi tráng giữa một khách tuấn kiệt hào hoa và một trang giai nhân tuyệt sắc.


    NHÂN VẬT​

    LÊ LIÊM : Em họ Lê Lợi, khoảng 27 – 28 tuổi

    THỊ TRINH: Con gái Lão Đồ, 20 tuổi

    LÃO ĐỒ : Ông lái đò yêu nước, trên sáu mươi tuổi

    TRẦN BẠCH: Con trai cả Lão Đồ, khoảng 27–28 tuổi

    ĐẶNG ÍCH : Thám binh người Việt theo quân Minh

    LÍNH MINH



    CẢNH I​

    Không gian: Quán rượu bên sông Ngũ Bồ

    Thời gian: Một buổi chiều nắng quái

    Quán rượu lẻ loi bên sông. Con đê chạy sau quán dài tăm tắp. Bên phải là phía bến, bên trái là đường quan. Trong quán, một chõng tre, một ghế dài. Trên chõng vài ba vò rượu sành lớn, nút rơm đậy kín chất rượu vừa lên men, một chồng bát đàn, ít thức hoa quả của một thứ cây biên tái để làm đồ nhắm đưa cay.
    Trên vách, một con mã tấu bao mo treo lủng lắng. Quán có lối vào nhà trong, vách ngăn phên nứa, cửa ra vào và một cửa sổ nhỏ.

    Trước quán, quấn quýt dàn thiên lý đương độ mãn khai, Một gốc cây cằn xế mé phải, cành lá thưa thớt đìu hiu. Lau lách vi vu bốn bề sau trước.

    (Gió thổi lộng, ào ào xô lau lách ven sông. Ánh chiều đỏ quạch thấp thoáng buông trên mặt đê cao, rơi rớt trên mặt quán vắng lợp thuần một thứ cỏ bồ vàng nhạt, lốm đốm rêu xanh)

    THỊ TRINH –(Vừa ra vừa hát)

    Ai về Lạc Thủy? Ai lại Tây Đô?
    Ai qua Hàm Tử ? Ai đáp Bồ Cô?
    Ai ngược đèo Tam Điệp?
    Ai ghé bến Ngũ Bồ?
    Ai ra nhắn với ai vô.
    Nơi đây gió Bắc mưa Hồ mấy tao,
    Nơi đây tay gối làm dao,
    Ngủ trong tủi nhục thức vào hờn căm,
    Hát ngao mà hết tháng năm,
    Chiêm bao lót nửa chiếu nằm mà say,

    (Rũ một tấm lụa trắng phơi cạnh dàn thiên lý)

    Mộng đời trắng cả đôi tay,
    Sầu lên vi vút ngàn mày tràng giang,
    Nhắn ai tìm lối qua ngang,
    Đem tình đất nước trao sang xứ người
    Nhắn ai mơ chuyện cuộc đời,
    Mây nhàu quan tái một trời tâm tư,
    Thưa rằng thép nát son hư,
    Ngày đi sao cũng được như ngày về
    Thưa rằng trâm ước quạt đề,
    Chớ say Chiêm quốc quên thề Việt Nam...

    (Tiếng nhạc ngựa xa xa)

    Ai ngoài dặm cỏ
    Giờ đây rong ruổi một mình ?
    Tiếng chi như mõ dồn thác đổ
    Ai tiễn đưa nhau mà có trường đình?

    (Tiếng nhạc ngựa rõ dần)

    Nắng lồng nhạc ngựa lung linh,
    Phải chăng khúc hát đăng trình viễn phương

    (Tiếng vó ngựa gần lại)

    Âm ba rờn rợn lạ thường,
    Phải chăng vó ngựa ghê đường quan san ?

    (Tiếng nhạc và vó ngựa im bặt)

    Nhưng sao bằn bặt tiếng vàng?
    Nhạc im điệu nhạc, chiều tan giáng chiều!
    Cây tà nhạt bóng cô liêu,
    Quạnh đơn lối biếc, tàn xiêu ngõ hồng!

    (Bâng khuâng)

    Có gì đâu?
    Có gì đâu! Gió thu không
    Ru tình nức nở triều sông Ngũ Bồ,
    Có gì đâu! Nắng vàng xô,
    Gội hương mái cỏ bồng khô bàng hoàng,
    Có gì đâu! Tiếng đêm sang,
    Trắng mùa cổ độ, cư tang xứ lòng...

    (Chứa chan tâm sự)

    Có gì đâu! Cứ mà mong!
    Hỡi người tâm tưởng về trong mơ hồ!
    Dừng đây nghe sóng Ngũ bồ !
    Dừng đây uống cạn dăm vò rượu đau!
    Mênh mông tiếng hát ngàn câu,
    Hoài công giặt lụa cho nhau một đời,
    Có con người đẹp tuyệt vời,
    Cây ngàn lạc nẻo, cỏ khơi lặn vòng...

    (Lê Liêm từ lối đường quan ra, dừng lại ngoài quán lắng nghe. Thị Trinh không để ý, tiếp tục hát)

    Quán nghèo ngăn ngắt gió đồng,
    Đưa người mấy độ qua sông chưa đành,
    Chèo nghiêng thức trắng năm canh.
    Ơi người tráng sĩ áo xanh ngựa hồng!
    Hoa thưa cài mái tóc bồng,
    Đợi bao đêm nữa cho không thấy người ?
    Trời heo áo mỏng nhất đời,
    Chiều chiều giặt lụa đem phơi một mình...

    (Vào)

    LÊ LIÊM – (Định vào quán) Ô hay ! Quán không người!

    THỊ TRINH–(Ra) Xin quý khách dung tình!
    Không kịp đón...

    LÊ LIÊM –Nương tử còn phơi lụa,
    Và đương hát...

    THỊ TRINH – Xin nhận lời trách quở.
    Gặp lúc buồn nên hát nhảm cho vui.
    Quý khách đi từ vạn dặm xa xôi,
    Cần dùng rượu hơn cần nghe tiếng hát!

    LÊ LIÊM – E hai thứ đều cần...

    THỊ TRINH –(Nâng vò) Đây là ly rượu chát,
    Cất bằng hoa và men lá biên khu,
    Xin mời người thưởng thức chút công phu

    LÊ LIÊM – Chút công phu !
    Người cất rượu và người dong chèo đợi
    Bên bến nước, mặc gió lùa tóc rối,
    Mặc sương buông đầm giá ướt đôi vai,
    Đợi một người!
    Biết người đó là ai?​
    Một tráng sĩ ?
    Có phải không nương tử?​

    (Cười vang)

    Nhưng hận quá! Tôi chỉ là khách lữ,
    Thèm VÔ CÙNG và khát vọng MÊNH MÔNG,
    Muốn qua đò liệu có được hay không?

    THỊ TRINH- (ỡm ờ)
    Thưa rằng được và thưa rằng không được.
    Vì nghiêm lệnh...

    LÊ LIÊM - Của những quân xâm lược?
    Lệnh ra sao?

    THỊ TRINH (Cảnh giác) Lệnh Vương Phúc tướng quân,
    Triệt hết giang thuyền, câu hãm ngư dân,
    Chăng lưới bắt những người sang Chiêm quốc.

    LÊ LIÊM – Nghĩa là bắt những người vì đất nước,
    Vì giang sơn đã xách kiếm lên đường,
    Cưỡi ngọn phong ba, đạp sóng trùng dương,
    Lấy chính nghĩa để thắng phường bạo ngược,
    Cứu lê thứ ra khỏi vòng lửa nước,
    Thu sơn hà một mối lại trong tay.

    (Cảm khái)

    Thế ra bao tiếng hát lúc vừa đây
    Là hoài cảm...

    THỊ TRINH−(Vẻ bí ẩn) Mà cũng là hoài vọng,
    Là kỳ ẩn nhưng cũng là kỳ mộng,
    Quý khách bận tâm tìm hiểu làm chi?
    Rượu nghiêng vò rót cạn bóng chiều đi,
    Người nâng bát cho ấm lòng... (rót rượu mời)

    LÊ LIÊM - (Đỡ bát) Nương tử!

    (Uống cạn, rồi tự rót lấy uống)

    Rượu nhắp mãi không khuây lòng sầu xứ,
    Uống làm chi?
    Nhưng không uống không đành!​
    Ta rót một mình, ta cạn một mình,
    Say chưa bén dài cô đơn chót vót,
    Ta đối mặt ta, ta mời ta rót,
    Cá kình nghê hớp sóng lớn vào lòng,
    Bao nhiêu vò ắp nữa cũng là không!

    (Chứa chan tâm sự)

    Rượu nào cho mặt lên hồng?
    Men nào thoa dịu nỗi lòng đắng cay?
    Tái tê rượu ướt bàn tay,
    Ngùi say mà hóa cuồng say lạ đời!

    (Vỗ kiếm hát một mình)

    Ai rằng mật là ngọt?
    Ai rằng rượu là say?
    Sải tre mà mật đắng?
    Rượu vò mà chua cay!
    Hoàng hôn chìm đáy bát,
    Bóng nhỏ cánh chim bay..

    Hun hút đường biên tái,
    Anh hùng một tiếng suông.
    Trắng đôi tay sự nghiệp,
    Mặt nào về quê hương?

    Thế cùng ngồi độc ẩm,
    Thơ nào giải nguy cơ?
    Sao mà Chiêm mà Việt?
    Ngăn ngắt cỏ đôi bờ.

    Bước chân đi một bước,
    Hẹn mãi chẳng về không,
    Làm sao làm sao nhỉ?
    Say rồi quên cả ngông.
    Dọc ngang càng thêm ngán,
    Thấp thao mưa ngày đông,

    Tắt trên chiếu bạc bao nhiêu nến,
    Tắt ở lòng ta ngọn cuối cùng...

    (Tràn đầy phẫn hận thương cảm)

    Sông xanh núi đỏ vẫy vùng,
    Kiếm run hồn thép, ngựa chùng tay cương,
    Chừ đây trời mất mười phương,
    Chừ đây sợ cả mùi hương giang hồ...

    (Tiếng vó ngựa từ xa chạy lại dừng trước quán. Lính Minh chạy ra, rút trong người ra một tờ cáo thị lớn, trên vẽ hình một tráng sĩ áo lam, kèm theo những dòng chữ ngắn. Gã dán cáo thị lên thân cây trước quán, rồi chạy trở lại, hối hả phóng ngựa đi. Thị Trinh lén bước tới trước cáo thị)

    THỊ TRINH−(đọc)

    Đây tên Lê Liêm
    Theo phường bạo nghịch,
    Can tội hành thích
    Bộ tướng Minh Triều
    Mệnh lệnh dõi theo
    Khắp trong quốc thổ,
    Ai biết cáo tố,
    Tưởng lệ bạc vàng,
    Tiền lĩnh vạn quan,
    Bổ làm tri huyện,
    Ai ngầm giấu diếm,
    Tội xử tru di.
    Thừa lệnh thông tri,
    Yết niêm cáo thị,
    Treo hình Lê thị,
    Dấu tích biệt thường,
    Dân chúng tỏ tường
    Mặt tên quốc phạm.
    Minh triều chuẩn giám,
    Đệ nhất bộ quân,
    Quân pháp vô thân,
    Tướng quân Phương Chính.

    THỊ TRINH – (Giận dữ)
    Lại cáo thị! Lại yết niêm !
    Bao giờ buông tay ! Hỡi lũ cường quyền!
    Tình đời cát bụi đảo điên,
    Chủ về ngôi khách, khách lên chủ nhà,
    Đất băng dào dạt phong ba,
    Ngổn ngang chiến địa sơn hà vì đâu?

    Mối oan cừu đào mãi chỉ thêm sâu!

    (Ngắm kỹ hình vẽ trên cáo thị, giật mình)

    Trời! Lạ quá!
    Dung nhan người quốc phạm​
    Sao lại giống...
    Cũng núi xây vừng trán,​
    Cũng mây ngàn vương khóe mắt xa khơi,
    Cũng cỏ pha màu áo nhuộm da trời,
    Giống vô kể!
    Đúng rồi!
    Không có lẽ!
    (Quay lại gần Lê Liêm)

    Thưa quý khách!

    LÊ LIÊM – (Giơ tay ngăn) Xin bước giùm nhè nhẹ !
    Nương tử ơi, ta đương uống máu người!
    Khoái say ném bát vang cười,
    Nghiêng nghe vỡ cái sầu đời mà điên!

    (Ném bát rượu, cười vang như điên)

    THỊ TRINH – Rượu xong quý khách băng miền ?

    LÊ LIÊM – Vượt sang Chiêm quốc.

    THỊ TRINH – Nhưng thuyền không sang.
    Và đây là Ngũ Bồ giang,
    Đường chia biên giới...

    LÊ LIÊM— Phải sang kỳ cùng.
    Dù cho lưới bủa mịt mùng,
    Chết thà một chết, lùi không chịu lùi !

    THỊ TRINH – Nhưng thưa quý khách quên rồi,
    Sông sâu nước lớn mà người tay không?

    LÊ LIÊM – Ngàn muôn lối tắt đường vòng,
    Lẽ đâu chưa tới đã cùng hay sao?
    Há say làm khách tiêu dao ?
    Khoanh tay làm kẻ thua cao nước cờ ?

    THỊ TRINH - (Lững lờ) Trập trùng Chiêm Việt đôi bờ
    Cắm sào vẫn có người chờ nước trong.

    LÊ LIÊM - Nghĩa là vẫn có người chở khách sang sông?
    Nương tử ơi, hãy mách tôi người ấy.
    Giúp nhau vượt sóng muôn trùng.
    Mai ngày bên xứ lạ.
    Một bay bổng cánh hồng
    Cao sâu ơn tri ngộ,
    Xin ghi mãi không cùng.
    Người ấy là ai, nương tử?

    THỊ TRINH – Tiếc quá !
    Quý khách lại chỉ là khách lữ,
    Thèm VÔ CÙNG và khát vọng MÊNH MÔNG,
    Mà người lái đò khờ khạo,
    Lại là kẻ có lòng.
    Chỉ chở những ai là tráng sĩ,
    Chí lớn như núi sông,
    Nước loạn cắp gươm vùng dậy,
    Ra đi dẹp hết cuồng ngông.

    LÊ LIÊM – Nhưng người ấy là ai, nương tử ?

    THỊ TRINH – Tiếc quá !
    Quý khách vẫn chỉ là khách lữ,
    Thèm VÔ CÙNG và khát vọng MÊNH MÔNG,
    Mà người lái đò can đảm.
    Bản tính lại viển vông
    Chỉ chở những ai là quốc phạm.

    LÊ LIÊM – Thật hay không ?
    Nếu chỉ chở những ai là quốc phạm,
    Vì thân thế hay..

    THỊ TRINH – Thưa vì quốc nạn,
    Phất cờ lên đầu ngọn gậy hưng binh,
    Đường bôn ba đem chí khí tung hoành,
    Thời chưa lại, cờ thiêng còn đợi gió,
    Phiêu dạt bờ trăng, lênh đênh bến cỏ,
    Đốc gươm vàng loáng ngược máu cừu nhân,
    Bốn phương trời in dấu ngựa vết chân,
    Hiện đương bị quân thù theo dõi bắt.

    LÊ LIÊM-(Giật mình, nắm đốc kiếm)

    Bị quân thù theo dõi !
    Nàng là ai ?

    THỊ TRINH-(Mỉm cười)

    Chốn giang đầu heo hắt,
    Tôi là cô bán rượu chát quen nghề,
    Và là người đã đọc hết bài vè
    Dán trước quán.
    Nên vội vào mách lẻo !​

    (Chỉ ra gốc cây ngoài quán)

    LÊ LIÊM–Tờ cáo thị giọng ngu dân khôn khéo.

    THỊ TRINH–Và vẽ hình quý khách,

    LÊ LIÊM−(Đến trước gốc cây) Vẽ hình ta !
    Chốn sơn cùng thủy tận chúng không tha
    Ngăn vó ngựa, bắt ta ngừng tuốt kiếm !

    (Tuốt kiếm dóc tờ cáo thị rớt xuống, đạp chân lên)

    Đây số phận của kẻ đòi ngự chiếm
    Trên lòng ta bằng độc ác tham tàn,
    Trên muôn dân gieo thống khổ lầm than:
    Im sao được !
    Gớm thay loài cẩu trệ !​
    Sống trên máu, nghênh ngang trên huyết lệ!
    Còn nỏ mồm rao quốc phạm Lê Liêm:
    Ha ha ! Quốc phạm Lê Liêm !

    THỊ TRINH−Quốc phạm Lê Liêm,
    Hay tráng sĩ Lê Liêm !
    Buổi non nước ngửa nghiêng,
    Thời cỏ cây tán loạn,
    Ai tráng sĩ mà không là quốc phạm ?
    Ai giai nhân mà chẳng hóa vong nhân ?
    Ai hiền lương mà tránh khỏi cát lầm ?
    Ai trinh tiết mà thoát vòng ô trọc ?
    Nát vỡ ngọc vàng, nhàu tan gấm vóc,
    Nước mắt chan hòa mái cỏ cung vi.
    Tráng sĩ ơi ! Người căm giận làm chi ?

    LÊ LIÊM–Nhưng nàng là ai ?

    THỊ TRINH–Tôi theo phường bạo nghịch!

    LÊ LIÊM−Quân xâm lược ?

    THỊ TRINH–Người rừng sâu thảo hịch,
    Luận tội quân Minh. khởi nghĩa Lam Sơn.

    LÊ LIÊM–Thật vậy chăng ?
    Xin nói rõ nguồn cơn,
    Và giúp được cách nào ?
    THỊ TRINH– Thưa tráng sĩ,
    Quán rượu dựng nơi đây là dụng ý
    Làm trạm đưa người qua Chiêm quốc chiêu binh.

    LÊ LIÊM – Thế nhưng nương tử là ai?

    THỊ TRINH – Dạ, Thị Trinh,
    Con chủ quán người lái đò yêu nước.

    LÊ LIÊM−Vậy cụ đâu ?

    THỊ TRINH - Người sang Chiêm từ trước,
    Đón anh tôi là Trần Bạch trở về,
    Nội chiều nay khi trăng nở ven đê,
    Đò sẽ lại buông sào trên bến cũ.

    LÊ LIÊM – Để lại đón những người...

    THỊ TRINH - Như khách lữ,
    Tráng sĩ và quốc phạm cộng là ba !
    Người bình tâm khoan nỗi nhớ đường xa

    LÊ LIÊM – Xin nương tử hiểu cho lòng kẻ sĩ,
    Mới gặp gỡ nên giữ tình giữ ý,
    Lại sỗ sàng vì nghi hoặc vu vơ,
    Mượn bát rượu mồi giả đận say sưa,
    Vay thuật ngữ đóng vai người quẫn trí,
    Bởi thiên hạ hay chọn lầm tri kỷ,
    Nên nhìn đời không lấy thực làm mơ.

    (Mơ màng theo một viễn ảnh xa xôi)

    Vạt áo xanh từ độ lộng phương bờ,
    Mơ ước dựng một ngày mai sán lạn,
    Trên đổ vỡ, trên hoang tàn ly tán,
    Vang khúc hoàn ca, rợp bóng tinh kỳ,
    Xéo xác thù quằn quại dưới chân đi,
    Chuyển nhịp bước trên vùng xây khói hận,
    Đoàn chiến mã đã từng xông trăm trận,
    Vỗ yên lên buông tiếng nổ giao phong,
    Lửa gầm vang rung dậy nhịp loa đồng,
    Miệng thét vẳng khua làm chiêng rửa hận,
    Đoàn chiến mã đã từng xông trăm trận,
    Có hai chân thay làm ngựa ô phi,
    Một lòng son để dựng cả thành trì,
    Những chiến sĩ vùng đôi tay gân guốc,
    Mắt ngạo nghễ và gươm trần sáng tuốt,
    Từng trăm phen máu nhuộm đỏ sa trường,
    Những anh hùng chưa trắng nợ mười phương,
    Giẫm gót xuống, núi lở thành biển cả.
    Lũ Phương Chính mộng viễn chinh tan rã,
    Bọn Vương Thông chờ triều phủ ngập mồ,
    Khối binh hùng ngang dọc chật Đông đô,
    Sức vô địch khiến thù không ngóc nổi.
    Bờ bến ngự ầm một khuya lửa dội,
    Dòng đường trôi muôn vành nón thiên thần,
    Giữa kinh thành chợt thức một mùa xuân,
    Hoa chiến thắng rực trời bông nở mạnh.

    (Quay sang Thị Trinh, giọng thiết tha)

    Nương tử ơi!
    Nàng hãy chấp cho chim bằng đôi cánh,
    Làm nước nguồn để dẫn lối trăng đi!

    THỊ TRINH– Thưa rằng thanh sắc đương thì,
    Bẽ bàng kỳ lại hẹn kỳ cho oan,
    Chim bay có nhớ hàn giang?
    Trăng soi có nhớ thác ngàn bơ vơ?

    LÊ LIÊM - Người xưa có một bài thơ
    Niềm riêng gửi ý bây giờ xin dâng :

    (Ngâm thơ Đường)

    Biên địa oanh nhi chắn nẻo đường,
    Thơ mưa dòng lạnh bút lều sương,
    Trăng nhoè dáng kiếm câu tâm sự,
    Gió tạt hình hoa khúc đoạn trường,
    Sự nghiệp chưa tròn thân kiếm mã.
    Tơ duyên đành gác hội uyên ương,
    Tao phùng nửa kiếp là tao loạn,
    Một bước ly hoài mấy vấn vương.

    THỊ TRINH – Người xưa gieo nửa vần thương,
    Hay hèn xin nối một chương họa vần,
    Bọt bèo vốn dĩ là thân,
    Quê mùa đến cả lời ngân ngỡ ngàng:

    (Họa thơ)

    Chiều đơn quán lẻ ngẩn ngơ đường,
    Ải quạnh sầu đan lớp gió sương,
    Ai chỉ bút nghiên đau thế sự,
    Mà riêng kim chỉ não can trường.
    Kề thanh dạ liền bên thanh hợp,
    Nối tiếng uyên liền lại tiếng ương,
    Lòng ngỏ then cài chênh gió lọt,
    Thâu canh gối mộng nhặt trăng vương.

    LÊ LIÊM – Lĩnh ý thơ và không dám coi thường,
    Khi nương tử đã gửi lòng tin tưởng.
    Tấm chân ý xin tỏ bằng chân lượng,
    Mong được phép qua sông?

    (Tiếng gà gáy vào canh)
    Tiếng gà đã vào canh!​
    Đêm ngả huyền và trăng sắp treo xanh!

    THỊ TRINH – Dạ, Tráng sĩ sẽ vừa lòng toại ý,

    (Tiếng ngựa hí)
    Nhưng khoan!
    Tiếng ngựa nào lộng hí?​
    Liệu dấu vết người có lộ hay không?
    Mà quân thù..

    LÊ LIÊM – Đó là chiếc ngựa hồng

    THỊ TRINH – Của tráng sĩ?

    LÊ LIÊM – Buộc ở ngoài gốc liễu,
    Trước cổ tự chữ đề: Giang thần miếu,
    Ở gần đây...

    THỊ TRINH – A! Khi vó ngựa im đường
    Lúc chiều tà, là người đã dừng cương,
    Đi chân đất tới quán này hỏi rượu.
    Tôi nhớ ra rồi!

    (Có bóng người thấp thoáng trên đê)

    LÊ LIÊM – Bóng ai lồng trăng chiếu,
    Đổ dài trên mặt đê dầy?
    Bước chân chập chừng lảo đảo,
    Đương tiến lại gần đây ?

    THỊ TRINH – Tráng sĩ hãy quay về cổ miếu,
    Tránh bất ngờ và đợi tạm phút giây,
    Còn để mặc tôi đối phó!

    LÊ LIÊM (Vỗ đốc kiếm) Nương tử!
    Lưỡi kiếm sắc có ngại gì nguy khó!
    Xin nhường bước cho tiểu sinh!

    THỊ TRINH - Người bạo động ích chi?
    Khi bốn bề điệp điệp mấy trùng vi,
    Như kiến cỏ giặc chia quân chiếm đóng ?

    (Dịu dàng ý tứ)

    Người có xót kẻ buông mành đợi bóng,
    Thì hãy vì đại nghĩa kíp rời chân,
    Và bảo tồn nhất nhất lấy tôn thân,
    Thân thế trọng cũng như non nước trọng.
    Trăng rõ lắm rồi!

    LÊ LIÊM- (Vòng tay) Tạ tình nàng cao rộng!
    Tôi đi đây!

    (Vào nhanh)

    THỊ TRINH – Bóng người đã lại gần !

    (Vào khuất)

    (Trần Bạch từ trên mặt đê xuống, bóng đổ về phía trước, bước chân loạng choạng ngả nghiêng)

    TRẦN BẠCH – Rượu bồ đào say ríu cả đôi chân,
    Đầu không uống mà đầu quay đáo để!

    (Vào quán, nhấc vò rượu lên lắc, mở nút ghé mắt nhìn)

    Anh rượu ơi! Anh có còn không thế ?

    (Dốc ngược vò rượu)

    Hết tỉ rồi! Hết thật !

    (Lắc đầu chán ngán, ném vò lăn lông lốc)

    THỊ TRINH- (Ra) Anh đã về !

    TRẦN BẠCH – Anh về nhà nếm lại chút men quê,
    Em coi thử rượu có còn hay hết ?
    Có câu chuyện thật buồn cười muốn chết,
    Cạn dăm vò rồi anh kể em nghe... .

    THỊ TRINH– Anh ra đi độ ấy mới sang hè,
    Đầu tường ngỏ đương lập lòe lửa lựu,
    Bấm đốt tay một năm tròn không thiếu,
    Một năm tròn vắng bặt hết tăm hơi,
    Đau đáu cha già mong nhớ khôn nguôi,
    Lại lo lắng ngày đêm vì quốc sự,
    Tóc bạc trắng những canh dài không ngủ,
    Thân héo mòn trong rượu uống thay cơm,
    Hết hoàng hôn rồi lại đến hoàng hôn,
    Trên bến nước Ngũ Bồ giang hiu hắt,
    Cha trông ngóng đã mỏi mòn đôi mắt,
    Bãi sông khuya mù mịt bóng hình anh,
    Cha choàng vai tấm áo khoác mong manh,
    Vượt sóng sang Chiêm tay chèo tay lái,
    Tìm anh về…..

    TRẦN BẠCH (Ngăn lại) Từ từ cô em gái!
    Khoan kể đường dài!
    Hãy tìm hộ cho anh!​
    Rượu trốn đâu mà vò ngửa tênh hênh?
    Bát há miệng khô như kỳ đại hạn ?

    THỊ TRINH – Rượu bán hết cho khách rồi!

    TRẦN BẠCH – Rõ chán!
    Biết thế liều ở quách lại bên Chiêm,
    Rượu Chiêm thành thả cửa uống liên miên,
    Men nồng ấm thú hơn là rượu tiến,
    Thuần mà đậm, thơm mà không dị biến,
    Tục mà lại hay, mạnh mẽ ung dung,
    Say ly bì, gác hết chuyện non sông,
    Quên năm tháng, mặc ai lo ai liệu ..

    (Như trong mơ)

    Gái Chiêm quốc đẹp như trong mộng triệu,
    Ánh dung quang mờ nhạt cả làn gương,
    Mỗi bước hài đưa một điệu Nghê thưởng,
    Tình muôn thuở vang hình trên vách đá...

    (Mê loạn)

    Ôi! Cuồng hỉ khi cung đàn giục giã,
    Trong cánh tay ngà hóa rắn quấn quanh,
    Chết giữa trời hoa đất rượu mong manh,
    Hay gục ngã khoảng đêm sầu thế hệ...

    (Lảo đảo muốn ngã, vội ôm lấy cột quán)

    THỊ TRINH – Anh sang Chiêm nếu chỉ vì như thế
    Vì sênh ca, vì nhã nhạc mê người
    Vì rượu ngon, vì nhan sắc gái Hời,
    Có sang nữa cũng chỉ là uổng phí!

    TRẦN BẠCH- (Cười khà khà, vung tay)

    Em có biết bao oai hùng nghĩa sĩ.
    Bao đường đường hào kiệt đã lừng danh,
    Khi sang Chiêm cũng chẳng khác gì anh?

    (ôm vò rượu không, vỗ vào vai vò)

    Cả chí lớn đong chưa đầy hồ rượu,
    Đổi trăm họ lấy một nhành liễu yếu,
    Đắm hồn trai trong đôi tiếng cười vo
    Huống chi anh! Con một lão lái đò!
    Giữ sao được! Mà giữ làm chi nữa!
    Rượu nốc kỳ cho tim gan bốc lửa!
    Đàn rung lên! (Giơ tay vẫy vẫy)
    Người đẹp đất Hời ơi!
    Hãy chờ ta!...
    (Loạng choạng bước đi, ngã ngồi giữa sân khấu, tay vẫn khư khư ôm chặt vò rượu)

    THỊ TRINH - Anh Bạch! Anh quá mải mê chơi,
    Quên mất cả lời cha già căn dặn,
    Phụ cả ý của tiền nhân gửi gắm
    Của người con mang tủi lớn non sông,
    Rửa sạch hận thù quốc phá gia vong.
    Anh nghĩ lại !...

    TRẦN BẠCH – Anh nghĩ rồi, em ạ.
    Rỗi hơi lo trước mối lo thiên hạ,
    Tội gì không vui trước cái vui chung!
    Một đời người được mấy dịp lung tung?
    Sách có chữ rằng: “Chơi là lãi đấy!"
    Quân tử sất phu ngàn xưa đều vậy,
    Nên gặp cha, anh đã nói hết lời.

    THỊ TRINH - Cha bảo sao?

    TRẦN BẠCH – Chà! Ông lão dở hơi !
    Chưa chi đã đánh phủ đầu ngay trước,
    Rồi sấp ngửa lôi anh về bằng được,
    Không cho ngừng một phút lại bên Chiêm. -

    THỊ TRINH – Hiện cha đâu ?

    TRẦN BẠCH – Đương hì hục dìm thuyền
    Ngoài bãi sóng.

    THỊ TRINH (lo lắng) Cha dìm thuyền xuống cát? .

    TRẦN BẠCH - Và bẻ gẫy cả mái chèo tan nát,
    Thề từ nay..

    THỊ TRINH - Cha bẻ gẫy mái chèo? Thề sao anh?

    TRẦN BẠCH – Sẽ đốt quán cháy vèo.
    Tìm nghề khác kiếm lần hồi hai bữa,
    Quyết không chở người sang Chiêm quốc nữa,
    Vì người đi mà chẳng có người về.
    Ông cụ già tuy lẩn thẩn chân quê,
    Mà hăng máu hơn cả người trai tráng.
    Nghĩ cũng giận mà nghĩ thì cũng hoảng.
    Lát nữa về em liệu ý cha xem,
    Can giúp cho anh... .

    THỊ TRINH - Anh giúp cho em,
    ra ngoài bến can cha

    TRẦN BẠCH – Đừng xui dại! Can làm chi?

    THỊ TRINH – Xin cha cầm thuyền lại!
    Giữ lấy mái chèo !

    TRẦN BẠCH - (Không hiểu) Thật rắc rối to!

    THỊ TRINH – Vì đêm nay sẽ có khách qua đò, Khi trăng rụng ...

    TRẦN BẠCH – (xua tay) Chớ vuốt râu ông kễnh!

    THỊ TRINH – Nhưng khách là người...

    TRẦN BẠCH - Dù có là ông thánh!
    Cũng khó mà lay chuyển nổi lòng cha!

    THỊ TRINH – Nhưng khách là người...

    TRẦN BẠCH – (Gật gù mỉa mai) Rất lỗi lạc tài ba!
    Tuấn kiệt, siêu quần, kiêu kỳ, dũng mãnh!
    Sang đất lạ với hai vai sứ mệnh,
    Vai quẩy rượu tăm, vai gánh phấn son,
    Chuyện phong hoa, thay câu chuyện nước non,
    Cơn say rũ đổ cơn say đế bá!

    (Cười nhạo báng)
    Thế hắn chui đâu?

    THỊ TRINH – (Bất mãn) Anh khoan lời nói quá,

    TRẦN BẠCH - Ờ thì thôi !
    Thế ông tướng ấy đâu?

    THỊ TRINH – Chờ ở ngoài Giang thần miếu từ lâu,
    Đợi đêm ngả trăng tan vành...

    TRẦN BẠCH − (Xua tay) Mặc hết!
    Rượu cái đã, rồi quyết gì hãy quyết,
    Làm gì hãy làm, không rượu không xuôi.

    THỊ TRINH – Anh không đi e lỡ hẹn...

    TRẦN BẠCH - Đành thôi!
    Rượu trên hết!

    THỊ TRINH - (Suy nghĩ nhanh)
    Hay anh chờ giây phút!
    Để em chạy đi mua! (Cầm lấy vò rượu không)

    TRẦN BẠCH - Nhanh chân một chút! Và lấy đầy vò!

    THỊ TRINH – Anh giữ kín việc này,
    Kẻo không rồi lại vạ gió tai bay!
    Em đi gấp !

    TRẦN BẠCH – Đúng! Không nhạt mồm quá lắm !

    (Thị Trinh mang vò bỏ vào nhanh)

    (Trần Bạch lục lọi lại các vò rượu)

    TRẦN BẠCH – Chà! chà!
    Ông khách này cũng là tay nghiện nặng,
    Bao nhiêu vò mà hết sạch sành sanh,
    Vớ được nhau đấu bát một vài canh,
    Thì mới phân rõ được tài cao thấp.
    Thật đáng tiếc!

    (Đặng Ích ra, theo sau có tên lính Minh)

    ĐẶNG ÍCH – Tiếc đầu còn hay mất?
    Hay tiếc sợi giây treo cổ trên cành?

    TRẦN BẠCH – (Hoảng sợ) Dạ, dạ...

    ĐẶNG ÍCH – Tiếc ruột gan chưa bị gươm phanh
    Làm ba khúc quăng thây giữa lộ ?

    TRẦN BẠCH - Ối (Ngã quỵ xuống)

    ĐẶNG ÍCH – Đứng lên! Trả lời ta cho rõ:
    Lão Đồ đâu ?

    TRẦN BẠCH - (Đứng dậy chắp tay) Dạ, thưa Đặng đại nhân,
    Cha tôi đi mua rượu nẻo giang tân,
    Sắp trở lại...

    ĐẶNG ÍCH – Ta muốn ngươi nói thực ;
    Khoảng Thân Dậu có ai người áo lục,
    Cưỡi ngựa hồng vào hỏi lối sang sông?

    TRẦN BẠCH – Ngài để tôi cố nhớ!
    Quả là không​
    Không ai cả! Không ai vào trong quán!
    Người đó làm chi?

    ĐẶNG ÍCH - Một tên quốc phạm!

    TRẦN BẠCH – Một tên quốc phạm?

    ĐẶNG ÍCH – Đại trọng phạm quốc gia!
    Nó trốn đâu, ngươi hãy chỉ cho ta!
    Hay ngươi muốn xếp vào hàng kẻ nghịch?

    TRẦN BẠCH – Thưa đại nhân...

    ĐẶNG ÍCH – Đừng dài lời vô ích !
    Nói đi xem ! Ta không muốn chờ lâu!
    Vì gươm vàng đương thèm máu đầu lâu!

    TRẦN BẠCH – Dạ, thưa Đặng đại nhân...

    ĐẶNG ÍCH – Thưa gửi mãi!

    TRẦN BẠCH – Quả từ sớm không có ai qua lại,
    Dạ chân thành xin cứ thực tường khai,
    Ngài giết tha, đành cam chịu dám nài.

    ĐẶNG ÍCH – Ngươi chối cãi nghĩa là ngươi muốn chết!
    Ta nghe rõ vó ngựa đè lá xiết,
    Cuốn gió dường vun vút réo ngàn xanh,
    Băng về đây từ lúc nắng lên cành.

    (Ra hiệu cho lính Minh vào khám xét trong quán không thấy gì, Đặng Ích rút gươm, tên lính Minh nhanh nhẹn bẻ quặt tay Trần Bạch)

    ĐẶNG ÍCH - Ngươi phải chết!

    (Trần Bạch mắt dán vào nậm rượu đeo lủng lẳng bên mình Đặng Ích)

    TRẦN BẠCH - (Liếm môi) Xin cho say mà chết!
    Chết mà say!

    (Đặng Ích nhìn theo mắt Trần Bạch, mỉm cười, tra gươm vào vỏ)

    ĐẶNG ÍCH – À hà! Ta vui lòng cho hết!

    (Cởi nậm rượu ở thắt lưng ra)

    Ngươi muốn rượu chăng ?

    (Đưa nậm rượu dử Trần Bạch, rồi rụt ngay lại)

    Nhưng ta có một lời​
    Rượu ta ngon ngàn lạng cũng khôn vời,
    Ngươi hứa trước rồi ta ban cả nậm.

    (Đưa lên môi nhấp)

    Chà! ngon tuyệt!
    Mới kề môi đã thấm!​
    Ngươi ngửi xem! (Đưa qua mũi Trần Bạch)

    TRẦN BẠCH −(Hít vội, liếm mép) Ngon thật!

    ĐẶNG ÍCH - Đúng hay không?
    Ngươi hứa đi rồi ta sẽ thưởng công !

    TRẦN BẠCH – Hứa gì được, thưa ngài?

    ĐẶNG ÍCH – Bắt tên áo lục
    Đã trốn đến quán này vừa kịp lúc.
    Nộp cho ta để ta nộp quân Minh,
    Rồi mai ngày cũng bổng lộc hiển vinh.
    Cũng quyền lực như Thám binh Đặng Ích.
    Rượu muôn hộc sẽ tha hồ thỏa thích.
    Bạc đầy kho sẽ mặc sức tiêu pha.
    Rồi quan hầu, rồi tì thiếp kiêu sa,
    Xe trăm ngựa, ruộng ngàn khoanh đắc ý,
    Áo khanh tướng choàng vai người dũng sĩ,
    Rạng mặt công hầu phấn điểm son tô,
    Ta với ngươi thủng thỉnh bước sông hồ,
    Giang tay rộng khoát non sông thiên hạ,
    Hơn là làm con lão lái đò!

    (Quàng vai Trần Bạch)

    TRẦN BẠCH Dạ, dạ.

    ĐẶNG ÍCH – Ngươi giấu tên phiến loạn ấy đâu?
    Nói đi rồi ta chuốc rượu mừng nhau!

    (Tu trước một hơi khoái trá)

    TRẦN BẠCH - (Liếm môi chép miệng)
    Thưa đại nhân, nếu đúng là hậu ý,
    Xin dăm hớp cho Bạch này sáng trí.
    May có nhớ ra chăng..

    ĐẶNG ÍCH – (Đưa nậm rượu) Ngươi quả biết điều!
    Đây uống đi và uống rõ thực nhiều,
    Say cho đã rồi nói cho ta biết!

    (Trần Bạch tu rượu đốc thôi)

    TRẦN BẠCH – Khà ! Khà!
    Hay! Hay! Hay tuyệt!
    Sướng khoái vô cùng!
    Vui không kể xiết!
    Ai cười ta ? Ai khinh ta?
    Cơn men dốc tận giang hà,
    Say rồi bạo chúa cũng là thằng say!

    (Lại uống liên tục)

    Thế mà nhịn trong từ lúc về đây,
    Lão khách ấy làm cho mình mừng hụt,
    Vét nhẵn nhụi mọi vò rồi bỏ cút!

    ĐẶNG ÍCH - Khách là ai?

    TRẦN BẠCH – Hà! một bợm rượu không quen,
    Chưa gặp bao giờ và mù mịt họ tên !

    ĐẶNG ÍCH – Mặc áo màu gì?

    TRẦN BẠCH – Liễu xanh hay cỏ lục?
    Đỏ hoa đào hay vàng tươi đóa cúc?
    Tùy ý ngài...

    ĐẶNG ÍCH – Ngươi lảm nhảm như điên.
    Hiện nó đâu?

    TRẦN BẠCH – Ở ngoài Giang thần miếu chờ thuyền,
    Lúc trăng rụng sẽ vượt sang Chiêm quốc.

    ĐẶNG ÍCH – (Túm ngực Trần Bạch)

    Đồ vô dụng! Sao ngươi không nói trước?
    Đúng nó rồi!

    TRẦN BẠCH – Tên quốc phạm ?
    Càng hay!​
    Ngài buông ra! Tôi chưa đến độ say,
    Chân còn vững...

    ĐẶNG ÍCH – Nhưng đầu ngươi không vững!
    Hãy liệu hồn!

    (Đẩy ngã Trần Bạch, rồi vẫy tên lính Minh cùng chạy vào)

    TRẦN BẠCH (Lóp ngóp bò dậy)
    Làm cho mình cụt hứng!
    Môi đang mềm... (Nhìn nậm rượu lăn lốc) Rõ hoài của hay chưa...
    Rượu chan hòa trên mặt đất như mưa...

    (Nhặt nậm rượu lên và tiếc rẻ lấy tay chấm rượu trên đất, quẹt lên miệng)
    Say rồi lại bảo rằng chưa,
    Chưa say mà lại dám thưa say rồi!
    Rượu ngon ta uống vô hồi,
    Đất nghiêng trời ngả, ta ngồi bình yên.

    (Thị Trinh và Lão Đồ ra, vừa đi vừa nói chuyện, tay Lão Đồ cầm lưỡi mác)

    THỊ TRINH - Con nhìn rõ, không thể nào lầm được

    LÃO ĐỒ – Đúng Đặng Ích?

    THỊ TRINH – Đúng là tên bán nước,
    Theo giặc Minh để loè nạt dân lành,
    Áo đại hồng phấp phới rặng cây xanh,
    Ngựa dấy bụi trên đường mòn lối quán.
    Đi tiếp cận tên lính hầu áo xám,
    Mỏ chim mồi mặt cú vọ sánh đôi.

    LÃO ĐỒ — Ta mau chân! Cha đoán chắc vừa rồi
    Chúng đến quán để tìm Lê tráng sĩ.

    (Vào quán, thấy Trần Bạch hãy còn ngất ngưởng say)

    Đồ ăn hại! Mày vẫn còn túy lúy,
    Chưa cất nổi đầu từ Chiêm Quốc về đây!

    (Giằng nậm rượu ném đi)

    Ném ngay đi!

    TRẦN BẠCH – Xin cha hãy nương tay!

    THỊ TRINH – (Nhặt nậm rượu lên) Nậm rượu lạ!
    (Với Trần Bạch)
    Anh lấy đâu ra thế?

    TRẦN BẠCH – Có người bán cho anh...

    THỊ TRINH - Không có lẽ!
    Rượu quanh vùng đều hết tự hôm qua.
    Khắp các hàng đều cất tại nhà ta!
    (Nhìn kỹ nậm rượu) Anh nói dối, vì đây là dấu tích
    Trên mình nậm, tên gian hùng Đặng Ích
    Khắc rành rành!

    LÃO ĐỒ – (Giật mình giật lấy cái nậm)
    Uống cả rượu gian hùng!
    Đến thế thì thôi!

    TRẦN BẠCH − (Cúi đầu) Cha mở lượng khoan hồng!
    Hắn mời mãi, con chối từ không tiện.

    LÃO ĐỒ - Nó thuê rượu moi gan mày hỏi chuyện,
    Rượu uống rồi mày không dễ làm lơ !

    THỊ TRINH – Chuyện những gì anh?

    TRẦN BẠCH - (Nói bừa) Toàn đạo lý văn thơ!
    Luận Đường Tống và ngâm Tương tiến tửu!
    Tiền hậu Xích Bích, Tỳ bà hành điệu,
    Trường hận ca cùng Quy khứ lai từ,
    Rượu rồi thơ, thơ rồi rượu lu bù,
    Bàn sang cả Nam Hoa cùng Đạo đức,
    Bát quái, Thiên hào, Hà đồ, Thái cực,
    Lão tử, Trang sinh...

    THỊ TRINH – Anh thật viển vông !
    Mất thì giờ và hoài phí cả công.
    Em chỉ sợ anh quá say lỡ miệng,
    Nói hở ra...

    LÃO ĐỒ – Mày quanh co lấp liếm!
    Có đời nào tên Đặng Ích kiêu kỳ,
    Từ Đông đô mò mẫm tới biên thùy,
    Vượt ngàn dặm để tặng mày rượu quý ?
    Để bình thơ và bàn suông đạo lý ?
    Nếu không là một mưu chước thăm dò,
    Lùng bắt người tráng sĩ sắp qua đò,
    Nên dùng rượu dử cho mày mắc bẫy !
    Mày đáp nó sao ?

    TRẦN BẠCH – Con đáp là không thấy !

    LÃO ĐỒ – Đến phút này mà còn nói dối ta !
    Mày xưng rồi !

    TRẦN BẠCH – Nhưng nó dọa không tha,
    Nếu không chỉ cho một tên quốc phạm.
    Dưới lưỡi kiếm gai ghê, lòng hoảng loạn,
    Con đành liều mách đến miếu Giang thần...

    THỊ TRINH - (Bàng hoàng) Trời ! Nơi mà Lê tráng sĩ náu thân!
    Anh đã giết mất một người yêu nước !

    TRẦN BẠCH – Tính mạng anh, anh phải cần lo trước
    Cũng như em không nên chết thay anh,
    Và anh chết vì một kẻ vô danh,
    Khi cái chết không nghĩa gì hệ trọng,
    Không tiết liệt đoan trinh...

    LÃO ĐỒ – (Tức giận) Thôi câm họng!
    Mày biết làm sao người đó là ai ?
    So với mày, một đứa vô tài,
    Như nấm đất bên núi cao vòi vọi,
    Như đêm tối trước ánh dương chói lọi,
    Loài cỏ hèn bò dưới ngọn thâm u,
    Giống cáo ngày nương bóng cả mãnh sư...

    (Thở dài sườn sượt)

    Càng suy nghĩ lại càng thêm ngao ngán,
    Dạy cứu nước hóa dậy con làm phản !

    TRẦN BẠCH - Con làm chi?

    LÃO ĐỒ— Tội mày đã tầy đình,
    Gục mặt theo phường úy tử tham sinh,
    Cúi đầu xuống cam sống bề trâu ngựa.
    Con làm chi ?
    Mày dọn đường mở cửa,​
    Đón gót thù về giày đạp non sông,
    Phá miếu đường, làm điếm nhục tổ tông,
    Đưa dân tộc bước vào vòng nô thuộc.
    Con làm chi?
    Mày tiếp tay giặc nước,​
    Bắt bớ người hiền, chém giết lương dân,
    Áp dụng nơi đây bạo sách nhà Tần,
    Dùng ngược chính, chôn học trò đốt sách.
    Con làm chi ?
    Mày thọc gươm vào nách​
    Trang anh hùng cứu nước của nhà Lê,
    Tài đức trùm cao sông núi đôi bề,

    (Cảm xúc bùi ngùi)

    Người mà ta vẫn ước ao gặp mặt.
    Mà năm tháng gối chèo không nhắm mắt,
    Một đời ta đón tại quán biên thùy,
    Từ Lam Sơn lắng nhạc ngựa đưa về,
    Trong mộng tưởng vạt khinh cừu phấp phới.
    Ta mỗi lúc ngỡ rằng người đã tới,
    Quay mũi đò, mỗi lúc lại hoàn không.
    Thế mà nay người tới để sang sông,
    Ta lại lỡ!
    Ôi ! muôn vàn chua xót!​
    Con làm chi ?

    (Giở khóc giở cười)

    TRẦN BẠCH - Nhưng việc này đã trót !
    Cha hơi đâu mà thở vắn than dài,
    Già đời người lận đận kiếp ông chài,
    Trung với dũng! Có ai thèm đoái hỏi !
    Thân hèn hạ đắm chìm trong bóng tối,
    Như trăm nghìn thân hèn hạ trong vòng
    Mất hay còn, sống chết nghĩa không ?
    Hão tuốt cả !

    LÃO ĐỒ – (Quắc mắt) Tội chém đầu như thế,
    Còn há miệng thở những lời cẩu trệ,
    Xéo ngay đi, cho khỏi bẩn mắt ta !
    Không mác này...

    TRẦN BẠCH - Con khẩn khoản xin cha
    Nguôi căm giận và thư tâm suy nghĩ...

    LÃO ĐỒ - Quân khốn kiếp !

    THỊ TRINH - Kìa cha!

    LÃO ĐỒ – (Xông lại đánh) Để mày thêm di lụy !

    THỊ TRINH – Xin cha hãy khoan tay ! (Giữ tay Lão Đồ)

    TRẦN BẠCH – Em hãy cứu anh ! (Ôm đầu chạy nhanh)

    THỊ TRINH – Cha ơi! (Giằng co)

    LÃO ĐỒ - Nghịch tử ! (Chém lưỡi mác vào cây cụt)

    (Tắt đèn)​
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/3/24
    amylee and nhan van like this.
  2. huytran

    huytran Lớp 5

    CẢNH 2​


    Thời gian: Chiều hôm sau
    Không gian: Như cảnh

    (Lão Đồ ngồi uống rượu và hát một mình. Giọng hát buồn bã, cảm khái, hoài vọng. Thỉnh thoảng lão đứng dậy, đi quanh, lấy mái chèo gõ nhịp vào cột quán hoặc vào gốc cây cụt).

    LÃO ĐỒ – Mưa xuân chưa về (chừ) lửa hè vội tắt,
    Hơi thu chưa qua (chừ) gió đông đã sang,
    Đào lên ngôi mấy độ (chừ) sen tạ mầu xanh ngó,
    Cúc tàn xao xác cánh (chừ) ngô đồng lơ thơ lá vàng,

    Ngày xanh bóng ngựa,
    Tóc trắng pha phôi,
    Ôm bầu u uất,
    Nuốt hận chờ thời,
    Nước mắt đẫm năm canh (chừ) đau niềm nước mất,
    Nhịn nói hóa thành câm (chừ) lấy thảm làm vui,

    Đoái bốn phương ngàn,
    Một mình thui thủi,
    Ta lại với ta (chừ)
    Bụng thời lép,
    Thân thời trần,
    Đuốc công danh mặc ai bận soi đường lớn,
    Ngõ gió riêng dành mái cỏ âm âm.

    Nhịp chèo khua đêm loạn,
    Tiễn mãi người đi.
    Ai biết chi (chừ)
    Thuở tóc xanh còn vương dài trán rộng,
    Đường trần chìm nổi, thân thế chơi vơi,
    Trải mấy tà huy đứng bền lều vắng,
    Ngõ Việt đường Chiêm một ngả chia đôi,
    Trời vút sông dài, trăng gầy, thuyền nhỏ,
    Ai hay đâu nào ta dám phụ người.
    Hỡi ôi! Còn có bao giờ nữa,
    Người trở về đây chuốc chén rượu mời?
    Bởi vì chưng lối sang Hời đã khép,
    Bởi vì chưng đã khép lối sang Hời...

    Buồn tanh giở khóc giở cười,
    Say rồi đòi tỉnh, tỉnh rồi thèm say,
    Ngủ vùi đầu gối cánh tay,
    Nằm mơ nhân sự, nếm cay thế tình...

    (Ngâm thơ Đường)

    Bốn mặt sơn hà loạn chiến chinh,
    Tuổi già việc nước nhẽ vô tình?
    Biên cương hồn vọng về thôn ấp.
    Ải Bắc sầu lên ngút đế kinh
    Đã mượn mái chèo làm giáo sắc,
    Lại mang gan óc kết tinh binh.
    Trượng phu chí khí ai người biết ?
    Rằng dại rằng điên có một mình !

    (Cầm mái chèo lên)

    Đây mái chèo đưa người khách đăng trình,
    Bao đêm vợi ta cần cù gọt sửa,
    Người thôi lại, còn để làm chi nữa!
    Cho bận lòng

    (Định bẻ gẫy mái chèo)

    THỊ TRINH – (Ra giữ lại) Xin cha hãy khoan tay!

    LÃO ĐỒ – Có chuyện chi con hãy nói cha hay?

    THỊ TRINH – Con vừa ra ở ngoài phường Xuân Lộng,
    Nghe người kháo quân Minh đương náo động,
    Vì biết tin Lê tráng sĩ qua sông,
    Chúng tung ra trăm tướng tá binh hùng,
    Và trên dưới hàng mấy ngàn quân mã,
    Kéo thẳng đến miếu Giang thần tầm nã,
    Từ đêm qua tới suốt sáng hôm nay,
    Một cánh chim khôn lọt khỏi vòng vây..

    LÃO ĐỒ – Chắc Đặng Ích?

    THỊ TRINH – Và có thêm anh Bạch.

    LÃO ĐỒ - Cả nó nữa?

    THỊ TRINH – Hai người đi sát nách
    Cùng xông vào trong miếu bắt Lê Liêm,

    LÃO ĐỒ - Lũ súc sinh!

    THỊ TRINH – Trời còn tựa người hiền,

    LÃO ĐỒ– Người trốn thoát?

    THỊ TRINH - Người bỏ đi từ trước,
    Miếu trầm mặc uy nghiêm bên sóng nước,
    Tượng linh thần vò võ đứng hoang liêu,
    Gốc liễu cô đơn ngưng đọng nắng chiều,
    Lau lách vọng rì rào niềm hiu quạnh,
    Gió lồng lộng khắp bốn bề vắng lạnh,
    Không hành tung, không bóng dáng một ai.

    LÃO ĐỒ (Mừng rỡ) Vậy giặc tính sao?

    THỊ TRINH - Chúng lặng lẽ rút lui.

    LÃO ĐỒ– Rút lui hết ?

    THỊ TRINH - Toàn quân bộ.

    LÃO ĐỒ – (Ngẫm nghĩ) Có thể
    Chúng tương kế để rồi tựu kế.
    Lê tráng sĩ đâu ?

    THỊ TRINH - Con chưa được gặp người,
    Có lẽ quẩn quanh đâu đó mà thôi.

    LÃO ĐỒ – Người thoát hiểm ! (phấn chấn )
    Nghiệp nhà Lê còn vững,​
    Và vận nước tuy gặp hồi điêu đứng,
    Nhưng cơ đồ không làm bước suy vong,
    Đã thuận lòng người trời cũng góp công,
    Mừng khôn xiết!..

    THỊ TRINH - Nhưng còn e một nỗi
    Không khôn khéo thì rồi đây sớm tối,
    Sẽ sa vào vòng lưới chúng như chơi.
    Phải mau tìm sao cho thấy được người,
    Đưa kíp sang Chiêm, trọn lời ước hẹn.

    LÃO ĐỒ – Con yên lòng.
    Mái chèo còn nguyên vẹn,
    Thuyền vẫn buông sào trên bến Ngũ Bồ,
    Đợi trang anh hùng khét tiếng thành đô.
    Vượt biên giới đem binh về rửa nhục,
    Phá ngục tù, bẻ ngọn cờ khuất phục.
    Đuổi thù, sát nịnh, diệt ác, trừ gian,
    Loài tỳ hưu nghe vỡ mật kinh hoàng,
    Giống sâu kiến sợ nép mình khiếp vía,
    Cha con ta hãy chia tìm mấy phía,
    Cha bắt đầu lên mạn Bắc thăm dò,
    Con xuống Nam...

    THỊ TRINH – Canh cánh nỗi âu lo,
    Bao bất trắc..

    LÃO ĐỒ - Vậy cha đi kẻo muộn,

    (Định vào)

    THỊ TRINH - Hiện thế giặc như triều dâng nước cuộn,
    Cha lưu tâm kẻo tai vách mạch rừng,
    Tin loan truyền chúng khảo xét không ngừng
    Khắp mọi chốn tình nghi là giấu giếm
    Những tài liệu binh cơ và khởi biến
    Của Lê vương từ thuở mới ra quân,
    Không cho ai phải trái nửa lời phân,
    Giết không kể cả trẻ già trai gái,
    Con trộm nghĩ việc quốc gia trọng đại,
    Há nên vì điều nhỏ nhặt chấp nê
    Nào đại cương, nào tiểu tiết đôi bề,
    Cần tính trước...

    LÃO ĐỒ - (Hiểu ý) Con khuyên cha đốt hịch ?

    THỊ TRINH - Ta phải hủy cho không còn tang tích.

    LÃO ĐỒ - Bao công lao cha cẩn trọng giữ gìn,
    (Lắc đầu) Không ! Con ơi, ...

    THỊ TRINH - Con chỉ sợ mua phiền,
    Nếu muôn một...

    LÃO ĐỒ – Hịch này là chí bảo,
    Do chính Nguyễn Trãi tự tay bút thảo,
    Từ núi Lam truyền đi khắp dân gian,
    Từng chữ từng lời gọi kẻ trung can,
    Hãy vì nước kíp đứng lên giết giặc.
    Không thể được!

    THỊ TRINH - Việc chi mà thắc mắc!
    Lòng cha ngay là đủ...

    LÃO ĐỒ – Đủ làm sao?
    Trọn một đời cha ngửa mặt lên cao,
    Không hổ thẹn với đôi vừng nhật nguyệt,
    Không mang tiếng là ươn hèn sợ chết.
    Cha thà làm vong quỷ Ngũ Bồ giang,
    Còn hơn là đốt hịch để quy hàng!
    Con chớ nói thêm!

    THỊ TRINH - (Quỳ xuống) Xin cha miễn thứ.
    Tha tội chết cho thường tình nhi nữ,
    Quá yếu hèn vì lo lắng không đâu,
    Vì thương cha...

    LÃO ĐỒ — Con hãy đứng lên mau!
    Cha đâu chấp!
    (Tiếng vó ngựa xa xa) Vó ngựa nào gấp gấp?

    THỊ TRINH - (Đứng lên)
    Đương ruổi bước dậm dài?
    Hay sóng dập?​
    Hay lau xô?

    LÃO ĐỒ — Cũng có thể giặc Minh
    Đương săn người?
    Cha ra ngóng tình hình,​
    Con trông quán, chờ tin cha quay lại!

    (Vào nhanh)

    (Thị Trinh xếp đặt lại vò, bát trên chõng, vẻ bâng khuâng xa vắng)

    THỊ TRINH – Mật đã ngọt mà thiếu người nâng sải,
    Rượu thơm rồi, chàng chẳng lại cùng em,
    Gió lùa lạnh ngắt áo xiêm,​
    Ngày đơn, quán lẻ vô duyên lạ thường,
    Người đi trắng toát bụi đường,​
    Ngựa phi có vướng mộng hường nơi đây?

    (Bắt một chiếc lá vàng sót lại trên cây trước quán bay vào)

    Lá vàng khóc xuống đôi tay,​
    Hay là lá rụng khóc ngày biệt ly
    Nhớ thương đầm ướt hàng mi,​
    Đường xa dõi tới chàng đi phương nào ?
    Tay ai lấp loáng gươm đao ?​
    Máu ai đầm nhuộm chiến bào đỏ tươi.

    Có một chiều sương lạnh nhất đời,
    Lửa ngàn rung tiếng, gió bay hơi,
    Người xa như thể chia tay hẳn,
    Gượng nảy đường tơ, rỏ nụ cười,

    Chiều nay, người ạ, hết rồi đây,
    Hương hả men nồng, vị nhạt say,
    Khóc hết lời vui, cười cạn lệ,
    Nghe sầu mưa gió giữa bàn tay.

    Bão ở lòng em, bão rất nhiều,
    Đọc qua lời mắt, tiếng tay kêu,
    Bao nhiêu hò hẹn, bao nhiêu nữa,
    Ngắn ngủi như không ở một chiều ?

    Em tìm trong rượu một dư thanh,
    Vẽ vội trong hoa một xếp cành,
    Chỉ có đôi điều không nói được
    Trời ơi! Buồn nhất buổi tan canh !

    Tỉa mãi dò lan, tưới mãi hồng,
    Nhị gầy vắng vẻ bốc đêm không,
    Em chăm ướp mãi tình em ủ,
    Thương nhớ không đi chiếm mãi lòng?

    Em tin con nước hết kỳ vơi,
    Mây đứng im cao, gió lặng trời,
    Tin chắc đò xưa về bến cũ,
    Và ngong ngóng đợi chuyến đò xuôi.

    Văng vẳng lời trong cát bụi mờ,
    Đợi anh em nhé! Ngàn mai trơ!
    Đợi anh có ngựa dong về ngủ
    Lỏng lẻo tay cương, rộng rãi cờ.

    Chàng lại về đây có một mình,
    Trả xong chung hận, bỏ chung tình,
    Yêu em chàng bảo vì em đẹp,
    Nên bụi binh đao vẩn thái bình.

    Bây giờ êm hết cả rồi đây,
    Lửa tắt thành yên loạn tháng ngày,
    Nghỉ tạm đôi giờ cho lại sức,
    Về lòng em ngủ rõ là say...

    (Vẻ cầu khẩn)

    Cầu trời cho dậu heo may​
    Cho chim khô cánh, cho cây rung cành
    Cầu trời cho bụi lên xanh,​
    Người ung dung lối, thù quanh quẩn đường,
    Ghềnh hoang nắng đọng sầu vương​
    Ta là danh kỹ Tầm dương thuở nào,
    Thuyền trăng thổn thức cầm tao,​
    Đợi người viễn khách ghé vào bên khoang...

    ĐẶNG ÍCH – (Ra, cười vang)
    Tiếng ngân nga như thể tiếng chuông vàng!
    Hay! Hay tuyệt!

    THỊ TRINH - (lo lắng) Ngài quá lời khen ngợi.
    Mải bâng quơ không biết ngài đã tới,
    Xin thứ tình...

    ĐẶNG ÍCH – (lại cười vang) Người đẹp chửa nên lời,
    Ta đã coi như tội được tha rồi,
    Hà tất còn phải ân cần thưa gửi!

    THỊ TRINH – Đa tạ đại nhân!

    ĐẶNG ÍCH – Nàng mau hãy nói:
    Cho ta tường câu chuyện xẩy đêm qua.

    THỊ TRINH – Dạ chuyện chi?

    ĐẶNG ÍCH - Chuyện đồn khắp gần xa
    Nàng chưa biết?

    THỊ TRINH – Dạ, bốn bề gió thổi,
    Và sóng sông...

    ĐẶNG ÍCH – (Thăm dò) Có một chàng trẻ tuổi,
    Dung mạo oai nghi, dáng dấp hiên ngang,
    Đeo kiếm trường và choàng áo xanh lam,
    Tới hỏi rượu ở quán này chập tối,
    Đúng thế không?

    THỊ TRINH – Ngài nghi ngờ quá vội!
    Quán bán hàng chuyên đón khách vãng lai,
    Rượu bán lấy tiền có hẹp riêng ai?
    Nhưng người đó quả không hề có mặt,
    Ngài tìm hắn làm chi ?

    ĐẶNG ÍCH - Ta lùng bắt,
    Để đóng gông mang nộp!

    THỊ TRINH - Hắn là ai?
    Có phải chăng một vệ sĩ vô tài
    Bỏ đào ngũ? Hay một tên đạo chích
    Chuyên hoành hành ?

    ĐẶNG ÍCH - Một tên thích khách!

    THỊ TRINH : Sao kia ?

    ĐẶNG ÍCH – Một cành gai sắc rừng lam!

    THỊ TRINH – Ngài định nói là...

    ĐẶNG ÍCH - Một kẻ táo gan,
    Định dùng lực đôi càng châu chấu mảnh,
    Cản bánh cỗ xe Thiên triều dũng mãnh,
    Họp đảng kéo bè trên đất Lam Sơn,
    Tôn phù Lê Lợi làm đấng chí tôn,
    Cùng Nguyễn Trãi ngồi trù mưu tính kế,

    (Vẻ khinh thị)

    Một anh hào trưởng mơ làm hoàng đế !
    Một kẻ hủ nho ngộ nhận quân sư!
    Đội đá vá trời!

    THỊ TRINH – Họ dám vậy ư ?

    ĐẶNG ÍCH - Chúng mua ngựa, trữ thêm nhiều lương thực,
    Tạo tác thời cơ, dưỡng bồi sức lực,
    Giũa vuốt mài nanh trong núi Chí Linh
    Ngầm sai người sang Chiêm quốc chiêu binh,
    Thảo hịch xuất sư, phất cờ khởi nghĩa,
    Toan tính chuyện vá trời lấp bể,
    Chống quân Minh được lệnh sang trừng thanh
    Hồ Quý Ly, tên thoán đạt lộng hành,
    Cướp ngôi báu của nhà Trần bất lực.

    THỊ TRINH – Thưa đại nhân, chúng làm gì có đức?
    Tôi thầm nghe đồn đại đã lâu nay,
    Bọn loạn quân không còn sót mảy may,
    Quân tướng Minh phăng phăng như nước chảy,
    Vó ngựa đến đâu, đầu rơi đến đấy,
    Y như là chùm sung chín lìa cành,
    Còn nảy mầm đâu được nữa mà xanh?
    Hiện chúng ra sao?

    ĐẶNG ÍCH – Cây vẫn còn chưa chết,
    Rễ còn hút đất dâng màu chưa hết,
    Nhựa lên da, mạch sống lại tràn trề,
    Được chúng tiến lên, thua chúng lui về,
    Nay chiếm Nga Sơn, mai sang Lạc Thủy,
    Núi đắp thành trì, sông đào hào lũy
    Đường vào Thanh như vào Thục khác chi !
    Khó khăn thay đường Sạn đạo hu hi!

    THỊ TRINH - Đại nhân tính cách nào ?

    ĐẶNG TÍCH - Phải tìm phương đột nhập,
    Bắt cọp dữ ra khỏi hang cọp nấp,
    Thì mới mong trừ họa lớn nên công,
    Để mai ngày chúng đủ cánh đủ lông,
    Quân Minh bại thì đầu ta cũng đứt,
    Nên phải tính kế vạn toàn chi nhất...

    THỊ TRINH - Thưa kế ra sao ?

    ĐẶNG ÍCH – (Có thâm ý) Nàng muốn biết hay không ?
    Biết để làm chi?

    THỊ TRINH - Nếu ngài quả tin lòng,
    Thân hèn mọn xin phơi gan dãi óc
    Giúp một tay để trừ loài rắn độc,
    Lấy má hồng làm mũi sắc Long toàn,
    Chém đầu quân phiến loạn...

    ĐẶNG ÍCH – (Lập lờ) Để phò an!
    Cứu xã tắc, bền đôi chân ngựa đá,
    Giữ vững âu vàng, nêu cao nghĩa cả
    Của Bình định vương? (Cười vang)

    THỊ TRINH - (Vờ nghiêm mặt) Ngài chớ nên lầm!

    ĐẶNG ÍCH - (Cười vang, lơi lả)
    Thôi vui lòng làm Đặng Ích phu nhân,
    Chớ dại dột đi theo phường Lê Lợi!
    Gác đi chuyện hồng nhan làm khí giới !
    Gái góa đừng lo đến việc triều đình!

    (Sán lại gần)

    THỊ TRINH - (Hoảng sợ, né tránh)
    Thân quê mùa đành cam phận bổ kinh.
    Ngài tha lỗi...

    ĐẶNG ÍCH – Ta tha từ lúc nãy !
    Sát lại gần đây!

    (Định ôm lấy Thị Trinh)

    THỊ TRINH – (Tránh được) Ngài vội vàng chi mấy!
    Dù nữ nhi nhưng cũng đạo cương thường,
    Vả bên trên còn có lệnh nghiêm đường,
    Và hiện tại lại có người lạ mặt,
    E lần khân... (Chỉ tên lính Minh lấp ló ngó ra rồi lại thụt vào)

    ĐẶNG ÍCH – (Vẻ miễn cưỡng) Ta trở về sắp đặt.
    Hẹn cho nàng đúng giờ Tí hôm nay,
    Bàn với cha nàng mọi việc xong ngay,
    Ta quay lại!

    THỊ TRINH - (Hoãn binh) Xin cúi đầu vâng mệnh!

    ĐẶNG ÍCH – (Đe dọa) Nếu cố ý hay vô tình vi lệnh,
    Thì quán này sẽ bị đốt ra tro,
    Đầu Lão Đồ sẽ phơi nắng bến đò,
    Nàng vẫn cứ là phu nhân Đặng Ích!

    (Cười vang rồi vẫy tên lính Minh cùng vào)

    (Trần Bạch ngất ngưởng từ lối bên sông ra)

    THỊ TRINH - Ai lại đó ?

    TRẦN BẠCH – Anh đây !

    THỊ TRINH – Ôi, anh Bạch !
    Không lúc nào anh ngớt được say sưa!
    Em không ngờ...

    TRẦN BẠCH – (Ngăn lại) Cha đã về chưa?

    (Ngửi thấy hơi rượu)

    Ủa! Hơi rượu! (Lục lọi các vò)
    Đâu mà nhiều đến thế?​

    (Bê cả vò rượu lên uống)

    THỊ TRINH - Khoan em nói!

    TRẦN BẠCH –(Không để ý) Chà! Rượu ngon vô kể!
    Uống bao nhiêu lại càng khát bấy nhiêu,

    (Khoái trá hoa chân múa tay)

    Thêm Chiêu Quân và chín đợt Phù kiều,
    Ta sẽ sướng hơn ngàn lần Phiên chúa.
    Thân Huyền Trân nghiêng mình trên nhung lụa,
    Thì mê người gấp vạn đất Ô, Ri.
    Đầu tửu đồ kề mái tóc cung phi,
    Say nên chết giữa trời hoa đất rượu.
    Ôi, hoan lạc !...

    THỊ TRINH – Anh phải sao lo liệu,

    TRẦN BẠCH – Lo chuyện chi?

    THỊ TRINH – Anh nên kíp đi ngay
    Cha sắp về ..

    TRẦN BẠCH– Anh chưa đã cơn say,
    Đi sao được!

    THỊ TRINH – Nhưng không đi không được!

    TRẦN BẠCH – Em đuổi anh?

    THỊ TRINH – Em khuyên anh tránh trước
    Cơn phong ba thịnh nộ của cha già.
    Nếu thấy anh, cha sẽ quyết không tha,
    Vì quá giận..

    TRẦN BẠCH - (Chán chường) Có cần chi sống chết!
    Em cứ mặc anh, để anh dốc hết
    Lớp vò này cho thỏa chí một phen,
    Chờ trăng tròn, anh sẽ lại sang Chiêm,

    THỊ TRINH – Sang Chiêm quốc ?

    TRẦN BẠCH – Còn tiếc chi mà ở?
    Khi sự nghiệp đã hoàn toàn dang dở,
    Tay vấy máu người, mặt lấm bùn nhơ,
    Thân thể buông trôi buổi mới dâng cờ,
    Theo tiếng gọi của rượu nồng gái đẹp.

    THỊ TRINH – Anh biết thế sao không chăm khép nép
    Từ ban đầu ?

    TRẦN BẠCH — Lòng chán mọi việc đời,
    Thú yên hoa đã trót một lần rồi,
    Nên trót mãi..

    THỊ TRINH – Anh nghe em ở lại,
    Đọc sách, tu thân, tìm phương hối cải,
    Nấn ná quanh vùng sống tạm ít lâu.
    Em lựa lời thưa rõ với cha sau,
    Người thương lại chút nào chăng…

    TRẦN BẠCH - Vô ích!

    THỊ TRINH – Em tin chắc cha nghĩ tình ruột thịt,
    Không lẽ nào còn chấp lỗi anh chi.
    Ai cũng hay rằng đánh kẻ chạy đi
    Không ai nỡ lòng đánh người chạy lại,
    Đoái tội lập công.

    TRẦN BẠCH – Cảm ơn cô em gái,
    Thương anh nhiều nhưng thương chẳng bõ phiền.
    Anh bị lâm vào tình thế đảo điên,
    Làm cũng dở mà không làm cũng dở,
    Ở một ngày thêm một ngày đổ vỡ,
    Sao cho bằng đi khuất mắt là xong!
    Em đưa chèo cho anh vượt sang sông!
    Trăng lên cao, tròn trịa, sáng trong
    Đêm đã ngả trên ngàn lau gió vặn,
    Trăng đứng bóng rồi!

    (Cầm lấy mái chèo, Thị Trinh giằng lại)

    THỊ TRINH – Mái chèo này cha dặn
    Không một ai được tự ý mang đi.

    TRẦN BẠCH – Sao lại thế?

    THỊ TRINH – Vì cha ra lệnh thế!

    TRẦN BẠCH - Anh cần lắm! Đưa cho anh!

    THỊ TRINH – Em không thể!

    TRẦN BẠCH – Anh không ở lại đâu!
    Chân voi cuồng chỉ tơ nào buộc nổi?
    Lưới nào giam cánh chim loạn bay mau?
    Để anh đi kẻo lỡ ! Dùng dằng nữa chi lâu ?

    (Giằng lấy mái chèo định vào, lại vội quay lại)

    Tiếng ai chuyện trò ngoài mái quán?

    THỊ TRINH – Và chân ai về trên lối giang đầu?

    (Lão Đồ và Lê Liêm ra. Trần Bạch vội nấp vào sau cột quán. Thị Trinh vào khuất)

    LÃO ĐỒ– (Giọng phân trần) Lão xin thề trên tóc bạc đầu râu,
    Lòng trung trực như gương soi sáng tỏ.
    May tráng sĩ lại tìm về quán cỏ...

    LÊ LIÊM – Ta tìm về để hỏi tội Thị Trinh
    Đã đem ta tố giác với quân Minh,
    Lại giả dạng đóng vai người nữ kiệt,
    Không nhanh trí thì thoát sao khỏi chết,
    Ta tìm về...

    LÃO ĐỒ – Lão thưa hết đầu đuôi,
    Nghe hay không còn tùy ý nơi người,
    Rồi thấu hiểu hay là còn oán hận
    Song sự thực thì xin người hãy nhận
    Sau việc lỗi lầm sót sẩy đem qua,
    Cũng chỉ vì thằng Trần Bạch mà ra,
    Vì nó cả...

    LÊ LIÊM – Ta không nghe biện bạch,
    Khéo ăn vụng nhưng lau mồm chưa sạch,
    Hại người rồi còn đổ vấy cho nhau !
    Hết con đến cha...

    LÃO ĐỒ — Lão dám dâng đầu,
    Nếu quả có thốt nửa lời gian dối.
    Người chờ lão bắt được thằng phản bội,
    Dong vào đây để rửa nỗi bất bình.
    Lưỡi mác cùn lão quyết chẳng dung tình,
    Giết nó trước để triệt mầm phản phúc.

    (Trần Bạch ở sau cột quán lùi vào khuất)

    Cả đêm qua lão chong đèn thao thức,
    Giận cho đời rồi lại tủi cho thân,
    Sớm mai được tin đồn khắp xa gần:
    Người thoát hiểm...

    LÊ LIÊM– Ta hy sinh tuấn mã,
    Buộc lên yên một cành cây xanh lá,
    Rồi ra roi cho ngựa chạy một mình,
    Giặc mơ hồ xô cả gót cuồng chinh,
    Chạy tới tấp về phía sau săn đuổi,
    Còn riêng ta đã liệu từ trước buổi,
    Bỏ miếu hoang ra nội cỏ xem trăng,
    Để đề phòng giặc dõi bóng mò tăm!
    Chút nữa sa cơ...

    LÃO ĐỒ – Người vẫn còn nghi hoặc !
    Đây chỉ có ánh trăng soi vắng vặc,
    Chứng cho lòng ngay thẳng của già thôi.
    Giữa rừng tên bể lửa bốc ngang trời,
    Mạo hiểm đi tìm...

    LÊ LIÊM - Tìm ta để bắt...
    Lãy vạn quan tiền, đèo thêm phẩm trật,
    Ai không thèm và ai lại không mê?
    Dù không tìm ta, ta cũng tìm về,
    Để khen thưởng bằng lưỡi gươm quả báo! -

    (Xốc kiếm)

    LÃO ĐỒ– (Chán nản) Người không tin biết lấy gì đảm bảo!
    Lão đã nói hết lời!... (Chợt nghĩ ra)
    À! Xin hãy chờ đây !​

    (Định chạy vào sau quán thì Thị Trinh bước ra, rút trong một ống tre cầm tay ra một cuộn giấy tròn)

    THỊ TRINH - Thưa cha, đã có sẵn trong tay!

    LÃO ĐỒ − (Đỡ cuộn giấy) Con giỏi lắm: (Với Lê Liêm)
    Đây nguyên văn chính cảo !
    Người đọc lại xem!

    LÊ LIÊM – (Liếc nhìn) Hịch khởi nghĩa Lam Sơn:
    Ấn Lê vương! Chữ quốc công Nguyễn Trãi:
    Có lẽ nào? (Cầm lấy xem kỹ) Đúng rồi! Cụ vẫn giữ được sao?

    LÃO ĐỒ - Tráng sĩ còn nghi ngại ?
    Và vẫn chưa tin?

    LÊ LIÊM – Đâu dám thế! (Trao trả hịch cho Lão Đồ)

    LÃO ĐỒ — Con hãy thắp hương lên!
    Cho trọng thể để cha tuyên hịch!

    (Từ tốn mở cuộn giấy ra. Cuộn giấy dài chảy tuôn xuống mặt đất. Thị Trinh chạy vào mang ra một bát hương bằng sành, đặt lên chõng tre, rồi quỳ xuống. Lê Liêm mặc nhiên cũng quỳ xuống tiếp)

    (Từ trong, tiếng nhạc và chiêng trống nổi lên đệm theo giọng bình hịch trang nghiêm của Lão Đồ)

    Hịch cho sĩ tốt thần dân
    Ta nghe !
    Núi Nùng sông Nhị, mấy nghìn năm từng ghi dấu uy linh.
    Bến Kiếp ải Hàm, trải trăm trận đã mở trường oanh liệt.
    Lệ xưa nay giặc đến tướng ngăn,
    Luật tạo hóa nhân còn bạo diệt.
    Ta nay!
    Sinh chốn hàn môn,
    Mang bầu nhiệt huyết,
    Khinh mạn công danh,
    Kết giao hào kiệt.
    Xếp bút nghiên vùng vẫy với tang bồng,
    Mượn cung kiếm tiêu dao cùng tuế nguyệt.
    Chí làm trai giúp nên nghiệp lớn, lập công to, tiếng thơm dành lại muôn đời.
    Mưu dựng nước xếp bỏ thù riêng, khinh lợi hẹp, danh đẹp lưu về vạn kiếp.
    Buồn thấy họ Trần hà khắc, nướng dân đen trên ngọn lửa cơ hàn,
    Giận cho giặc Hán tham ô, dốc con đỏ bằng lưỡi dao oan nghiệt.
    Đồn lương chứa cỏ, từng chung thề trong rừng núi Lam Sơn,
    Nếm mật nằm gai, quyết rửa nhục cho giống nòi Nam Việt.
    Gươm vung lên mấy độ, trên kể từ Bồ Đằng sắp xuống, chẳng bao ngày đã bặt dấu ấn sài lang,
    Kiếm tuốt thử đôi phen, trong kể từ Khôi huyện tiến ra, hơn mấy tháng quét sạch loài yêu nghiệt.
    Đức mưa xuân nhuần tưới khắp Tây đô,
    Oai sấm sét vang lừng sang Bắc khuyết.
    Ví nếu thực tham quyền cố vị, giá cũng cao gác khói đài mây,
    Lòng chỉ mong dẹp loạn yên dân, từ chẳng nhận bào nhung ngựa tuyết.
    Giận thay!
    Một lũ hủ nho,
    Khéo bày giả thuyết.
    Mưu mọn kế cùn,
    Suy hơn tính thiệt.
    Đầu óc chứa toàn danh lợi, cốt sao vinh được thê nhi,
    Tấm thân vùi xuống bùn nhơ, chẳng chút nghĩ gì khí tiết.
    Căm lũ Trần Cao nông nổi, trong nội đình thảo vội biểu cầu phong,
    Thù bầy Trương Phụ gian ngoan, từ ngoại địa kéo quân sang chém giết,
    Giặc định bụng đem ra cướp nước, cử trăm vạn hùng binh lưỡng Quảng, giả tôn phù vừa qua đóng Long Biên,
    Ta hay tin tức khắc ra quân, với tám ngàn đệ tử Lam kinh, hô "Sát Đát", quyết lăn vào hổ huyệt.
    Nay nhân,
    Trạm đóng Chí Linh,
    Đường qua Vô Thiết,
    Chiếu xuống thông tri,
    Hịch toan truyền biết,
    Trông thấy cảnh sinh tình hớn hở, hoa hoa cỏ cỏ đón tân xuân, vừa gặp buổi minh niên,
    Tưởng tới ai trong dạ ngập ngừng, đó đó đây đây mơ cổ lý sớm trạnh niềm nhai tiết.
    Chén rượu suông gọi đôi chút thù lao,
    Lưng cơm nhạt tạm một giờ an yết.
    Ăn cần phải nghĩ, nên nhớ rõ mười mấy triệu đồng bào khắc khoải, Đông oán Tây hờn,
    Uống chớ quá say, mà quên câu hai ngàn năm nội thuộc than lầm, thủy thân hỏa nhiệt.
    Nào là :
    Việc quân sưu vất vả. phu chục kẻ một thôn, lính ba người một vệ, trẻ già nai lưng gắng sức phục tùng,
    Công thuế má nặng nề, thóc năm thăng một mẫu, lụa hai tấm một tơ, muối rượu mở túi ra tay vơ vét.
    Biết bao cảnh đốt chợ giật vàng, phá nhà cướp bạc, giọt lệ thảm rũa mòn muôn mắt, uất ức căm hờn,
    Kể nhiều phen ven rừng bóc quế, đáy biển mò châu, đống xương cao chất chứa ngang đầu, âu sầu thảm thiết.
    Nhớ rằng :
    Vận quốc gia cùng lắm tắc thông
    Người hào kiệt chớ nên quên biết
    Liều một phen thành bại hưng vong,
    Thề đem giống tham tàn tiêu diệt.
    Lấy xác địch lấp đầy nguồn hận cũ, cho bõ lúc len rừng vượt suối, quản bao công dầu dãi nắng sương,
    Đem máu thù gột sạch vết nhơ xưa, đợi hẳn khi lặng biển trong sông, lúc ấy sẽ tưng bừng yến tiệc.
    Cấy cày nghiệp cũ, sắp sửa lương nhiều gạo sẵn, khắp thôn dân hãy yên dạ làm ăn,
    Còn mất phút này, sắm sanh nỏ cứng giáo dài, các tướng lĩnh phải một lòng kiên quyết.
    Sĩ tốt thần dân:
    Hãy nên tuân biết!
    Nay hịch!
    Bình định vương Lê Lợi

    (Đọc xong, ba người đứng dậy cùng chắp tay vái)

    LÊ LIÊM - (Từ tạ với Lão Đồ)

    Lòng lão trượng như sông dài biển rộng,
    Chứa mênh mang muôn con nước trôi về,
    Không chấp vãn sinh thô lậu chân quê,
    Thiếu suy xét vội buông lời xúc phạm.
    Nay được thấy tấm trung kiên quả cảm,
    Khinh hiểm nghèo, vẫn cẩn trọng giữ gìn
    Ở trong nhà vật quốc cấm lưu truyền...

    LÃO ĐỒ – Tuy quốc cấm nhưng lại là quốc bảo.
    Tưởng bá đạo mà chính là vương đạo,
    Nên thân già dù nát thịt tan thây,
    Cũng không hề buông lỏng khỏi bàn tay,

    LÊ LIÊM – Như tên lính tiên phong trên hàng trận
    Thân đã ngã mà lòng chưa nguôi giận,
    Mắt mở trừng trừng, giáo chặt tay cầm,
    Dây cảm thông buộc chặt giải đồng tâm,
    Lòng hướng nghĩa xin vẹn toàn sau trước.

    (Nhìn ra ngoài trời đêm)

    Đêm đang vợi mà ngàn trùng sông nước
    Còn cách xa biền biệt mấy bờ trăng,
    Nhiệm vụ nửa chừng, tình thế đương căng,
    Liệu có thể qua sông trong chốc lát ?
    Hay phải đợi ?

    THỊ TRINH – Đò vẫn nằm bến cát,
    Cha nên đưa tráng sĩ vượt sang ngay,
    Chèo nương trăng khua xế bóng non Tây,
    Chỉ chớp mắt sẽ cập bờ Chiêm quốc,
    Con ở lại đề phòng khi biến cuộc.

    LÃO ĐỒ - Lên đường thôi, tráng sĩ!
    (Tiếng nhạc ngựa xa xa) Tiếng nhạc ngựa mơ hồ !

    LÊ LIÊM - Nương tử nghe xem !

    LÃO ĐỒ - Ta hãy tạm chờ!
    Xem động tĩnh...

    THỊ TRINH – (Nhớ ra) Có lẽ là Đặng Ích,
    Buổi hoàng hôn tới quán này hách dịch
    Hỏi ngược xuôi rồi giở thói trăng hoa,
    Khi ra về còn dọa lúc trăng tà,
    Quay lại bắt con đi...

    LÊ LIÊM – Loài vô sỉ!
    Tha sao được ! (Rút kiếm)

    LÃO ĐỒ – (Ngăn lại) Nóng làm chi tráng sĩ !
    Lẽ tới lui phải khuất lúc thân cô !
    Sách có chữ rằng :"mãnh hổ nan địch quần hồ",
    Ta thế yếu nên tình ta diên bái,
    Nhưng vận hội đổi rời, cơ thắng bại
    Nắm trong tay.
    "Hữu thịnh tất hữu suy"​
    Việc cấp rồi, người không thể vội đi !
    Đi là chết !
    Hãy nghe già hoãn lại!​
    Chờ thời cơ...

    LÊ LIÊM - Xin tuân lời lão mại.
    Vậy bây giờ ?

    LÃO ĐỒ - Người hãy tạm tránh đi!
    Bởi tránh voi cũng chẳng xấu mặt chi!
    Đúng đêm mai, vào lúc trăng nhạt điệu,
    Sẽ đón người ở ngoài Giang thần miếu.

    (Tiếng người ngựa lại gần)

    Người đi thôi ! Quân địch sắp lại gần !

    LÊ LIÊM - Lời ngọc vàng ghi để dạ ân cần,
    Xin bái lĩnh và cúi đầu tạm biệt !

    (Vào nhanh lối bến sông)

    THỊ TRINH— Giặc tới rồi! Cha tính sao ?

    LÃO ĐỒ — Cuộn hịch lại cho cha! (Đưa hịch cho Thị Trinh)

    THỊ TRINH – (Cuộn hịch)

    LÃO ĐỒ— Đốt cho hết là xong ! (Chạy vào mang ra một cây đuốc)

    THỊ TRINH — Thưa cha sắp hết mọi vòng !

    LÃO ĐỒ - (Đốt quán)
    Reo lên ! Hỡi ngọn lửa hồng !​
    Cháy lên ! Ơi hỡi muôn lòng nguội tanh!

    (Lửa bốc cháy đùng đùng, Lão Đồ cười ha ha, Đặng Ích cùng tên lính Minh xô ra, đứng sững kinh ngạc)

    Tắt đèn
     
    Chỉnh sửa cuối: 21/3/24
    amylee and nhan van like this.
  3. huytran

    huytran Lớp 5

    CẢNH 3​


    Không gian : Giang thần miếu.
    Thời gian : Nửa đêm về sáng hôm sau.

    Miếu dựng bên sông Ngũ Bồ, vẻ cô tịch âm lạnh. Tường miếu long lở từng mảng, trơ những hòn gạch vồ đỏ chín vì nung già lửa. Vôi trắng đã ngả sang màu xám bẩn. Mái ngói xô lệch, gió bóc đây đó một vài hòn, Cùng miếu là bệ thờ xây gạch. Trên bệ, một bát hương sành lớn với tro, chỏng chơ mấy chân hương cháy lụn, một cây bạch lạp nến cháy, phật phờ. Trên cao, một tấm hoành phi thiếp mấy hàng chữ nho "Ngũ Bồ thổ thần linh vị". Bên trái lối thông ra sau miếu sâu hút, thấp thoáng lau lách ven sông. Bên phải tường miếu, một khung cửa chữ Thọ bằng men sứ màu xanh lam.

    (Đêm sâu, gió rít từng hồi. Từng đợt, tiếng sóng sông vọng vào nghe như tiếng mưa rào trút nước ào ào, Ánh trăng sáng sau khuôn cửa trống và khuôn cửa sổ chữ Thọ, rọi vào nền miếu những luồng trắng mơ hồ bí mật).

    (Lão Đồ và Lê Liêm đương nói chuyện. Lão cầm mác trong tay. Cái mái chèo dựng trước bệ thờ)

    LÊ LIÊM – Xin lão trượng kể ngọn ngành câu chuyện,
    Khi vãn sinh rời khỏi quán ra đi,
    Phóng lửa rồi...

    LÃO ĐỒ – Giặc ập đến tứ vi
    Chúng định bắt nữ nhi và giết lão,
    Tay mác tung hoành giữa trời giông bão,
    Thu tàn hơi lão mở một đường sinh,
    Phần che con, phần chống đỡ thân mình,
    Đã có lúc tưởng cơ hồ muốn gục,
    Mắt nảy hoa và chân tay chùng khúc,
    Mồ hôi tuôn như suối dội vai già,
    Thì bỗng đâu giữa muôn đợt sáng lòa,
    Lão thấy rõ bóng Lê vương nghiêm nghị,
    Áo vải đơn sơ, vành khăn giản dị,
    Song vẻ đường hoàng lẫm liệt vô ngần.
    Người chống gươm đứng lặng giữa ba quân,
    Mắt nhìn thẳng mà hóa ra nhìn lão.
    Đôi mắt người ! Ôi, muôn vàn kỳ ảo!
    Chiếu long lanh như thương xót nỗi đời,
    Như căm thù, như thúc giục tình người,
    Như đem lại tất cả niềm tin tưởng.
    Lão cảm thấy sức tăng lên vô lượng,
    Lưỡi mác đi như gió cuốn lá vàng,
    Xác thù lăn trên mặt đất ngổn ngang
    Máu tuôn đẫm dưới gót chân nóng hổi.
    Rồi giữa lúc trận tiền đương bối rối,
    Lão lách khỏi vòng gươm giáo tơi bời,
    Quanh quất nhìn mới biết lạc con rồi,
    Nhưng tình thế không thể nào trở lại.

    LÊ LIÊM – Ân hận quá!

    LÃO ĐỒ - Chỉ thương con phận gái
    Biết khỏi sa hàm hùm sói hay không

    LÊ LIÊM – Vãn sinh xin đi lùng khắp Tây Đông,
    Tìm nương tử...

    LÃO ĐỒ– Cả một ngày lận đận,
    Bặt tin con nên lão đành ôm hận,
    Quay về đây mời tráng sĩ quá giang.

    LÊ LIÊM – (Nhìn ra ngoài trời, ngập ngừng)
    Đêm chưa vội tàn, giờ phút sang ngang
    Còn lui được...

    LÃO ĐỒ - Tưởng không nên chậm trễ!

    LÊ LIÊM - Ơn nương tử hằng coi như trời bể,
    Bỏ mà đi trong hoạn nạn ưu phiền,
    Lòng riêng vãn sinh áy náy không yên.

    (Vỗ đốc kiếm)

    Cụ cho phép lưỡi kiếm này được tuốt,
    Mang tài hèn báo đền trong muôn một
    Nợ ân tình...

    LÃO ĐỒ – Lòng nghĩa hiệp vô cùng !
    Nhưng tình riêng không xếp trước tình chung,
    Việc nhà sau việc quốc gia lo trước.
    Lão yêu con nhưng con không bằng nước,
    Người vì tư nhưng tư phải nhường công.
    Nếu nữ nhi có gặp bước long đong
    Mà tuẫn tiết cũng coi là đích đáng.
    Một viên gạch đắp chung vào nền tảng
    Cho đài thiêng non nước vững vàng thêm.
    Gương anh thư sẽ chói lọi muôn niên,
    Không hồ tiếng thơm: lân nhi hổ phụ,
    Là lưu danh mà không là lưu xú.
    Người phải gấp tìm đồng chí kiên trung ?

    (Cảm khái)

    Giang sơn gặp lúc vận cùng,​
    Cháu tiên hóa cú, con rồng hóa giun
    Anh hùng thao túng càn khôn​
    Xanh dời cây cỏ, vững hồn núi sông.

    LÊ LIÊM – (Đầy hào khí)
    Vào nguy ra hiểm như không,​
    Đòi người phải trả núi sông cho mình
    Mênh mông vó ngựa trường chinh,​
    Tóc bay mà bão, áo xanh mà rừng,
    Mộng trai xây ngợp mấy từng,​
    Hẹn ngày mai buổi trùng phùng hôm nay.
    Lời người thức tỉnh cơn say,​
    Xin ghi...

    LÃO ĐỒ – (Nhìn ra ngoài trời)
    Trăng ngả về Tây tà tà.​
    Ngồi đây tráng sĩ chờ già,
    Chạy ra ngoài bến xem qua tình hình

    LÊ LIÊM - Thưa vâng.

    LÃO ĐỒ - Ở lại một mình,
    Người đừng rời miếu, e thành dở dang.

    (Vào nhanh)

    (Lê Liêm đến trước bệ phật, nhìn ngọn bạch lạp; trầm ngâm)

    Nến hoa giọt giọt hoen vàng,​
    Nghe như dòng nước mắt nàng tuôn rơi,
    Có bao giờ nữa, em ơi!​
    Bài thơ họa, rượu rót vơi lòng sầu?
    Ta về đâu? Em về đâu?​
    Chia tay mà chẳng chia nhau ngậm ngùi.
    Nghìn xưa ai đã tiễn ai?​
    Giờ đây trơ lại một người ra đi!
    Trọn đời cười mãi lưu ly,​
    Giờ đây ngồi khóc phân kỳ cho cam!
    Muốn dừng đây gót chinh an,​
    Phong trần đổi lấy một làn tóc xanh.
    Sao đây thiếu một hoàng thành,​
    Cho nàng chiếm ngự mới đành lòng ta?
    Chìm chân trong khóe thu ba,​
    Thuyền hồn đắm khúc hàm ca mơ màng.
    (Nửa đời sương gió ngang tàng,​
    Trái tim mềm chỉ vị nàng đấy thôi!)

    (Vỗ kiếm hát)

    Ta là trai thời loạn,
    Buông vai cày từ thuở gió khơi vơi,
    Rời hàng tre thân yêu xanh biếc,
    Dửng dưng rũ gấm lụa đời,
    Áo hào hoa bụi đường phiêu bạt,
    Thép mài trăng lạnh ngắt hồn trai!

    Nàng là cô bán quán,
    Tự hào đẹp nhất trần ai,
    Ngăm ngăm nâu lên mầu áo vải,
    Tóc dài buông xõa đôi vai,
    Đưa mái chèo hồ khoan (chừ) khuấy trời chọc nước,
    Mượn lau thưa (chừ) làm nổi gió liễu Chương đài.

    Ta quán thời danh sĩ,
    Nàng nhất thế hoa khôi,
    Đôi ta gặp nhau trong gian lều cỏ,
    Đôi ta hẹn nhau một kiếp xa xôi,
    Ta ngủ lòng nàng (chừ) vầy làn suối tóc,
    Nàng uống hồn ta (chừ) ru ánh mắt ngời,
    Một phút giao tình (chừ) ngàn năm cách biệt,
    Nửa đời hồ hải (chừ) thù hận chưa nguôi.

    Sao ta gặp nàng?
    Sao nàng quen ta?
    (Chừ) ta nhớ nàng hay ta nhớ ai?
    Nàng đi đâu mà đêm nay chẳng lại ?
    Nàng về đâu mà lẻ lẻ bóng trăng soi?
    Em ơi! Tám hướng mười phương nhớ!
    Không nhớ em thì biết nhớ ai?

    Lệ ta chan chứa hơn đời,​
    Áo xanh đầm ướt thẹn người Giang châu.

    (Băn khoăn)

    Nếu rồi đây phải mãi mãi xa nhau,
    Nàng hẳn tưởng ta quên tình đồng điệu,

    (Lại trước tường miếu)

    Chi bằng mượn kiếm thích lên tường miếu,
    Vết tâm thương gói ghém một đôi vần,
    Gửi cho nàng và cho cả thế nhân,
    Để biết rõ lòng ta si đến độ.

    (Dùng mũi kiếm thích lên tường miếu một bài Đường luật)

    Buổi ấy lên đường có một thân,
    Lối sang Hời đôi ngả phân vân,
    Nàng mơ Đát Kỷ xô hung Trụ,
    Ta mộng Kinh Kha giết bạo Tần,
    Nửa nụ cười xuân muôn chiến sĩ,
    Ba nghìn tân khách một giai nhân,
    Thiếu bao đưa đón lòng không thiếu,
    Chỉ thiếu một người đi tiễn chân.

    Nghìn sau ai có một lần,​
    Qua đây dừng gót phong trần đọc thơ,
    Cười rằng có kẻ ngẩn ngơ,​
    Ngồi trên mình ngựa còn mơ về nàng...

    (Cười vang hào hứng)

    Trăng trên cổ miếu thêu vàng.​
    Sóng sông không dậy được làn thu ba,
    Em ơi! Chẳng đến cùng ta,​
    Đời còn vắng mãi đến già chưa thôi...

    (Lo lắng)

    Hay nàng đã gặp nạn rồi?​
    Mình ta đâu lẽ yên ngồi cho đang!

    (Quyết định)

    Sang ngang hay chẳng sang ngang,​
    Phải tìm cho gặp mặt nàng mới nghe !

    (Lao ra ngoài miếu. Miếu vắng, vang vọng tiếng sóng sông ì uồm, và tiếng gió ù ù trên mái rêu phong. Đặng Ích và tên lính Minh xô ra, Trần Bạch loạng choạng bị đẩy vào trước)

    ĐẶNG ÍCH- Ngươi dám đánh lừa ta !

    TRẦN BẠCH −(Vẫn đương cơn say) Tôi dám xin thề:
    Hắn có mặt nơi đây!

    ĐẶNG ÍCH- Ngươi liệu xác!
    Nếu không có chớ trách ta độc ác !
    Nào chúng đâu?
    Mau kíp chỉ cho ta!​
    Đã hai lần ngươi lẻo miệng ba hoa,
    Nói hươu vượn để thỏa thuê uống rượu.
    Cả hai lần đều toàn là chuyện phiệu!
    Vây miếu hoang ta đã tốn bao công,
    Lại đến lần vây quán cũng tay không !
    Ta nén giận để cho ngươi chuộc tội.
    Nào, chúng đâu?

    TRẦN BẠCH − (Nhìn ngó quanh) Dạ...

    ĐẶNG ÍCH – Thêm một lần nói dối!
    Để ta thêm vất vả...

    TRẦN BẠCH - Thưa Đặng đại nhân,
    Trước khi đi tôi nấp lại trong sân,
    Nghe rõ cả lời cha tôi căn dặn
    Tên áo xanh, rằng lúc trăng chưa lặn,
    Sẽ chờ đây để tìm lối sang Chiêm
    Nhất định là...

    ĐẶNG ÍCH – Đừng giả dại giả điên !

    TRẦN BẠCH – Ngài để tôi tìm khắp nơi lần nữa!

    (Tìm quanh, nhìn thấy bài thơ trên tường)

    Nét kiếm ai lôi thôi trên mặt vữa?
    Đúng là của tên quốc phạm đây rồi!

    (Dụi mắt, cố đọc)

    Ôi! mắt mình sao trông một hóa hai?
    Chi đấy nhỉ?
    (Với Đặng Ích) Thưa đây là chứng cớ,
    Chữ hắn viết, tôi đoan rằng vẫn nhớ
    Từ xửa xưa...
    Khi tôi chửa biết ngài,​
    Chính hắn đến đây từ khoảng canh hai,
    Ngồi đợi phút thuyền thuận buồm xuôi gió,
    Buồn nên vạch lăng nhăng dòng chữ nọ,
    Chữ giống con tôm, chữ hệt con trai,
    Nét chữ loằng ngoằng đã thiếu lại sai.
    Ngả ngả nghiêng nghiêng, liểu đà liểu điểu.
    Hàng lệch hàng xiên, rõ thằng nát rượu..
    Nhưng lúc này có lẽ đã ra sông
    Cùng với cha tôi...

    ĐẶNG ÍCH – Có đúng thế không?

    TRẦN BẠCH – Chắc như cua gạch !

    ĐẶNG ÍCH –Vẫn cái trò bịp bợm !
    Ngươi lừa ta nghĩa là người trắng trợn
    Đi hùa theo quân thảo khấu rừng Lam,
    Bày kế mưu cho chúng thoát cũi giàm.
    Còn dám lấy vải thưa che mắt thánh!

    (Tuốt gươm)

    Ta cắt đầu ngươi để nghiêm quân lệnh,
    Làm gương cho quân phản phúc sau này :

    TRẦN BẠCH -Ôi! Ngài nỡ nào?

    ĐẶNG ÍCH-Quân phản bạn lường thày !
    Ong tay áo, rắn trong nhà sinh chuyện!

    TRẦN BẠCH – Ngài tha cho!
    Tôi dẫn ra ngoài bến,...​
    Khúc sông trên để ngài kịp đón đầu,
    Nếu lần này...

    ĐẶNG ÍCH – Ta không mượn ngươi đâu,
    Cũng thừa biết cách chia quân án ngữ.

    (Hất hàm ra hiệu cho tên lính Minh rút mã tấu chém Bạch. Bạch vừa chạy vòng trong miếu vừa kêu van)

    TRẦN BẠCH – Xin ngài tha cho tôi!

    ĐẶNG ÍCH — Lời ta là xử tử?

    TRẦN BẠCH – Ngài mở lượng biển trời!

    ĐẶNG ÍCH – Nói thêm thừa vì ta thích giết ngươi!

    (Trần Bạch chạy vào lối cửa miếu. Tên lính Minh vọt theo ra. Tiếng Bạch kêu thất thanh, rồi tên lính Minh quay ra gật đầu với Đặng Ích, lau lưỡi mã tấu vấy máu vào vạt áo. Đặng Ích vẫy tên lính Minh cùng vào)

    (Thị Trinh rón rén ra)

    THỊ TRINH - Đêm sắp tàn canh, trăng vàng đã ngả
    Như góp cả mùa đông trên ngõ lá,
    Gót phiêu linh chàng dạt đến nơi đâu,
    Ta không ngờ khi tới chốn giang đầu,
    Lại chẳng gặp người yêu trong phút cuối.
    Nghe sương rụng tưởng chân người dò lối,
    Tưởng bóng người đương rảo bước về đây,
    Hiên ngang đưa trên lối cỏ hoa gầy

    Chàng không lại hay là chàng đã lại ?
    Trong hoang tịch đã gắng chờ ta mãi
    Không thấy ta nên đã phải sang sông.

    Chao ơi! Chua chát vô cùng!​
    Ngẫm cho một kiếp tao phùng mà thương.

    (Nhìn bài thơ trên mặt tường)

    Bài thơ ai viết mặt tường ?​
    Phải lời ly biệt mà chàng vội ghi ?

    (Ngâm lại)

    Buổi ấy lên đường có một thân,
    Lối sang Hời đôi ngả phân vân,
    Nàng mơ Đát Kỷ xô hung Trụ
    Ta mộng Kinh Kha giết bạo Tần,
    Nửa nụ cười xuân muôn chiến sĩ,
    Ba nghìn tân khách một giai nhân,
    Thiếu bao đưa đón lòng không thiếu,
    Chỉ thiếu một người đi tiễn chân...

    (Thẫn thờ, nước mắt chứa chan)

    Cố nhân đã lỡ cố nhân,
    Long lanh nước mắt đôi vần sầu thương,
    Mình em đối bóng đêm trường,
    Oán ra cửa miếu, hờn vương sông dài....

    (Lão Đồ ra, tay cầm mái chèo, tay lau nước mắt)

    THỊ TRINH — Cha đã lại, sao người không cùng lại .
    Người đi đâu? Hay bị thù hãm hại?
    Hay thuận đường đã vượt sóng sang Chiêm ?

    LÃO ĐỒ - Người có đây, vạn sự được bình yên.

    THỊ TRINH – Nhưng sao vẻ cha buồn rầu thảm hại?
    Vạt áo dây vết máu đào nhễ nhại ?
    Mái chèo vương đầy đất ướt trong tay?
    Dáng bơ phờ như có chuyện không hay.
    Phải chăng bến Ngũ Bồ giang bị nghẽn?
    Thuyền bị dìm và người đi không vẹn?

    LÃO ĐỒ – (Nghẹn ngào, lau nước mắt) Anh con mất rồi!

    THỊ TRINH – Trời! Anh Bạch làm sao ?
    Ai hại anh con và ở nơi nào?
    Bao giờ thế ?

    LÃO ĐỒ – Ở đằng sau lối miếu.

    THỊ TRINH – Anh Bạch ơi! (Định chạy vào)

    LÃO ĐỒ – (Ngăn lại) Đi lại nhiều lộ liễu !
    Con đừng ra !

    THỊ TRINH – Nhưng thương xót anh con!

    LÃO ĐỒ — Cha đã dùng chèo đào huyệt để chôn,
    Đắp cao đất, dựng tre làm mộ chí,
    Cha nhớ mãi trước phút giờ tắt nghỉ,
    Trong tay cha, anh con nấc từng cơn,
    Ôm vết thương, dòng máu chảy như tuôn,
    Cố gắng sức mở mắt nhìn chòng chọc,
    Dòng lệ xối tràn mi...

    THỊ TRINH – Anh con khóc?

    LÃO ĐỒ - Khóc như hồi tóc còn bỏ trái đào,
    Còn vui đùa đuổi bướm, bắt trăng sao,
    Rồi trối lại...

    THỊ TRINH - Hẳn những lời oán trách?
    Và hờn giận?

    LÃO ĐỒ — Không! Anh con bộc bạch,
    Hối hận là quá dại chẳng nghe cha,
    Quên lãng quốc thù, vui thú trăng hoa,
    Muốn quay lại nhưng bốn bề vướng mắc,
    Lúc quá bước đã đâm đầu theo giặc,
    Tưởng không đâu hóa đeo nhục muôn đời,
    Tỉnh cơn mê toan trốn biệt sang Hời,
    Vùi nốt thân danh trong vò rượu lớn...
    Bên gái đẹp…

    THỊ TRINH – Thực là đi quá trớn!
    Rồi sao cha?

    LÃO ĐỒ - Khi đã mắc vào tròng,
    Ở không xong mà đi cũng không xong,
    Chơi dao sắc tất có ngày dao cắt,
    Như múi chanh cứ ra công giặc vắt,
    Vắt kiệt rồi ném bã xuống bùn tro,
    Giặc giết anh con, tránh nỗi âu lo,
    Khi đã biết hết mọi điều cần biết.
    Chim hết bẻ cung..

    THỊ TRINH - Nỗi đau tâm huyết!
    Con sẽ trả thù nếu cơ hội đến tay !

    LÃO ĐỒ— Cha giận anh con từ đã lâu nay,
    Định hỏi tội nhưng không ngờ thấy thế,
    Cha động lòng thương bùi ngùi xiết kể,
    Nói chẳng nên lời, nước mắt đầm đìa,
    Tự nhủ lòng: thôi cũng để làm bia,
    Cho hậu thế soi chung mà học lấy.

    THỊ TRINH - Cha biết anh con đâu mà tìm thấy?
    Hay tình cờ bắt gặp?

    LÃO ĐỒ - Ở bến sông về,
    Cha vừa men xuống khỏi dốc chân đê,
    Bỗng sau miếu vẳng tiếng người rên rỉ,
    Thoạt đầu tiên ngỡ hồn ma bóng quỷ
    Hiện lên trêu, nhưng lúc tiến lại gần,
    Thì chao ôi! Cha bủn rủn tay chân,
    Trông thấy rõ anh con đương quằn quại,
    Trên vũng máu. Cha vội vàng mê mải
    Ôm vào lòng..

    THỊ TRINH – Thê thảm quá đi thôi!
    Con vẫn tâm tâm niệm niệm một lời,
    Xin cha thứ cho anh con lầm lỡ,
    Chưa có dịp thì nổi trời giông tố.
    May phút lâm chung, cha gặp anh con,
    Được cha thương và đắp điếm vuông tròn,
    Hồn anh chắc ngậm cười nơi chín suối.
    Con cũng yên lòng.

    LÃO ĐỒ − (Nhìn ra ngoài trời) Đêm xiêu canh vợi!
    Phải đi thôi! (Chợt nhớ ra)
    Lê tráng sĩ đâu rồi?​

    THỊ TRINH – Người không có đây

    LÃO ĐỒ – Cha đã dặn người
    Chờ cha lại...

    THỊ TRINH - Con đến từ lúc nãy,
    Để ý trông tìm, tuyệt vô không thấy
    Bóng hình người !

    LÃO ĐỒ – (Lo lắng) Người đã chẳng nghe cha,
    Bỏ đi tìm và quyết cứu con ra,
    Nếu lâm nạn... (thở dài)
    Cơ sự này, lại hỏng !​
    Trăng sắp lu rồi, sương khuya ngưng đọng,
    Vừng kim ô khoảnh khắc sẽ nhô vàng,
    Thì không thể nào tính chuyện sang ngang |

    (Bóng Lê Liêm thấp thoáng sau khuôn cửa ngoài)

    THỊ TRINH - Kìa! Lê tráng sĩ!

    LÊ LIÊM (Ra) Tôi về đây!
    Nương tử !​
    Mừng cho nàng được an nhiên vô sự.

    (Từ tạ với Lão Đồ)

    Mạn phép người rời khỏi miếu đôi giây,
    Để nghe tin và tiện thể trông mây,
    Xem phong vũ…

    LÃO ĐỒ – Lão đã lo sốt vó !
    Giờ điểm rồi, thuyền sẵn sàng xuôi gió,
    Chở người đi làm phận sự quốc gia,

    (Với Thị Trinh)

    Con ở đây để cha tiễn người ra,
    Đưa tắp qua sông trước khi sáng tỏ.
    Ta đi thôi!

    LÊ LIÊM - (Giữ lại) Lão trượng chưa biết rõ
    Đường sang Chiêm hiện bị tắc rồi ư?

    THỊ TRINH - Tin đó ở đâu?

    LÃO ĐỒ - Chuyện thực hay hư ?

    LÊ LIÊM – Có kẻ báo cho quân thù biết trước
    Nên trên dưới khắp đầu sông bến nước,
    Chúng bủa canh phòng cẩn mật vô chừng,
    Thoảng gió đưa qua, động tiếng sóng lừng,
    Muôn tên vút như mưa đan chi chit,
    Trên mặt đê, quân dàn ra kín mít,
    Lửa rực trời, xô xát tiếng gươm đao,
    Sát khí bừng bừng át ánh trăng sao,
    Đứng tề chỉnh như sắp hàng xuất trận,
    Ta phải đi nhưng ta nên cẩn thận.

    LÃO ĐỒ – Lão ở bến về có thấy chi đâu!
    Vắng ngắt một vùng…

    LÊ LIÊM – Cách đó không lâu,
    Chúng kéo đến thì cụ đi vừa khuất.

    THỊ TRINH – Cơ sự này khéo không thuyền bị mất
    Thì lấy chi...

    LÃO ĐỒ — Thuyền cha dấu một nơi,
    Tuy hững hờ nhưng không dễ mấy ai
    Tìm ra nổi...

    LÊ LIÊM - Nằm trong vùng địch đóng,
    Dù giữ được cũng coi là vô dụng.
    Thế giặc đương như nước cuốn triều dâng,
    Lửa cháy đầu nhà, nước láng đến chân,
    Đều cùng khó cả đôi đường tiến thoái.
    Thà xông lên còn có cơ thắng lợi,
    Hơn lui về nắm cái chết mười mươi

    THỊ TRINH - Cha tính cách nào?

    LÃO ĐỒ – - Cha nghĩ ra rồi!

    LÊ LIÊM – Một diệu kế ?

    LÃO ĐỒ – Phải một phen mạo hiểm,
    Đột nhập vòng vây, mò ra ngoài bến,
    Lấy trộm thuyền rồi dong nhẹ về đây,

    LÊ LIÊM - Thực vạn nan!

    LÃO ĐỒ - (Cười quả quyết) Cả một giải sông này,
    Đối với lão như một người thân thuộc,
    Đâu là lòng sông, đâu là mép nước,
    Khúc nào chìm khuất, khúc nào quanh co,
    Nhắm mắt vào lão cũng chở được đò.

    THỊ TRINH - Giữa lúc hiểm nguy một còn một mất,
    Dù thông thạo cha cũng đừng khinh xuất.

    LÃO ĐỒ – Cha biết rồi.

    LÊ LIÊM - Lời nương tử chí tình.
    Vãn sinh cũng mong lão trượng giữ mình,
    Vì sinh mệnh nối liền cùng sinh lộ.
    Việc bất trắc...

    LÃO ĐỒ - Sống chết là vận số.
    Tráng sĩ chờ đây xem lão ra tay,
    Dập bã trầu là thuyền chở về ngay.

    (Dặn dò)

    Vậy khi nghe thoảng chơi vơi khúc hát,
    Nhịp giậm đò đưa trên làn sóng bạc:

    (Hát điệu đò đưa)

    Hò ai ơi! Ới ai ơi!
    Bước chân xuống đò chân giậm nhịp ba,
    Trách cô hàng trước ở ra đôi lòng...
    Người đã nhớ chưa?

    LÊ LIÊM - Ám hiệu cụ trao cho
    Tôi đã nhớ.
    Song có điều hơi khó...​

    LÃO ĐỒ – (Hiểu ý Lê Liêm muốn nói gì)
    Đằng sau miếu có lối đi nho nhỏ,
    Giữa ngàn lau thông ra đến bờ sông,
    Nơi đôi bờ Chiêm Việt rộng mênh mông,
    Lối bí mật nên giặc không kiểm soát,
    Ta qua đó chắc mười phần sẽ thoát.
    Lão đi đây! (Vào nhanh)

    LÊ LIÊM - (Tiến theo, rồi quay lại với Thị Trinh vẻ xúc động)

    Lại còn gặp được nhau!​
    Tưởng riêng mình thêm đau chuyện bể dâu,
    Khi trần thế đã mịt mù cát bụi,
    Trăng nguyện ước lồng ánh trăng hờn tủi,
    Bóng người đi lồng bóng miếu trông chờ,
    Bờ khuya cỏ tối hoang sơ,
    Tường con hiu quạnh, bài thơ lạc vần,
    Thấy đây mừng rỡ bội phần,
    Mà lòng luống những tần ngần chưa thôi...

    THỊ TRINH – Trong cơn đất lở đá rời,
    Vội tìm đến miếu, bóng người vắng tanh,
    Ngửa nhìn nét kiếm tung hoành,​
    Vần thơ nhất biệt mà thành thiên thâu...
    Lã chã đôi hàng châu,
    Không biết mình đã khóc,
    Nghe tiếng nấc dồn mau,
    Mới hay mình thổn thức,
    Tưởng chàng đi đã lâu,
    Không hẹn giờ tái ngộ,
    Phút cuối không gặp nhau,
    Trời đôi phương khắc khoải,
    Chua chát mà khổ đau,
    Tình ta tuy mới nhóm,
    Nhưng chép muôn vạn câu,
    Nguyện cầu trong tâm ý,
    Chàng vượt khỏi sông sâu.
    Não người ở lại bên này bến,
    Phơi phới sương buông ướt mái đầu....​

    LÊ LIÊM - Liễu bồ gặp bước cơ cầu,
    Dung nhan nhường cũng có màu kém tươi,
    Ngày mai nơi quê người,
    Hướng lòng về đất cũ,
    Thương nàng dạ bồi hồi,
    Thân trai bọc da ngựa,
    Có kể chi đổi rời!
    Múa kiếm làm giông bão
    Mắt nhằm hờn chưa nguôi,
    Nâu sồng nơi dân dã,
    Biết có khỏi lạc loài ?
    Khi đất bằng sóng dậy,
    Cành hương đành tả tơi,
    Biết tìm đâu cho thấy?
    Năm tháng rộng, đường dài...
    Buông cương dừng mãi bờ mây gió,
    Ngựa tía rung bờm hí bóng ai?
    Chia phôi này thật chia phôi,​
    Vinh quang lại chẳng cùng người vinh quang.

    THỊ TRINH – Lòng em theo với lòng chàng,

    LÊ LIÊM – Lòng tôi hòa với lòng nàng từ đây,
    Nếu mai ngày nơi góc bể chân mây,
    Nàng có nhớ đến tình ta hiện tại,
    Xin giữ lấy ở bên mình mãi mãi
    Túi gấm này là tặng vật làm ghi!

    (Rút một túi gấm trong mình trao cho Thị Trinh)

    Có lời phụ thân phút cuối ra đi,
    Cắn máu ngón tay viết lên lụa trắng:
    "Nợ nước thù nhà hai vai gánh nặng,
    Sống làm sao cho xứng bậc tu mi"
    Buổi non sông che rợp bóng tinh kỳ,
    Nơi quân nghĩa dựng cao đài chiến thắng.
    Cơ hội ngộ không xa...

    THỊ TRINH – Tình thêm nặng,
    Nghĩa thêm sâu! Một chết cũng không rời!

    (Vốc một nắm đất trên nền miếu trao cho Lê Liêm)

    Đây nắm đất con tiên tổ muôn đời,
    Chàng giữ lấy khỏi quên tình đất nước,
    Đất nước còn, không còn em vẫn được,
    Đất nước không, em có cũng bằng không.
    Chàng vì em..

    LÊ LIÊM – Xin cảm tạ ơn lòng,
    Đã nung chí người trai thêm phấn khởi.

    (Mơ màng theo một viễn ảnh đẹp)

    Ta trở lại! Nhất định là trở lại!
    Uy nghi giữa rừng gươm lớn giáo dài,
    Đoàn quân reo như lở đất long trời,
    Thế mãnh tiến khiến tre tan ngói vỡ.
    Giặc rút chạy, ta phục hồi xứ sở,
    Dựng thuở thanh bình gió tạnh mưa tan,
    Niềm vui hòa lan rộng cõi nhân gian,
    Ơn vũ lộ tưới nhuần từ lượng thánh.
    Ta với nàng cùng vai kề bóng sánh,
    Tay cầm tay mặt nhìn mặt song song,
    Nàng nghiêng xiêm múa hát dưới trăng lồng,
    Ta vỗ kiếm phú lời thơ ngạo nghễ,
    Chuyện đế bá, mộng khuynh bang tế thế,
    Miếng đỉnh chung, niềm phu phụ đoàn viên
    Xét cả đôi đường kể cũng đã nên.
    Ngoài đất lạ, ta gắng tròn nhiệm vụ,
    Bên này sông, nàng ngọc vàng gìn giữ,
    Đợi ngày về...

    THỊ TRINH – Nguyền vẹn tiết đoan trinh.
    Dù sao rời vật đổi vẫn đinh ninh
    Lời chàng dặn.

    LÊ LIÊM – Thỏa lòng này kỳ vọng
    Ở nơi nàng….. (Nhìn ra lối sau cửa miếu)
    Trăng rơi trên mặt sóng !​
    Ngày báo rồi! Chưa thấy bóng cụ về!

    (Tiếng hát đò đưa đứt khúc từ xa vọng lại)

    Hờ ai... ơi! Ới... ai... ơi!
    Bước chân... xuống đò,.. chân giẫm nhịp... ba...
    Trách cô hàng…. trứng ở ra... đôi... lòng..
    Hò... ơ... ...

    THỊ TRINH – Tiếng hát đò đưa đương vắng trên đê!
    Chính cha đó! (lắng nghe, lắc đầu)
    Tiếng nước mơn ngọn cói?​

    LÊ LIÊM - Hay tiếng gió đương đùa làn rêu ngói ?
    Không phải cụ đâu !

    THỊ TRINH –(Thoáng lo âu) Hay có lẽ người!
    Không thể thế!

    LÊ LIÊM (băn khoăn) Biết đâu chẳng bị rồi!

    THỊ TRINH - Em run lắm ! Xin chàng đừng nói gở !

    LÊ LIÊM — Bóng người lạ! (Rút kiếm lăm lăm)

    (Lão Đồ chậm rãi bước ra)

    THỊ TRINH – (Mừng rỡ) Cha làm con hoảng sợ!
    Tưởng quân thù đã tới...

    (Lão Đồ đứng dựa lưng vào cạnh cửa, tay chống mái chèo, nét mặt nhợt nhạt)

    LÊ LIÊM – Cụ đã quay về!
    Việc trót lọt chăng? Giặc đóng ven đê
    có trông thấy...

    THỊ TRINH – Đăm đăm chờ tiếng hát,
    Mong tin cha như hè mong gió mát,
    Hồi hộp không thôi...

    LÃO ĐỒ – (Đưa chèo) Con cầm lấy mái chèo!
    Thay chân cha trên sóng nước gieo neo,
    Chở tráng sĩ qua sông ngay lập tức!

    THỊ TRINH – Cha nói sao?

    LÃO ĐỒ — Cha hoàn toàn kiệt lực !

    LÊ LIÊM – Vậy việc không xong?

    LÃO ĐỒ – (Với Lê Liêm) Theo bước nữ nhi!
    Thuyền đã có rồi, người kíp ra đi!
    Kẻo lỡ việc!

    THỊ TRINH – Phận con là ở lại,
    Đem tính mạng đền công ơn non Thái,
    Thân gái bọt bèo nào có xá chi!
    Thôi cứ mặc con!
    Cha hãy ra đi!​

    LÃO ĐỒ – Lời cha nói vừa rồi là mệnh lệnh,
    Con phải nghe mới đúng niềm tôn kính
    Đạo làm con...

    LÊ LIÊM - Cụ cho biết duyên do ?

    (Bỗng Lão Đồ ngã xuống, Lê Liêm và Thị Trinh xúm vào đỡ, nhìn thấy máu chảy ướt đầy lưng áo của Lão)

    THỊ TRINH − Ôi! máu thấm đầy lưng!

    LÊ LIÊM - Một vết thương to
    Do tên bắn: (Rút mũi tên sau lưng Lão Đồ)

    THỊ TRINH - Trời! sao cha không nói?
    Khổ thân cha !...

    LÃO ĐỒ – (Hổn hển) Nương bờ lau mờ tối,
    Lấy được thuyền, chở vội được ra xa,
    Nhưng không ngờ giặc thoáng thấy bóng cha,
    Bắn tên đuổi!
    Tuy trúng thương rất nặng,​
    Cha nhịn đau, dong thuyền về chỗ vắng,
    Cố cất tiếng lên mà chẳng còn hơi,
    Lại lo rằng...

    THỊ TRINH - (Nghẹn ngào) Đau khổ quá, cha ơi!

    LÃO ĐỒ — Con đi ngay đi! Tráng sĩ nữa !

    LÊ LIÊM - Vãn sinh còn bụng dạ nào!

    THỊ TRINH – Con không đi vội! -

    LÊ LIÊM - Hay xin vực cụ cùng đi?

    LÃO ĐỒ – (Xua tay rồi chỉ ra ngoài trời)

    Ánh hồng dương le lói,
    Chân mây sắp rạng rồi:
    Đi mau! đi mau không giặc tới .

    LÊ LIÊM - Nhưng chân chẳng nỡ rời!

    THỊ TRINH - Con đi sao được nổi?

    LÃO ĐỒ – (Thu hết tàn lực) Sự nghiệp! Giang sơn!
    Quốc dân trông đợi!
    Con phải đi! Người phải đi!
    Kìa kìa! Hồn thiêng nước non vẫy gọi!

    Để cha nằm yên đây
    Trong hương đồng cỏ nội
    Thịt xương bón đất màu,
    Lá rụng rơi về cội.

    Con phải đi! Người phải đi!
    Lời cha dành không tủi,
    Lòng già mãi mãi còn vui..

    LÊ LIÊM – Sự nghiệp! Giang sơn !
    Quốc dân trông đợi!
    Con phải đi! Người phải đi!
    Lời cha dành không tủi,
    Lòng già mãi mãi còn vui...

    Vãn sinh xin hứa trọn đời,
    Đạp bằng gai góc, cả cười bước lên !
    Lòng người kỳ vọng không quên,
    Thù nhà nợ nước trả yên mọi đường.

    THỊ TRINH - (Nức nở) Cha oi!
    Ngăn ngắt Ngũ Bồ giang
    Hiu hắt lòng miếu hoang,
    Tình nghĩa nghìn bối rối,

    LÊ LIÊN – Phải nghe lời trăng trối!
    Ta đi thôi! (Vái Lão Đồ)
    Chúng con xin vĩnh biệt người!

    THỊ TRINH - (Nghẹn ngào bước đi) Biết ngày nào gặp nữa, cha ơi !

    (Lê Liêm cầm lấy mái chèo cùng Thị Trinh vào. Lão Đồ cố ngóc dậy nhìn theo mỉm cười trong nước mắt rồi từ từ ngã mình xuống đất)

    Vân Hồ 3 Hà Nội 1953​


    HẾT KỊCH​
     
    Chỉnh sửa cuối: 17/6/24
    nhan van and amylee like this.
Moderators: galaxy, teacher.anh

Chia sẻ trang này