Chào mọi người, mình là sanshiro. Mình không phải là dịch giả, mình chỉ là một người yêu thích việc đọc sách. Mình xin đóng góp dự án đầu tiên của mình: "A Court of Thorns and Roses" của tác giả Sarah J. Maas. Mong mọi người đón nhận ạ. A COURT OF THORNS AND ROSES (ĐIỆN HỒNG GAI) Tác giả: Sarah J. Maas Năm xuất bản: 2015 Thể loại: Fiction, Fantasy, Young Adult, Romantasy Độ dài: 46 chương Thời gian: dự kiến 2 năm (2 tuần / 1 chương) do mình khá bận và lười. Tình trạng: Đang dịch Dịch: @sanshiro *** Nội dungKhi Feyre, một thợ săn 19 tuổi, giết chết một con sói trong rừng, một sinh vật đáng sợ xuất hiện để đòi món nợ máu. Bị kéo vào một vùng đất ma thuật hiểm nguy mà cô chỉ biết qua những truyền thuyết, Feyre phát hiện rằng kẻ bắt giữ cô không thực sự là một con thú, mà là một trong những tiên nhân bất tử, nguy hiểm, từng thống trị thế giới của cô. Ít nhất, hắn không phải là một con thú mọi lúc. Khi dần thích nghi với ngôi nhà mới, cảm xúc của Feyre dành cho Tamlin, tiên nhân giam giữ cô, từ sự thù hằn lạnh lùng đã chuyển thành ngọn lửa đam mê, thiêu đốt mọi lời dối trá cô từng nghe về thế giới đẹp đẽ nhưng đầy hiểm họa của tiên giới. Nhưng có điều gì đó không ổn ở vùng đất tiên tộc. Một bóng tối cổ xưa và hiểm ác đang lớn mạnh, và Feyre phải tìm cách ngăn chặn nó, nếu không Tamlin - và cả thế giới của anh - sẽ mãi chìm trong diệt vong. *** Mục lục Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để xem link Chương 6 (đang dịch)
Dịch: sanshiroCHƯƠNG 1 Hình minh họa Khu rừng đã trở thành mê hồn trận băng tuyết. Tôi đã theo dõi các chi tiết của bụi cây trong một giờ và vị trí quan sát của tôi trên một cành cây cong tưởng như thuận lợi nhưng trở nên vô dụng. Cơn gió mạnh thổi tung những mảng tuyết dày đặc xóa sạch mọi dấu vết của tôi, nhưng cũng chôn vùi mọi dấu hiệu của con mồi. Cái đói đã khiến tôi đi xa nhà hơn bình thường, nhưng mùa đông là khoảng thời gian khó khăn. Các loài động vật đã kéo đến, chúng chạy sâu tận trong khu rừng đến độ tôi không thể đuổi theo, tôi chỉ có thể bắt từng con một chậm chạp phía sau, và hy vọng rằng chúng sẽ ở lại cho đến mùa xuân. Nhưng chúng dần biến mất. Đọc tiếp Chương 1 Tôi dụi mắt mình bằng những ngón tay lạnh tê cóng, phủi sạch những bông tuyết bám trên mi mắt. Những thân cây chưa bị lột vỏ để đánh dấu sự xuất hiện của loài nai - chúng vẫn chưa di chuyển. Chúng sẽ ở lại cho đến khi vỏ cây rụng hết, sau đó đi về phía bắc qua lãnh thổ của loài sói và có lẽ đến vùng đất ma thuật Prythian - nơi mà chưa có bất kỳ ai vượt qua đó và sống sót trở về. Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng mỗi khi nghĩ đến chuyện ấy, nhưng tôi đã gạt nó đi để tập trung vào xung quanh và nhiệm vụ trước mắt. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm, và đã làm trong nhiều năm nay: tập trung vào việc sống sót qua tuần này, hôm nay và một giờ tiếp theo. Với tuyết rơi hiện tại, tôi sẽ rất may mắn nếu có thể phát hiện ra bất cứ điều gì - đặc biệt là khi đang ở trên cây và chỉ có thể nhìn xa khoảng mười lăm feet. Tôi cố nén một tiếng rên rỉ khi toàn thân mình cứng đơ như thể chúng phản đối hoạt động, tôi tháo cung tên trước khi trèo xuống khỏi cái cây. Tuyết lạnh buốt kêu lạo xạo dưới đôi ủng sờn rách, và tôi nghiến chặt răng mình. Tầm nhìn hạn chế, tiếng ồn nhiễu loạn - lại một cuộc đi săn vô ích khác. Chỉ còn vài giờ nữa là hết ngày. Nếu tôi không sớm rời đi, tôi sẽ phải tìm đường về nhà trong bóng tối, và lời cảnh báo của những gã thợ săn trong thị trấn vẫn còn vang vọng trong tâm trí tôi: những con sói khổng lồ đang rình rập với số lượng lớn. Chưa kể đến những truyền thuyết về những thứ được phát hiện trong khu rừng, cao lớn, rùng rợn và nguy hiểm. Bất cứ thứ gì ngoại trừ tiên nhân, những thợ săn đã cầu xin các vị thần bị lãng quên từ lâu, và tôi đã âm thầm cầu nguyện như họ. Trong suốt tám năm sống tại ngôi làng của mình, cách biên giới bất tử của Prythian hai ngày đường, chúng tôi đã may mắn thoát khỏi những cuộc tấn công - dù những kẻ bán rong lang thang đôi khi mang theo những câu chuyện về các thị trấn biên giới xa xôi bị bỏ lại chỉ với những mảnh vụn, xương tàn và tro bụi. Những câu chuyện vốn xưa kia hiếm hoi đến mức các trưởng lão trong làng coi như lời đồn đại thì dạo gần đây lại trở thành những lời thì thầm quen thuộc vào mỗi phiên chợ. Tôi thật liều lĩnh khi đi sâu đến vậy vào khu rừng, nhưng ổ bánh mì cuối cùng của chúng tôi đã hết từ hôm qua, và thịt khô còn lại cũng chẳng còn. Dẫu vậy, tôi thà chết đói còn hơn phải thỏa mãn cơn đói của một con sói. Hoặc là sinh vật ma thuật nào đó. Toàn thân tôi chẳng có gì nhiều để mà thưởng thức. Lúc này tôi đã trở nên gầy gò đến nỗi có thể đếm được khá nhiều chiếc xương sườn lộ ra ngoài của mình. Di chuyển thật nhanh nhẹn và nhẹ nhàng giữa những hàng cây, tôi ấn một tay vào cái bụng rỗng và cồn cào. Tôi biết rõ vẻ mặt của hai chị mình sẽ ra sao khi tôi lại một lần nữa tay không trở về nhà. Sau vài phút tìm kiếm cẩn thận, tôi ngồi xổm trong một bụi cây gai phủ đầy tuyết. Qua những chiếc gai, tôi có thể nhìn thấy một phần khu đất trống và dòng suối nhỏ chảy qua đó. Một vài lỗ trên lớp băng cho thấy nơi này vẫn thường được sử dụng. Hy vọng sẽ có thứ gì đó ghé qua. Hy vọng. Tôi thở dài, cắm đầu mũi cung xuống đất, rồi tựa trán vào đường cong thô ráp của bụi cây. Chúng tôi không thể sống thêm một tuần nữa nếu như không có thức ăn. Quá nhiều gia đình đã bắt đầu phải ăn xin, khiến tôi không còn hy vọng gì vào việc xin bố thí từ những người giàu có trong thị trấn. Tôi đã thấy lòng hảo tâm của họ đi xa đến mức nào. Tôi từ từ chuyển sang một tư thế thoải mái hơn và điều chỉnh nhịp thở, cố gắng lắng nghe âm thanh của khu rừng giữa tiếng gió rít. Tuyết cứ rơi mãi, nhảy múa và cuộn tròn như những làn bụi sao lấp lánh, sắc trắng tươi mới và tinh khôi nổi bật trên nền nâu xám của thế giới. Và mặc cho chính mình, bất chấp tứ chi lạnh cóng, tôi lặng lẽ làm dịu đi phần tâm trí hung dữ, tàn nhẫn của mình để đắm mình vào khu rừng phủ đầy tuyết. Đã từng có một thời, việc tận hưởng sự tương phản giữa cỏ non xanh mướt và lớp đất cày bừa nâu sẫm, hay ngắm nhìn một chiếc trâm cài tím biếc nép mình giữa những nếp lụa xanh ngọc lục bảo. Đã từng, tôi mơ mộng, hít thở và suy nghĩ về màu sắc, ánh sáng và hình dáng. Đôi khi, tôi còn tự cho phép mình mơ tưởng đến một ngày hai người chị mình đều đã yên bề gia thất, chỉ còn lại tôi và cha, với đủ thức ăn để no lòng, đủ tiền để mua vài hộp sơn, và đủ thời gian để đưa những sắc màu, hình dáng ấy lên giấy, lên vải, hay thậm chí lên tường căn nhà nhỏ của mình. Điều đó khó có thể xảy ra sớm hoặc có lẽ chẳng bao giờ. Thế nên tôi chỉ còn lại những khoảnh khắc như thế này, ngắm nhìn ánh sáng nhạt của mùa đông lấp lánh trên lớp tuyết trắng. Tôi không thể nhớ lần cuối cùng mình làm điều này là khi nào - bận tâm để ý đến bất cứ thứ gì đẹp đẽ hay thú vị. Những giờ phút lén lút trong kho thóc tồi tàn với Isaac Hale không tính; những khoảnh khắc đó đầy đói khát, trống rỗng và đôi khi thật tàn nhẫn, tất nhiên chẳng bao giờ đẹp đẽ. Cơn gió rít gào dần lắng xuống, trở thành một tiếng thở dài nhẹ nhàng. Tuyết rơi chậm rãi, thành từng mảng lớn, mập mạp, chất đầy vào mọi ngóc ngách và trên những cành cây. Mê hoặc - vẻ đẹp vừa nguy hiểm vừa dịu dàng của tuyết. Chẳng mấy chốc tôi sẽ phải trở lại những con đường bùn lầy, đóng băng của làng mình, trở lại cái nóng ngột ngạt trong căn nhà nhỏ chật hẹp của chúng tôi. Một phần nhỏ vỡ vụn trong tôi, co rúm lại khi nghĩ đến điều đó. Những bụi cây xào xạc vang lên ở khu đất trống. Theo bản năng của mình, tôi kéo căng dây cung. Tôi nheo mắt nhìn qua những chiếc gai, và hơi thở tôi nghẹn lại. Chưa đầy ba mươi bước chân, một con nai cái nhỏ bé đứng đó, chưa quá gầy guộc vì mùa đông, nhưng đủ tuyệt vọng để cắn vỏ cây từ một cái cây trong khu đất trống. Một con nai như vậy có thể nuôi sống gia đình tôi suốt một tuần lễ hoặc lâu hơn. Miệng tôi ứa nước. Im lặng như làn gió rít qua lá khô, tôi ngắm bắn. Con nai cái tiếp tục cắn xé từng mảng vỏ cây, nhai chậm rãi, hoàn toàn không hay biết rằng cái chết đang chực chờ ngay gần đó. Tôi có thể phơi khô nửa phần thịt, và chúng tôi có thể ăn ngay phần còn lại - làm món hầm, bánh nướng... Da của nó có thể đem bán, hoặc dùng để làm thành quần áo cho một trong chúng tôi. Tôi cần một đôi ủng mới, nhưng Elain lại cần một chiếc áo choàng mới, còn Nesta thì luôn có thói quen thèm muốn bất cứ thứ gì mà người khác sở hữu. Những ngón tay tôi run rẩy. Bao nhiêu thức ăn - biết bao sự cứu rỗi. Tôi hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, kiểm tra lại mục tiêu của mình. Nhưng có một đôi mắt vàng sáng lên từ bụi rậm cạnh bên tôi. Khu rừng bỗng im lặng. Gió ngừng thổi. Thậm chí tuyết ngừng rơi. Chúng tôi, những người phàm trần đã không còn thờ phụng các vị thần, nhưng nếu được biết những cái tên đã mất của họ, tôi đã cầu nguyện tới họ. Tất cả bọn họ. Ẩn mình trong bụi rậm, con sói tiến lại gần, ánh mắt chăm chú vào con nai cái không hề hay biết. Nó to lớn với kích thước bằng một con ngựa nhỏ, và dù tôi đã được cảnh báo về sự hiện diện của chúng, miệng tôi trở nên khô khốc. Nhưng điều tồi tệ hơn cả kích thước to lớn chính là sự lặng lẽ của nó: ngay cả khi nó tiến lại gần trong bụi rậm, nó vẫn không gây tiếng động để bị con nai phát hiện. Không có loài thú nào to lớn đến vậy lại có thể im lặng đến thế. Nhưng nếu nó không phải là một con vật bình thường, nếu nó có nguồn gốc từ Prythian, nếu bằng cách nào đó là một tiên nhân, thì việc bị ăn thịt chỉ là một mối lo nhỏ bé so với những điều tôi phải đối mặt. Nếu nó là một tiên nhân hóa thành, lẽ ra tôi đã phải bỏ chạy từ lâu. Tuy nhiên, có lẽ... có lẽ sẽ là một ân huệ cho thế giới, cho làng tôi, cho chính tôi, nếu giết hắn khi tôi vẫn chưa bị phát hiện. Cắm một mũi tên xuyên qua mắt hắn sẽ không phải là gánh nặng quá lớn. Nhưng mặc dù có kích thước lớn, hắn thật trông giống một con sói, di chuyển như một con sói. Một con thú, tôi tự trấn an mình. Chỉ là một con thú. Tôi không để mình suy nghĩ về khả năng khác - nhất là khi tôi cần đầu óc minh mẫn và hơi thở vững vàng. Tôi có một con dao săn và ba mũi tên. Hai mũi tên đầu tiên là những mũi tên bình thường - đơn giản và hiệu quả, có lẽ chỉ giống như những vết chích của loài ong đối với một con sói to lớn. Nhưng mũi tên thứ ba, dài và nặng nhất, tôi đã mua từ một kẻ bán rong lang thang trong một mùa hè khi mà chúng tôi có đủ những thỏi đồng để mua thêm những món xa xỉ. Một mũi tên được làm từ gỗ sồi trên núi với chiếc đầu bọc sắt. Từ những lời hát ru lúc còn trong nôi, từ thơ bé chúng tôi đều biết rằng tiên nhân ghét sắt. Nhưng chính gỗ sồi mới là thứ ảnh hưởng đến ma thuật bất tử, khiến phép chữa lành của chúng chậm lại đủ lâu để con người có thể ra tay kết liễu. Hoặc ít nhất là những truyền thuyết và tin đồn nói vậy. Bằng chứng duy nhất chúng tôi có về hiệu quả của gỗ sồi chính là sự hiếm có của nó. Tôi đã từng thấy những bức vẽ về những cái cây đó, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy chúng bằng chính mắt mình - không phải sau khi các vị High Fae đã thiêu rụi tất cả chúng từ lâu. Chỉ còn lại rất ít, phần lớn trong số đó là những cây nhỏ bé và ốm yếu, được giấu kín bởi giới quý tộc trong những khu vườn có tường cao bao quanh. Tôi đã dành cả tuần lễ sau khi mua nó để suy nghĩ liệu mảnh gỗ đắt đỏ đó có phải là một sự lãng phí, hay là một món đồ giả, và suốt ba năm qua, mũi tên gỗ sồi đã nằm im lìm trong bao đựng mũi tên của tôi. Giờ đây, tôi rút nó ra, cử động ít nhất có thể để tránh con sói khổng lồ ấy nhìn về phía mình. Mũi tên dài và nặng đủ để gây sát thương - có thể giết hắn, nếu tôi nhắm trúng. Ngực tôi thắt lại đến nỗi đau nhói. Và trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra cuộc đời mình chỉ gói gọn trong một câu hỏi: Liệu con sói có đến một mình không? Tôi nắm chặt cung và kéo dây căng ra phía sau. Tôi tự cho mình là người bắn cung khá giỏi, nhưng tôi chưa bao giờ đối mặt với một con sói. Tôi đã từng nghĩ điều đó khiến mình may mắn - thậm chí như được ban phước. Nhưng giờ thì... tôi không biết nên bắn vào đâu hay chúng di chuyển nhanh thế nào. Tôi không thể để mình bắn trượt mũi tên. Không phải lúc tôi chỉ có duy nhất một mũi tên gỗ sồi. Và nếu quả thật là trái tim của một ma thú đang đập dưới lớp lông đó, thì tốt thôi, hãy chào tạm biệt. Sau tất cả những gì giống loài của chúng đã làm với chúng tôi. Tôi sẽ không mạo hiểm để con quái vật này lén lút vào làng, giết chóc, tàn phá và hành hạ mọi người. Hãy để nó chết ở đây và ngay bây giờ. Tôi lấy làm vinh dự khi giết chết nó. Con sói lặng lẽ tiến lại gần, một cành cây gãy dưới một trong những bàn chân của nó - mỗi bàn chân lớn hơn cả tay tôi. Con nai cái cứng đờ. Nó liếc qua hai bên, tai căng lên hướng về bầu trời xám. Với vị trí ngược gió của con sói, con nai cái không thể nhìn thấy hay ngửi thấy nó. Đầu con sói hạ xuống, và thân hình bạc khổng lồ của nó - thật hoàn hảo, hòa lẫn vào tuyết và bóng tối, và nó hạ mình xuống phía sau. Con nai cái vẫn đang nhìn sai hướng. Tôi liếc mắt từ con nai sang con sói rồi lại nhìn về phía con nai. Ít nhất thì con sói một mình - ít nhất tôi đã tránh khỏi điều đó. Nhưng nếu con sói làm con nai sợ bỏ chạy, sẽ chỉ còn lại một con sói khổng lồ đói khát - có thể là một ma thú - đang tìm kiếm bữa ăn tiếp theo. Và nếu nó giết con nai, nó sẽ lấy hết những phần da và mỡ quý giá... Nếu tôi phán đoán sai, mạng sống của tôi không phải là cái giá duy nhất phải trả. Nhưng suốt tám năm qua, cuộc sống của tôi chỉ toàn là những canh bạc khi đi săn trong rừng, và phần lớn thời gian, tôi đã đưa ra những quyết định đúng đắn. Hầu hết thời gian. Con sói lao ra khỏi bụi rậm như một tia chớp xám, trắng và đen, những chiếc nanh vàng của nó lóe lên. Nó càng trở nên đồ sộ hơn khi toàn bộ cơ thể lộ ra, là một biểu tượng của cơ bắp, tốc độ và sức mạnh tàn bạo. Và thế là con nai cái không còn cơ hội. Tôi bắn mũi tên gỗ sồi trước khi nó phá hoại thêm cơ thể con mồi. Mũi tên cắm vào sườn con sói, và tôi có thể cảm thấy như cả mặt đất đang rung chuyển. Nó chu lên vì đau đớn, nhả cổ con mồi, máu nó bắn đỏ tươi trên tuyết - sáng như hồng ngọc. Nó xoay người về phía tôi, đôi mắt vàng mở to, lông gáy dựng đứng. Tiếng gầm gừ trầm thấp của nó vang vọng trong hố sâu trống rỗng của dạ dày tôi khi tôi đứng dậy, tuyết rơi xung quanh tôi, một mũi tên khác được rút ra. Nhưng con sói chỉ nhìn tôi, hàm răng nhuốm máu, mũi tên gỗ sồi của tôi cắm một cách thô bạo vào sườn nó. Tuyết lại bắt đầu rơi. Nó nhìn tôi, với một vẻ nhận thức và ngạc nhiên đến mức khiến tôi bắn mũi tên thứ hai. Trừ trường hợp trí thông minh đó thuộc về loại bất tử và tàn ác. Nó không hề cố né tránh mũi tên khi nó xuyên thẳng qua con mắt vàng rực to lớn của nó. Nó ngã gục xuống mặt đất. Màu sắc và bóng tối quay cuồng, xoáy vào tầm mắt tôi, hòa lẫn trong làn tuyết. Chân nó co giật, trong khi một tiếng rên rỉ xé toạc màn gió. Không thể nào - nó đáng lẽ phải chết hẳn, chứ không phải đang hấp hối. Mũi tên đã xuyên qua mắt nó, gần chạm tới phần lông vũ ở đuôi. Nhưng dù là sói hay tiên nhân, cũng không quan trọng. Với mũi tên gỗ sồi cắm sâu vào bên sườn. Nó sẽ chết sớm thôi. Tuy nhiên, tay tôi vẫn run rẩy khi phủi tuyết và tiến lại gần, tôi vẫn giữ khoảng cách an toàn với cái xác. Máu tuôn ra từ những vết thương mũi tên bắn, nhuộm tuyết thành một màu đỏ thẫm. Nó lấy móng cào nhẹ mặt đất, hơi thở đã bắt đầu chậm lại. Liệu nó có đang đau đớn tột cùng, hay tiếng rên rỉ đó chỉ là nỗ lực cuối cùng để xua đuổi thần chết? Tôi không chắc rằng mình muốn biết điều đó. Tuyết quấn quanh chúng tôi. Tôi nhìn chằm chằm vào nó cho đến khi bộ lông màu than, hắc diện và ngà kia không còn phập phồng nữa. Sói - chắc chắn chỉ là một con sói, ngoại trừ kích thước to lớn của nó. Sự thắt chặt trong lồng ngực tôi dần tan biến, và tôi thở phào nhẹ nhõm, hơi thở mờ đục bốc lên trước mặt. Ít nhất thì mũi tên gỗ sồi đã chứng minh được sức sát thương của nó, bất kể mục tiêu là ai hay thứ gì. Sau khi kiểm tra nhanh con nai cái, tôi nhận ra rằng mình chỉ có thể mang được một con – và ngay cả điều đó cũng sẽ là một thử thách. Nhưng thật đáng tiếc khi phải bỏ lại con sói. Mặc dù việc này tốn những thì giờ quý giá - khoảng thời gian mà bất kỳ kẻ săn mồi nào cũng có thể ngửi thấy mùi máu tươi - tôi lột da nó và làm sạch những mũi tên tốt nhất có thể. Ít nhất, việc đó cũng làm ấm đôi bàn tay tôi. Tôi quấn mặt bên đầy máu của tấm da sói quanh vết thương của con nai trước khi vác nó lên vai mình. Phải mất vài dặm mới quay trở lại ngôi nhà nhỏ của chúng tôi, và tôi chẳng muốn để lại một vệt máu dẫn đường nào cho tất cả những con vật có nanh sắc vuốt nhọn tiến thẳng đến chỗ tôi. Rên rỉ vì sức nặng, tôi nắm lấy chân con nai và liếc nhìn lần cuối xác con sói còn đang bốc khói. Con mắt vàng còn lại của nó nhìn chằm chằm lên bầu trời đầy tuyết, và trong một khoảnh khắc, tôi ước gì mình có thể cảm thấy hối tiếc cho sinh vật đã chết kia. Nhưng đây là khu rừng, và mùa đông đang bao trùm mọi thứ. ***
Dịch: sanshiro CHƯƠNG 2 Hình minh họaMặt trời đã lặn khi tôi rời khỏi khu rừng, đầu gối tôi run rẩy. Đôi tay tôi cứng đờ vì siết chặt chân con nai, đã hoàn toàn tê dại từ cách đây hàng dặm. Thậm chí cả xác con nai cũng không thể xua tan cái lạnh ngày càng thấm sâu. Thế giới chìm trong những gam màu xanh thẫm, chỉ bị gián đoạn bởi những tia sáng vàng nhạt len lỏi qua các khung cửa sổ đóng kín của căn nhà tranh tồi tàn của chúng tôi. Cảnh tượng tựa như bước vào một bức tranh sống động - một khoảnh khắc tĩnh lặng thoáng qua, nơi sắc xanh dần chuyển thành màn đêm đặc quánh. Đọc tiếp Chương 2 Khi tôi lê bước trên con đường mòn, từng bước chân chỉ được thôi thúc bởi cơn đói đến choáng váng, tiếng nói của các chị tôi vẳng ra đón lấy tôi. Tôi không cần phải nghe rõ lời họ cũng biết chắc họ đang líu lo về chàng trai nào đó hoặc những dải ruy băng họ thấy ở làng, thay vì đáng lẽ họ phải chặt củi, nhưng dù vậy tôi vẫn mỉm cười đôi chút. Tôi thúc mạnh đôi ủng của mình vào khung cửa bằng đá, làm rơi những lớp tuyết bám trên đó xuống. Những mảnh băng vỡ rơi ra từ những viên đá xám của ngôi nhà, để lộ những dấu ấn bảo vệ đã phai mờ được khắc quanh ngưỡng cửa. Cha tôi từng thuyết phục một gã lang băm đi ngang qua, trao đổi với hắn những hình khắc này để chống lại tai họa từ loài tiên tộc bằng việc đổi lấy một trong những tác phẩm khắc gỗ của ông. Cha tôi chẳng thể làm được gì nhiều cho chúng tôi, đến nỗi tôi không đủ can đảm để nói với ông rằng những dấu khắc đó là vô dụng... và chắc chắn là giả. Người phàm không thể sử dụng phép thuật, không sở hữu bất kỳ sức mạnh hay tốc độ vượt trội nào như các loài tiên tộc hay High Fae. Người đàn ông ấy, tự nhận có một ít dòng máu lai High Fae từ tổ tiên, chỉ khắc những vòng xoáy, ký tự và chữ rune lên cửa và cửa sổ, lẩm bẩm vài lời vô nghĩa rồi lững thững bước đi. Tôi giật mạnh cánh cửa gỗ, tay nắm vào chiếc tay cầm bằng sắt đông lạnh, cảm thấy nó cắn vào da thịt tôi như một con rắn hổ. Nhiệt độ và ánh sáng trong nhà khiến tôi phải nheo mắt khi bước vào. “Feyre!” Tiếng thở nhẹ của Elain vọt qua tai tôi, và tôi chớp mắt trước ánh lửa rực rỡ để tìm thấy người chị thứ hai của mình đứng trước mặt. Dù chị ấy quấn mình trong một chiếc chăn sờn cũ, mái tóc vàng nâu - mái tóc mà cả ba chúng tôi đều có - vẫn được cuộn gọn gàng trên đầu. Tám năm nghèo khó không làm mất đi khao khát trông mình thật xinh đẹp của chị ấy. "Ở đâu em có thứ đó?” Cơn đói ẩn sâu trong giọng nói khiến lời chị ấy trở nên sắc bén, điều đã trở nên quá quen thuộc trong những tuần gần đây. Không có lời nào nhắc đến những vết máu trên người tôi. Từ lâu tôi đã từ bỏ hy vọng rằng họ thực sự chú ý đến việc tôi trở về từ rừng vào mỗi buổi tối hay không. Ít nhất cho đến khi họ cảm thấy đói trở lại. Nhưng rồi lại nghĩ, mẹ tôi đã không bắt họ thề điều gì khi họ đứng bên giường bệnh của bà. Tôi hít một hơi sâu để bình tĩnh lại, rồi vác con nai cái xuống khỏi vai. Tôi đặt con nai lên bàn gỗ với một tiếng thịch, làm rung chiếc cốc gốm ở đầu bàn bên kia. “Thế chị nghĩ em có nó từ đâu?” Giọng tôi khàn đặc, từng lời thốt ra đều như thiêu đốt trong cổ họng. Cha tôi và Nesta vẫn lặng im sưởi ấm đôi tay bên lò sưởi, chị Nesta vẫn phớt lờ ông như thường lệ. Tôi lột da con sói khỏi xác con nai, rồi sau khi cởi đôi ủng và đặt chúng gần cửa, tôi quay sang Elain. Đôi mắt nâu của chị ấy - đôi mắt của cha tôi - vẫn dán chặt vào con nai. "Em sẽ mất nhiều thời gian để làm sạch nó không?" Chị ấy hỏi tôi. Không phải chị ấy, và càng không phải những người khác. Tôi chưa từng thấy tay họ dính máu và lông thú. Tôi học cách chuẩn bị bẫy và thu hoạch những con thú mình săn được nhờ sự chỉ dẫn của người khác. Elain đặt tay lên bụng, có lẽ cũng trống rỗng và đau đớn như chính tôi. Elain không tàn nhẫn như vậy. Chị ấy không giống Nesta, người mà lúc sinh ra đã có vẻ mặt khinh bỉ. Elain đôi khi chỉ đơn giản là... không hiểu được mọi chuyện. Không phải sự xấu tính ngăn cản chị ấy đề nghị giúp đỡ tôi; chỉ đơn giản là chị ấy chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể làm bẩn tay. Tôi chưa bao giờ có thể quyết định liệu chị ấy thực sự không hiểu rằng chúng tôi thật sự nghèo khó, hay chị ấy chỉ từ chối chấp nhận điều đó. Nhưng điều đó vẫn không ngăn cản việc tôi mua hạt giống cho khu vườn hoa mà chị chăm sóc vào những tháng thời tiết ấm áp, bất cứ khi nào tôi có đủ khả năng. Và nó cũng không ngừng chị ấy mua cho tôi ba hộp sơn nhỏ màu đỏ, vàng và xanh dương vào mùa hè ấy, khi tôi có đủ tiền để mua mũi gỗ sồi. Đó là món quà duy nhất chị ấy đã tặng tôi, và ngôi nhà của chúng tôi vẫn còn dấu vết của nó, dù cho lớp sơn giờ đã phai màu và bong tróc: những chùm hoa và dây leo nhỏ dọc theo cửa sổ, ngưỡng cửa và các cạnh của đồ đạc, những ánh lửa tí hon trên những viên đá viền quanh bếp lửa. Mỗi phút giây rảnh rỗi trong mùa hè tươi đẹp đó, tôi đã dùng để trang trí ngôi nhà bằng màu sắc, đôi khi giấu những món đồ trang trí khéo léo trong ngăn kéo, sau những chiếc rèm sờn, dưới những chiếc ghế và bàn. Chúng tôi chưa bao giờ có một mùa hè dễ dàng như thế kể từ đó. “Feyre.” Giọng nói trầm của cha tôi bên ngọn lửa. Râu của ông được tỉa gọn gàng, khuôn mặt không tì vết - giống như các chị của tôi. "Thật là may mắn khi hôm nay con mang về cho chúng ta một bữa ăn thịnh soạn như thế này." Bên cạnh cha tôi, Nesta khịt mũi. Không gì ngạc nhiên cả. Bất kỳ lời khen nào dành cho ai đó - tôi, Elain, hay những người trong làng - thường dẫn đến việc chị ấy phớt lờ. Và bất kỳ lời nói nào từ cha tôi cũng thường kết thúc bằng sự chế giễu của chị ấy. Tôi thẳng người dậy, gần như quá mệt để đứng vững, nhưng vẫn phải đặt tay lên bàn cạnh con nai, rồi ném về phía Nesta một cái nhìn đầy thách thức. Trong chúng tôi, Nesta là người chịu đựng nỗi mất mát lớn nhất. Chị ấy đã âm thầm oán giận cha ngay từ khoảnh khắc chúng tôi phải rời bỏ điền trang, ngay cả sau cái ngày tồi tệ đó khi một trong những chủ nợ đến để thể hiện sự không hài lòng của mình về việc mất đi khoản đầu tư của anh ta. Nhưng ít nhất Nesta không nhồi nhét vào đầu chúng tôi những câu chuyện vô bổ về việc lấy lại của cải, giống như cha tôi. Không, chị ấy chỉ tiêu xài bất kỳ khoản tiền nào tôi không giấu đi, và hiếm khi quan tâm đến sự có mặt tội nghiệp của cha. Có những ngày, tôi không thể phân biệt được ai trong chúng tôi là người đáng thương và cay đắng nhất. "Chúng ta có thể ăn một nửa số thịt trong tuần này," tôi nói, chuyển ánh nhìn về phía con nai. Con nai chiếm hết cái bàn ọp ẹp mà chúng tôi dùng để ăn, làm việc, và nấu nướng. "Chúng ta có thể phơi khô phần còn lại," tôi tiếp tục, biết rằng dù tôi có nói như thế nào, tôi vẫn sẽ làm phần lớn công việc. "Và ngày mai con sẽ ra chợ xem mình có thể kiếm được bao nhiêu từ phần da này," tôi kết thúc, nói chủ yếu với chính mình hơn là với họ. Dù sao thì chẳng ai thèm xác nhận xem họ đã nghe tôi nói gì. Cái chân bị hủy hoại của cha tôi duỗi ra trước mặt, gần sát với hơi nóng của ngọn lửa nhất có thể. Trời lạnh hay mưa, hoặc việc thay đổi nhiệt độ luôn làm vết thương quái ác, xoắn lại quanh đầu gối ông thêm trầm trọng. Cây gậy đơn sơ của ông được chống lên ghế - một cây gậy mà ông đã tự làm cho mình… mà đôi khi Nesta lại hay để nó xa tầm tay ông. Ông có thể tìm được việc nếu ông không xấu hổ như vậy, Nesta luôn nói mỗi khi tôi rít lên vì điều đó. Chị ấy ghét ông vì vết thương đó, cũng vì ông đã không chống cự khi tên chủ nợ và đám tay sai của hắn xông vào căn nhà và đập vỡ đầu gối ông hết lần này đến lần khác. Nesta và Elain đã chạy vào phòng ngủ, đóng chặt cửa. Tôi vẫn ở lại, van nài và khóc lóc suốt trước từng tiếng thét của cha, từng tiếng xương vỡ vụn. Tôi đã làm bẩn mình - rồi nôn thốc ra ngay trên những viên đá trước lò sưởi. Chỉ khi ấy đám người đó mới bỏ đi. Chúng tôi không bao giờ gặp lại chúng nữa. Chúng tôi đã dùng một khoản tiền lớn còn lại để trả cho thầy thuốc. Mất sáu tháng cha tôi mới có thể đi lại, và một năm mới có thể đi được một dặm. Những đồng tiền lẻ ông kiếm được khi ai đó thương hại và mua những tác phẩm điêu khắc gỗ của ông cũng không đủ để chúng tôi có cái ăn. Năm năm trước, khi tiền đã hết sạch, khi cha tôi vẫn không thể - không muốn - vận động nhiều, ông không phản đối khi tôi tuyên bố hùng hồn rằng mình sẽ đi săn. Ông không cố gắng đứng dậy khỏi chỗ ngồi bên lửa, không thèm ngẩng lên khỏi công việc chạm khắc gỗ của mình. Ông cứ để tôi bước vào khu rừng chết chóc, đầy ma mị đó, nơi ngay cả những thợ săn dày dạn kinh nghiệm cũng cảm thấy e dè. Giờ đây, ông đã trở nên quan tâm hơn một chút - thỉnh thoảng biểu lộ chút biết ơn, đôi khi lết đi bộ vào thị trấn để bán những tác phẩm điêu khắc của mình - nhưng chẳng được bao nhiêu. “Chị muốn có một chiếc áo choàng mới,” Elain cuối cùng thở dài nói, đúng lúc Nesta đứng dậy và tuyên bố: “Chị cần một đôi ủng mới.” Tôi giữ im lặng, biết rằng mình không nên can thiệp vào một trong những cuộc tranh cãi của họ, nhưng tôi liếc nhìn đôi ủng vẫn còn bóng loáng của Nesta bên cửa. Cạnh đôi đó, đôi ủng của tôi quá nhỏ, đã sắp rách ở các đường may, chỉ còn được giữ lại nhờ vào những sợi dây buộc tạm bợ sắp đứt. “Nhưng chị đang chết cóng với chiếc áo choàng cũ rách này,” Elain nài nỉ. “Chị sẽ run rẩy đến chết mất.” Chị ấy nhìn tôi với đôi mắt rộng mở và nói, “Làm ơn, Feyre.” Chị ấy kéo dài hai âm tiết của tên tôi – “fay---ruh” - vào trong tiếng mè nheo khó chịu nhất mà tôi từng phải nghe, và Nesta bực bội nhấp nháy lưỡi trước khi ra lệnh cho Elain im miệng. Tôi làm lơ họ khi họ bắt đầu cãi vã về việc ai sẽ lấy số tiền từ việc bán da hôm sau và nhìn thấy cha tôi giờ đang đứng bên bàn, một tay chống vào đó để giữ thăng bằng khi ông xem xét con nai. Ánh mắt ông lướt qua tấm da sói khổng lồ. Những ngón tay của ông, vẫn mịn màng và lịch lãm, lật tấm da và lướt qua một đường máu ở phía dưới. Tôi cứng người lại. Đôi mắt tối của ông liếc về phía tôi. “Feyre,” ông thì thầm, miệng ông trở nên căng thẳng. “Con lấy thứ này ở đâu?” “Cùng chỗ con nai,” tôi trả lời với giọng điệu cộc lốc, lời nói của tôi lạnh lùng và sắc bén. Ánh mắt của ông lướt qua cây cung và bao tên trên lưng tôi, chiếc dao săn với tay cầm bằng gỗ bên hông tôi. Mắt ông bắt đầu ươn ướt. “Feyre... rủi lỡ ...” Tôi hất cằm về phía tấm da thú, không thể kìm nén sự lạnh lùng trong giọng nói của mình, “Con không có lựa chọn nào khác.” Điều tôi thực sự muốn nói là: Mỗi ngày, cha cũng chẳng buồn thử bước ra khỏi nhà. Nếu không có con, chúng ta sẽ chết đói. Nếu không có con, chúng ta sẽ chết. “Feyre,” ông ấy lại nói, và nhắm mắt lại. Các chị em tôi đã im lặng, và tôi ngẩng lên kịp lúc nhìn thấy Nesta nhíu mũi với một tiếng hắt hơi. Chị ta gẩy nhẹ chiếc áo choàng của tôi. “Em hôi như một con heo lấm bùn. Không thể ít nhất giả vờ mình không phải là một đứa nông dân ngu dốt à?” Tôi không để lộ sự đau đớn hay tổn thương. Tôi đã quá nhỏ để học hỏi hơn những kiến thức cơ bản về lễ nghĩa, đọc viết khi gia đình tôi rơi vào nghèo khó, và chị ấy chưa bao giờ để tôi quên điều đó. Chị ta bước lùi lại, đưa ngón tay lên những lọn tóc xoắn của mình. “Cởi đồ thối rữa đó ra đi.” Tôi không vội vã trả lời, nuốt ngược lại những lời muốn nói. Lớn hơn tôi ba tuổi, chị ấy lại trông trẻ hơn tôi, đôi má vàng ánh hồng lúc nào cũng ửng một sắc hồng tươi tắn. “Chị có thể nấu một ấm nước nóng và thêm củi vào lửa không?” Nhưng ngay khi tôi hỏi, tôi đã nhận ra đống củi. Chỉ còn lại năm khúc. “Chị đã nghĩ em sẽ chặt củi hôm nay.” Nesta gẩy nhẹ vào những móng tay dài, gọn gàng của mình. “Chị ghét chặt củi. Lúc nào cũng bị xước dầm.” Chị ấy liếc nhìn từ dưới hàng mi dài. Trong tất cả chúng tôi, Nesta trông giống mẹ chúng tôi nhất - đặc biệt là khi chị ta muốn điều gì. “Hơn nữa, Feyre,” chị ta nói với vẻ nũng nịu, “Em làm tốt hơn chị mà! Em chỉ mất một nửa thời gian so với chị để làm xong. Tay em thích hợp làm việc đó hơn - chúng vốn đã thô ráp rồi mà.” Hàm tôi siết chặt lại. “Làm ơn,” tôi nói, cố gắng bình tĩnh lại hơi thở, biết rằng cãi vã là điều cuối cùng tôi cần hay muốn. “Làm ơn hãy dậy sớm để chặt củi đi.” Tôi mở cúc áo tunic. “Hoặc chúng ta sẽ phải ăn sáng với thức ăn lạnh tanh.” Lông mày chị ấy nhíu lại. “Chị sẽ không làm điều đó đâu!” Nhưng tôi đã đi về phía phòng nhỏ thứ hai, nơi ba chị em tôi ngủ. Elain thì thầm một lời van xin nhẹ nhàng với Nesta, và nhận lại một tiếng rít. Tôi liếc qua vai nhìn cha và chỉ vào con nai. “Hãy chuẩn bị con dao,” tôi nói, không cố gắng làm giọng mình dịu dàng. “Con sẽ ra ngay.” Không chờ câu trả lời, tôi đóng cửa lại. Căn phòng đủ rộng cho một chiếc tủ chật chội và chiếc giường gỗ lim khổng lồ mà chúng tôi ngủ. Đó là tài sản duy nhất còn lại của sự giàu có trước đây, đã được đặt mua như một món quà cưới từ cha cho mẹ tôi. Đó là chiếc giường nơi chúng tôi ra đời, và cũng là chiếc giường nơi mẹ qua đời. Trong suốt những năm qua, khi tôi sơn lại nhà, tôi chưa bao giờ động đến nó. Tôi vứt bỏ bộ đồ mặc ngoài lên chiếc tủ chật chội - nhăn mặt nhìn những đóa violet và hoa hồng mà tôi đã vẽ quanh tay nắm ngăn kéo của Elain, những ngọn lửa rực rỡ mà tôi đã vẽ quanh ngăn kéo của Nesta, và bầu trời đêm - những vòng sao vàng thay cho sao trắng quanh ngăn kéo của mình. Tôi đã làm vậy để làm sáng căn phòng vốn đã tối tăm. Họ chưa bao giờ nhắc đến nó. Tôi không hiểu sao mình lại mong đợi họ sẽ làm vậy. Rên rỉ, tôi chỉ còn cách cố gắng để không ngã sụp lên giường. Chúng tôi ăn thịt nai quay vào tối hôm đó. Mặc dù tôi biết là điều này ngu ngốc, nhưng tôi cũng không phản đối khi mỗi người trong chúng tôi lấy thêm một phần nhỏ cho đến khi tôi tuyên bố không còn thịt nữa. Ngày mai, tôi sẽ dành thời gian để chuẩn bị những phần còn lại của con nai cho bữa ăn, sau đó tôi sẽ dành vài giờ để đánh bóng cả hai tấm da trước khi mang chúng ra chợ. Tôi biết vài người bán hàng có thể sẽ quan tâm đến việc mua chúng - dù không ai trong số đó có khả năng trả cho tôi mức giá xứng đáng. Nhưng tiền là tiền, và tôi không có đủ thời gian hay tiền bạc để đến thị trấn lớn nhất gần đó để tìm một lời đề nghị tốt hơn. Tôi ngậm đầu chiếc nĩa, thưởng thức những vết mỡ còn lại trên thanh kim loại. Lưỡi tôi lướt qua những răng cong - chiếc nĩa là một phần trong bộ đồ ăn tồi tàn mà cha tôi đã lấy lại từ khu nhà của người hầu khi những người chủ nợ lục soát ngôi nhà của chúng tôi. Không có chiếc dụng cụ nào trong bộ chúng tôi giống nhau, nhưng vẫn còn tốt hơn là dùng tay. Bộ đồ ăn cưới của mẹ đã bị bán từ lâu. Mẹ tôi. Kiêu ngạo và lạnh lùng với các con, vui vẻ và lộng lẫy giữa những người quý tộc thường xuyên lui tới điền trang của chúng tôi, âu yếm cha tôi - người duy nhất mà bà thật sự yêu thương và tôn trọng. Nhưng bà cũng thật sự yêu những buổi tiệc - đến mức không có thời gian dành cho tôi, ngoại trừ việc suy nghĩ xem khả năng vẽ vời của tôi có thể giúp tôi kiếm được một người chồng tương lai nào không. Nếu bà còn sống đủ lâu để chứng kiến sự sụp đổ của gia sản, bà chắc hẳn sẽ bị nó làm cho tan nát - thậm chí còn đau đớn hơn cả cha tôi. Có lẽ đó là một điều nhân từ khi bà qua đời. Nếu là điều gì, thì chính là việc chừa lại nhiều thức ăn hơn một chút cho chúng tôi. Chẳng còn gì sót lại của mẹ trong căn nhà ngoài chiếc giường gỗ lim và lời thề tôi đã thốt ra. Mỗi lần tôi nhìn về phía chân trời hay tự hỏi liệu có nên cứ thế bước đi mãi mà không ngoái lại, tôi lại nghe thấy lời hứa tôi đã thề mười một năm trước khi mẹ tôi dần tàn tạ trên giường bệnh. “Hãy ở bên nhau và chăm sóc chúng.” Tôi đã đồng ý, quá trẻ để hỏi vì sao bà không yêu cầu các chị hay cha tôi làm điều đó. Nhưng tôi đã thề với bà, rồi bà qua đời, và trong thế giới khốn khổ của loài người - chỉ được che chở bởi lời hứa đã được các High Fae đưa ra từ năm thế kỷ trước - trong thế giới của chúng tôi, nơi chúng tôi đã quên đi tên gọi của các vị thần, một lời hứa chính là luật lệ; lời hứa là tiền tệ; lời hứa là mối liên kết của mỗi người. Có những lúc tôi ghét bà vì đã yêu cầu tôi thề như vậy. Có thể, khi mê man vì cơn sốt, bà thậm chí còn không nhận thức được những gì mình yêu cầu. Hoặc có thể cái chết đang đến gần đã mang lại cho bà sự nhận thức rõ ràng về bản chất thật sự của những đứa con và người chồng bà. Tôi đặt chiếc nĩa xuống và nhìn ngọn lửa của đống lửa nghèo nàn nhảy múa trên những khúc gỗ còn lại, duỗi dài đôi chân mệt mỏi của mình dưới bàn. Tôi quay sang những người chị của mình. Như thường lệ, Nesta đang phàn nàn về những người dân trong làng - họ không có phép tắc, không có sự lịch thiệp, họ chẳng hề hay biết về chất liệu vải rẻ tiền của bộ quần áo họ mặc, dù họ vẫn giả vờ như thể nó đẹp như lụa hay vải voan. Kể từ khi chúng tôi mất đi tài sản, những người bạn cũ của họ đã khéo léo lảng tránh, vì vậy các chị em tôi vẫn cứ kiêu căng như thể những người dân nghèo trong làng là một tầng lớp xã hội hạng hai. Tôi nhấp một ngụm nước nóng từ cốc của mình - chúng tôi thậm chí không đủ tiền mua trà cho mấy ngày nay - khi Nesta tiếp tục câu chuyện với Elain. "Vậy chị đã nói với anh ấy, 'Nếu anh nghĩ mình có thể hỏi tôi một cách thản nhiên như vậy, thưa ngài, tôi sẽ từ chối!' Và em biết Tomas đã nói gì không?" Chống tay lên bàn và mắt mở to, Elain lắc đầu. “Tomas Mandray?” tôi ngắt lời. “Con trai thứ của người đốn củi sao?” Đôi mắt xanh xám của Nesta híp lại. "Đúng," chị nói, rồi quay sang nói với Elain lần nữa. “Anh ta muốn gì?” Tôi liếc nhìn về phía cha. Không có phản ứng - không có dấu hiệu lo lắng hay biểu hiện rằng ông đang lắng nghe. Mất đi trong làn sương mù ký ức bao phủ, ông mỉm cười nhẹ nhàng nhìn Elain, người duy nhất trong chúng tôi thật sự quan tâm đến ông. “Anh ta muốn cưới chị ấy,” Elain nói trong khi mơ màng. Tôi chớp mắt. Nesta nghiêng đầu. Tôi đã từng thấy những kẻ săn mồi dùng động tác đó. Thỉnh thoảng tôi tự hỏi liệu sự kiên định của chị ấy có thể giúp chúng tôi sống tốt hơn - thậm chí là hơn như thế - nếu chị ấy không quá bận tâm về địa vị đã mất. “Có vấn đề gì không, Feyre?” Chị ta gọi tên tôi như một lời lăng mạ, và hàm tôi đau nhức vì phải nghiến chặt lại. Cha tôi cựa mình trên ghế, chớp mắt, và dù biết rằng phản ứng với lời chế nhạo của chị ta là ngu ngốc, tôi vẫn nói, “Chị muốn lấy con trai thợ đốn củi trong khi chị không thể chặt củi cho chúng ta sao?” Nesta ưỡn thẳng vai. “Em chẳng phải chỉ mong bọn chị rời khỏi nhà thôi sao - gả chị và Elain đi để em có đủ thời gian vẽ nên những kiệt tác vĩ đại của mình.” Chị ta chế nhạo cột hoa mao địa hoàng mà tôi đã vẽ dọc mép bàn - màu sắc quá tối và quá xanh, không hề có đốm trắng bên trong những chiếc kèn hoa, nhưng tôi đã vẽ tạm, dù điều đó khiến tôi khá thất vọng vì không có sơn màu trắng, để tạo ra thứ gì đó không hoàn hảo nhưng sẽ tồn tại mãi mãi. Tôi kìm nén không để mình lấy tay che bức tranh. Có lẽ ngày mai tôi sẽ cạo sạch nó khỏi bàn. “Tin em đi,” tôi nói với chị ta, “ngày chị muốn lấy một người xứng đáng, em sẽ đích thân đến nhà anh ta và để chị đi. Nhưng chị sẽ không kết hôn với Tomas.” Cánh mũi của Nesta khẽ phập phồng. “Em chẳng làm được gì đâu. Clare Beddor nói với chị chiều nay rằng Tomas sẽ cầu hôn chị bất cứ lúc nào. Và rồi chị sẽ không bao giờ phải ăn mấy thứ thừa thãi này nữa.” Chị ta thêm vào với một nụ cười nhạt, “Ít nhất thì chị cũng không phải chui vào đống cỏ khô với Isaac Hale như một con thú.” Cha tôi khẽ ho một tiếng đầy bối rối, ánh mắt hướng về chiếc giường bên bếp lửa. Ông chưa bao giờ nói một lời chống lại Nesta, có lẽ vì sợ hãi hoặc tội lỗi, và rõ ràng ông cũng không định bắt đầu nó bây giờ, ngay cả khi đây là lần đầu tiên ông nghe thấy chuyện về Isaac. Tôi đặt hai bàn tay lên bàn, ánh mắt găm chặt vào Nesta. Elain khẽ rút tay mình ra khỏi chỗ để gần đó, như thể bụi bẩn và máu bám dưới móng tay tôi có thể nhảy sang làn da trắng như sứ của chị ấy. “Gia đình Tomas chẳng khấm khá hơn chúng ta là mấy,” tôi nói, cố gắng kiềm chế không gầm lên. “Chị sẽ chỉ là thêm một cái miệng ăn. Nếu anh ta không biết điều này, thì chắc chắn cha mẹ anh ta phải biết.” Nhưng Tomas biết - bọn tôi đã từng chạm mặt nhau trong rừng. Tôi đã nhìn thấy ánh nhìn đầy đói khát tuyệt vọng trong mắt anh ta khi phát hiện tôi đang mang theo một xâu thỏ. Tôi chưa bao giờ giết người, nhưng ngày hôm đó, con dao săn của tôi như một gánh nặng đè bên hông. Từ đó, tôi luôn tránh xa anh ta. "Chúng ta không thể lo nổi của hồi môn," tôi tiếp tục, giọng nói tuy kiên quyết nhưng đã hạ thấp hơn. "Cho cả hai chị." Nếu Nesta muốn rời đi, thì được thôi. Tốt. Tôi sẽ tiến thêm một bước gần hơn đến cái tương lai tươi sáng và yên bình đó, đến một ngôi nhà tĩnh lặng với đủ thức ăn và thời gian để vẽ tranh thỏa thích. Nhưng chúng tôi chẳng có gì - hoàn toàn chẳng có gì để hấp dẫn bất kỳ kẻ cầu hôn nào chấp nhận đón hai chị tôi ra khỏi căn nhà này. "Bọn chị đang yêu," Nesta tuyên bố, và Elain gật đầu đồng tình. Tôi suýt bật cười - từ khi nào họ chuyển từ mơ mộng về giới quý tộc sang say đắm những người dân tầm thường vậy cơ chứ? "Tình yêu không thể nuôi sống cái bụng đói," tôi phản bác, cố giữ ánh mắt mình vững vàng nhất có thể. Cứ như thể tôi vừa đụng chạm chị ấy, Nesta bật khỏi chỗ ngồi trên ghế dài. "Em chỉ đang ghen tị thôi. Chị nghe nói rằng Isaac sắp cưới một cô gái làng Greenfield vì một món hồi môn kha khá." Tôi cũng đã nghe - Isaac đã phàn nàn về điều đó trong lần cuối chúng tôi gặp nhau. "Ghen tị à?" Tôi chậm rãi nói, cố gắng đào sâu để chôn giấu cơn giận của mình. "Chúng ta chẳng có gì để mà cho họ - không của hồi môn; thậm chí không có cả gia súc. Trong khi Tomas có thể muốn cưới chị... thì chị chỉ là một gánh nặng." “Em thì biết gì chứ?” Nesta thở mạnh. “Em chỉ là một con thú hoang nửa người, dám cả gan quát tháo ra lệnh mọi người suốt ngày. Cứ tiếp tục đi, và một ngày nào đó - một ngày nào đó, Feyre, sẽ chẳng còn ai nhớ đến em hay bận tâm rằng em đã từng tồn tại.” Với những lời cuối, Nesta quay gót rời khỏi, bước chân nặng nề. Elain ngay lập tức chạy theo, lời an ủi của chị nhẹ nhàng nhưng vô ích. Họ đóng sầm cửa phòng ngủ, tiếng động vang lên đủ lớn để làm rung rinh những chiếc đĩa trên bàn. Tôi đã nghe những lời đó nhiều lần trước đây rồi - và biết chị ấy chỉ lặp lại chúng vì tôi đã co rúm lại lần đầu khi chị thốt lên. Dù vậy, chúng vẫn cứ làm bỏng rát tâm can tôi. Tôi nhấp một ngụm từ chiếc cốc đã bị mẻ. Chiếc ghế gỗ cha tôi đang ngồi kêu lên khi ông cựa mình. Tôi uống thêm một ngụm nữa rồi nói: “Cha nên nói chuyện lý lẽ với chị ấy đi.” Ông nhìn vào vết cháy xém trên bàn. “Cha có thể nói gì đây? Nếu đó là về tình yêu -” “Chắc chắn không phải là tình yêu, ít nhất là từ phía anh ta. Không thể là tình yêu đối với một gia đình tồi tệ như vậy. Con đã thấy cách anh ta hành xử ở làng - chỉ có một điều anh ta muốn từ chị ấy, và đó không phải là việc cầm tay và ở bên chị ấy -” “Chúng ta cần sự hy vọng nhiều như việc cần bánh mì và thịt,” ông ngắt lời, khoảnh khắc ánh mắt sáng ông lên hiếm hoi. “Chúng ta cần hy vọng, nếu không thì không thể chịu đựng được. Vì vậy hãy để Nesta giữ lấy hy vọng này, Feyre. Để con bé tưởng tượng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Một thế giới tốt đẹp hơn.” Tôi đứng dậy và rời khỏi bàn, nắm chặt hai bàn tay, nhưng không có nơi nào để trốn vào trong ngôi nhà hai phòng của chúng tôi. Tôi nhìn vào bức tranh hoa mao địa hoàng đã bị phai màu ở cạnh bàn. Những cánh hoa bên ngoài đã xước và phai màu, phần thân dưới gần như đã mất hẳn. Chỉ trong vài năm, nó sẽ biến mất - không để lại dấu vết gì rằng nó đã từng tồn tại. Rằng tôi đã từng tồn tại. Khi tôi nhìn cha, ánh mắt tôi trở nên cứng rắn. “Không có cái gọi là như thế đâu.” ***
Dịch: sanshiro CHƯƠNG 3 Hình minh họa Nền tuyết phủ bị giẫm nát trên con đường dẫn vào làng, lốm đốm những vệt nâu và đen từ những chiếc xe ngựa đi qua. Elain và Nesta khẽ tặc lưỡi và nhăn mặt khi chúng tôi đi dọc theo con đường đó, cố né tránh những chỗ đặc biệt kinh tởm. Tôi biết tại sao họ đi cùng - chỉ cần nhìn thoáng qua những tấm da mà tôi đã gấp gọn trong túi xách, họ liền quàng áo choàng và đi theo. Tôi chẳng buồn bắt chuyện với họ, vì họ đã không thèm nói một lời với tôi kể từ tối qua, dù Nesta đã dậy từ lúc trời vừa sáng để chẻ củi. Có lẽ vì chị ấy biết hôm nay tôi sẽ đem bán những tấm da ở chợ và sẽ mang tiền về nhà. Họ lặng lẽ theo sau tôi trên con đường độc đạo len lỏi qua những cánh đồng phủ đầy tuyết, suốt đoạn đường đến ngôi làng tồi tàn của chúng tôi. Những ngôi nhà bằng đá trong làng trông bình thường và tẻ nhạt, càng trở nên ảm đạm hơn bởi cái vẻ u ám của mùa đông. Nhưng hôm nay là ngày họp chợ, nghĩa là quảng trường nhỏ ở trung tâm ngôi làng sẽ đông đúc những người bán hàng gan dạ đã chịu đựng cái lạnh buốt của buổi sáng. Đọc tiếp Chương 3 Cách đó một dãy nhà, hương thơm của đồ ăn nóng hổi thoảng qua - mùi gia vị khơi gợi ký ức mơ hồ mời gọi. Đằng sau, Elain khẽ rên rỉ. Gia vị, muối, đường - những thứ xa xỉ với hầu hết dân làng, hoàn toàn nằm ngoài khả năng của gia đình chúng tôi. Nếu hôm nay việc buôn bán thuận lợi, có lẽ tôi sẽ có đủ tiền để mua thứ gì đó ngon lành cho chúng tôi. Tôi vừa định mở miệng đề nghị thì chúng tôi rẽ qua góc phố và suýt va vào nhau khi tất cả đều dừng lại. “Nguyện Ánh Sáng Bất Diệt chiếu rọi lên các chị, hỡi những người chị em,” cô gái trẻ trong bộ áo choàng nhạt màu đứng ngay trước mặt chúng tôi nói. Nesta và Elain tặc lưỡi; tôi cố nén tiếng thở dài. Thật hoàn hảo.Chính xác thứ tôi cần vào ngày họp chợ là sự xuất hiện của Những Đứa Con Được Ban Phước, quấy rầy và kích động mọi người. Các trưởng làng thường chỉ cho phép bọn họ ở lại vài giờ, nhưng sự hiện diện của đám cuồng tín này - những kẻ vẫn tôn thờ High Fae - luôn khiến mọi người bồn chồn. Và cũng làm tôi có cảm giác ấy. Ngày xưa, High Fae từng là những kẻ thống trị chúng tôi thay vì các vị thần. Và chắc chắn họ chưa từng nhân từ trong việc cai trị. Cô gái trẻ duỗi đôi tay trắng nhợt như ánh trăng ra trong một cử chỉ chào đón, vòng tay bằng bạc - bạc thật - kêu leng keng nơi cổ tay. “Các chị có thể dành chút thời gian để lắng nghe Lời Được Ban Phước?” "Không," Nesta khinh khỉnh nói, lờ đi đôi tay của cô gái và đẩy Elain bước tiếp. "Chúng tôi không có." Mái tóc đen buông xõa của cô gái lấp lánh dưới ánh ban mai, và gương mặt tươi tắn, sạch sẽ của cô rạng rỡ khi cô mỉm cười duyên dáng. Phía sau cô là năm tín đồ khác, cả nam lẫn nữ, tóc dài như chưa từng cắt - tất cả đều đang dõi mắt về khu chợ phía trước để tìm những người trẻ để làm phiền. "Sẽ chỉ mất một phút thôi," cô gái nói, bước chắn đường của Nesta. Thật ấn tượng - thực sự ấn tượng - khi thấy Nesta đứng thẳng như một mũi tên, vai vuông vức và nhìn chằm chằm xuống cô gái trẻ kia như thể một nữ hoàng không ngai vàng. “Hãy đi rao giảng những lời cuồng tín vô nghĩa của cô cho một kẻ ngốc nào đó. Ở đây cô sẽ chẳng tìm được ai cải đạo đâu.” Cô gái co rúm lại, bóng tối thoáng qua đôi mắt nâu của cô ta. Tôi kìm lại một cái nhăn mặt. Có lẽ đó không phải cách hay nhất để đối phó với họ, vì nếu chọc tức, họ có thể trở thành một sự phiền toái thực sự - Nesta nâng tay lên, kéo tay áo khoác xuống để lộ chiếc vòng sắt ở cổ tay. Cùng loại với chiếc Elain đang đeo; họ đã mua đồ trang sức đôi này nhiều năm trước. Cô gái kia há hốc miệng, đôi mắt mở to. “Cô thấy cái này chứ?” Nesta gằn giọng, bước lên một bước. Cô gái lùi lại một bước. “Đây mới là thứ cô nên đeo. Không phải mấy chiếc chuông bạc kia để dụ dỗ lũ ma thú đó.” “Cô dám đeo cái thứ xấu xa này trước những người bạn bất tử của chúng ta - ” “Cút đi rao giảng ở làng khác,” Nesta nhổ nước bọt. Hai bà vợ nông dân mũm mĩm và xinh xắn khoác tay nhau đi ngang qua trên đường đến chợ. Khi đến gần nhóm tín đồ, gương mặt họ nhăn nhó với cùng một biểu cảm ghê tởm. “Con điếm yêu tiên,” một trong hai người ném về phía cô gái trẻ. Tôi không thể không đồng tình. Những tín đồ giữ im lặng. Một người dân làng khác - dư dả để đeo một chiếc vòng cổ bằng sắt quanh cổ cô ta - nheo mắt, môi trên nhếch lên để lộ răng. “Bọn ngốc các ngươi không hiểu những con quái vật đó đã làm gì với chúng ta suốt bao thế kỷ sao? Chúng vẫn làm trò để làm gì, khi chúng có thể thoát tội? Các ngươi đáng phải nhận kết cục dưới tay bọn tiên tộc. Lũ ngu ngốc và đĩ điếm, tất cả các ngươi.” Nesta gật đầu đồng tình với những người phụ nữ khi họ tiếp tục bước đi. Chúng tôi quay lại nhìn cô gái trẻ vẫn còn đứng trước mặt, và ngay cả Elain cũng nhíu mày tỏ vẻ chán ghét. Nhưng cô gái trẻ hít một hơi thật sâu, khuôn mặt lại trở nên bình thản, và nói: “Tôi cũng từng sống trong sự ngu muội như thế, cho đến khi tôi nghe Lời Được Ban Phước. Tôi lớn lên ở một ngôi làng rất giống nơi này - thật ảm đạm và u ám. Nhưng chưa đầy một tháng trước, một người bạn của anh họ tôi đã đến biên giới như một lễ vật của chúng tôi dành cho vùng đất Prythian - và cô ấy không bị gửi trả lại. Giờ đây, cô ấy sống trong sự giàu sang và thoải mái với tư cách là vợ của một High Fae, và các bạn cũng có thể như vậy, nếu dành một chút thời gian để -” "Có lẽ cô ta đã bị ăn thịt rồi," Nesta nói. "Đó là lý do cô ta chưa quay về." "Hoặc tệ hơn," tôi nghĩ, nếu thực sự có một High Fae dính líu đến việc đưa một con người vào Prythian. Tôi chưa bao giờ chạm trán với những High Fae tàn ác, trông giống con người, cai trị chính Prythian, hay những tiên nhân cư ngụ trên vùng đất của họ, với vảy, cánh và những cánh tay dài, gầy guộc có thể kéo bạn sâu xuống dưới đáy của một hồ nước bị lãng quên. Tôi không biết phải đối mặt với điều nào sẽ tệ hơn. Khuôn mặt của nữ tín đồ căng lại. "Những vị chủ nhân nhân từ của chúng ta sẽ không bao giờ làm hại chúng ta. Prythian là một vùng đất của hòa bình và sự sung túc. Nếu họ ban phước bằng sự chú ý của họ, bạn sẽ vui mừng khi được sống với họ." Nesta đảo mắt. Elain liếc nhìn qua lại giữa chúng tôi và khu chợ phía trước - về phía những dân làng cũng đang quan sát. Đã đến lúc rời đi. Nesta mở miệng định nói tiếp, nhưng tôi bước lên chen giữa họ, lướt mắt qua bộ áo choàng xanh nhạt của cô gái, những món trang sức bạc trên người cô, làn da sạch sẽ không tì vết. Không một vết bẩn hay dấu tích nào. “Cô đang chiến đấu cho một trận chiến không cân sức,” tôi nói với cô ta. “Một lý tưởng đáng giá.” Cô gái mỉm cười rạng rỡ. Tôi nhẹ nhàng đẩy Nesta bước đi và nói với nữ tín đồ, “Không, nó không phải vậy.” Tôi có thể cảm nhận ánh mắt của những tín đồ khác vẫn dán chặt vào chúng tôi khi chúng tôi bước vào quảng trường khu chợ tấp nập, nhưng tôi không ngoái lại. Họ sẽ sớm rời đi thôi, đến một thị trấn khác để rao giảng. Chúng tôi sẽ phải đi đường vòng ra khỏi làng để tránh họ. Khi đã đi đủ xa, tôi liếc qua vai nhìn các chị mình. Khuôn mặt của Elain vẫn giữ nguyên nét cau có, nhưng đôi mắt của Nesta đầy bão tố, đôi môi mím chặt. Tôi tự hỏi liệu chị ấy có quay lại chỗ nữ tín đồ kia để gây sự không. Không phải việc của tôi - ít nhất là lúc này. “Em sẽ gặp hai chị ở đây sau một giờ,” tôi nói, không để họ kịp bám theo trước khi lách người vào quảng trường đông đúc. Tôi mất mười phút để cân nhắc ba sự lựa chọn của mình. Gồm hai người mua quen thuộc: người thợ đóng giày già dặn và người thợ may mắt sắc, những người đến chợ từ một thị trấn gần đây. Và một người tôi không biết: một người phụ nữ to lớn ngồi trên mép đài phun nước đã hỏng ở quảng trường, không có xe đẩy hay sạp hàng, nhưng trông như thể cô ta đang quản lý mọi thứ. Những vết sẹo và vũ khí trên người cô ta đủ để nhận ra ngay. Một tay lính đánh thuê. Tôi có thể cảm nhận ánh mắt của người thợ đóng giày và người thợ may đang dõi theo mình, cảm nhận sự giả vờ không quan tâm của họ khi nhìn vào chiếc túi tôi mang. Được thôi - xem ra hôm nay lại là một ngày như thế. Tôi tiến lại gần tay lính đánh thuê, mái tóc dày, đen nhánh của cô được cắt ngắn ngang cằm. Khuôn mặt rám nắng của cô như được chạm khắc từ đá granite, và đôi mắt đen của cô hơi nheo lại khi nhìn thấy tôi. Một đôi mắt thật thú vị - không chỉ là một sắc đen đơn thuần, mà... nhiều sắc thái, với những ánh nâu lấp lánh giữa bóng tối. Tôi cố gạt bỏ phần bản năng vô ích trong tâm trí, cái phần khiến tôi nghĩ về màu sắc, ánh sáng và hình dáng, rồi giữ thẳng vai khi cô ta đánh giá tôi như một mối đe dọa tiềm tàng hoặc một người sẽ thuê mình. Những thứ vũ khí trên người cô - sáng loáng và đáng sợ - đủ để khiến tôi nuốt khan. Và dừng lại cách cô khoảng hai bước chân. "Tôi không trao đổi hàng hóa lấy công sức của mình," cô nói ngắn gọn với một giọng điệu mà tôi chưa từng nghe qua. "Tôi chỉ nhận tiền xu." Một vài dân làng đi ngang cố gắng hết sức để không tỏ ra quá quan tâm đến cuộc trò chuyện của chúng tôi, đặc biệt khi tôi nói, “Vậy thì cô sẽ không may mắn gì ở nơi như thế này.” Cô ta vẫn ngồi nhưng trông vẫn đồ sộ. "Cô có vấn đề gì với ta à, cô gái?" Cô ta có thể ở độ tuổi từ hai mươi lăm đến ba mươi, nhưng tôi đoán mình trông như một cô bé trong mắt cô ta với những lớp áo chồng lên nhau, gầy gò vì đói. “Tôi có một tấm da sói và một tấm da nai để bán. Tôi nghĩ có thể cô sẽ quan tâm đến việc mua chúng.” “Cô trộm chúng à?” “Không.” Tôi giữ ánh mắt cô ta. “Tôi tự săn được. Tôi thề đấy.” Cô ta đưa đôi mắt đen ấy lướt qua tôi một lần nữa. “Như thế nào.” Không phải câu hỏi - mà là mệnh lệnh. Có lẽ cô ta từng gặp những kẻ không xem trọng lời thề, không coi từ ngữ là ràng buộc. Và đã trừng phạt họ thích đáng. Vì vậy, tôi kể cho cô ta nghe cách tôi hạ gục chúng, và khi tôi kết thúc, cô ta phẩy tay về phía túi xách của tôi. “Đưa tôi xem.” Tôi lấy ra cả hai tấm da được gấp cẩn thận. “Cô không nói dối về kích thước của con sói,” cô ta lẩm bẩm. “Nhưng trông cũng không giống như ma thú.” Cô ta xem xét chúng với ánh mắt chuyên nghiệp, đưa tay rà soát qua lại. Cô ta nêu giá. Tôi chớp mắt - nhưng kìm lại để không chớp lần thứ hai. Cô ta trả giá cao hơn những gì tôi mong đợi. Cô ta nhìn ra phía sau tôi. “Tôi đoán hai cô gái đang đứng xem từ phía bên kia quảng trường là chị em của cô. Cả ba đều có mái tóc ánh vàng và vẻ đói khát ấy.” Đúng vậy, họ vẫn đang cố hết sức để nghe lén mà không bị phát hiện. “Tôi không cần lòng thương hại của cô.” “Tôi biết, nhưng cô cần tiền của tôi, và những thương nhân khác đều keo kiệt cả buổi sáng. Ai cũng bị phân tâm bởi đám cuồng tín mắt nai đang kêu ca bên kia quảng trường.” Cô ta hất cằm về phía đám Những Đứa Con Được Ban Phước, họ vẫn rung chuông bạc và nhảy vào đường đi của bất kỳ ai cố bước qua. Khi tôi quay lại nhìn, tay lính đánh thuê đang mỉm cười. “Tùy cô thôi, nhóc.” “Tại sao?” Cô ta nhún vai. “Ngày xưa, có người đã làm điều tương tự với tôi và người thân của tôi, vào lúc chúng tôi cần nhất. Tôi nghĩ đã đến lúc trả lại những gì mình phải trả.” Tôi lại nhìn cô ta, cân nhắc. “Cha tôi có vài món chạm khắc gỗ, tôi có thể tặng cho cô nếu cô muốn để cuộc giao dịch này trông công bằng hơn.” “Tôi đi đường dài và không cần chúng. Nhưng mấy cái này” - cô ta vỗ lên những tấm da thú trong tay - “đỡ cho tôi không phải săn chúng.” Tôi gật đầu, má nóng bừng khi cô ta với tay lấy túi tiền bên trong chiếc áo khoác nặng nề. Túi đầy và nặng trĩu với ít nhất là bạc, có lẽ cả vàng, nếu dựa theo tiếng leng keng. Đám lính đánh thuê thường được trả hậu hĩnh ở vùng đất này. Lãnh thổ của chúng tôi quá nhỏ và nghèo để duy trì một đội quân thường trực giám sát bức tường biên giới với Prythian, và dân làng chúng tôi chỉ có thể dựa vào sức mạnh của Hiệp ước được lập ra năm trăm năm trước. Nhưng tầng lớp thượng lưu đủ giàu để thuê lính đánh thuê, như người phụ nữ này, bảo vệ đất đai của họ giáp ranh với cõi bất tử. Đó chỉ là một ảo tưởng về sự an toàn, giống như những dấu ấn khắc trên ngưỡng cửa nhà chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều biết, tận sâu bên trong, rằng chẳng có gì có thể chống lại tiên tộc. Ai cũng được nghe điều đó, bất kể địa vị hay giai cấp, từ lúc mới sinh ra, những lời cảnh báo ru chúng tôi trên nôi, những bài đồng dao được hát vang trong sân trường. Một trong những High Fae có thể biến xương của bạn thành tro bụi từ khoảng cách trăm bước chân. Dù vậy, chị em tôi chưa bao giờ thấy điều đó xảy ra. Nhưng chúng tôi vẫn cố gắng tin rằng một điều gì đó - bất kỳ điều gì - có thể chống lại chúng, nếu chúng tôi từng phải đối mặt với chúng. Có hai gian hàng trong chợ bán những thứ khắc chế những nỗi sợ đó, cung cấp bùa chú, đồ trang sức, câu thần chú và những mẫu sắt. Tôi không đủ tiền để mua chúng, và nếu chúng thật sự có tác dụng, có lẻ chúng chỉ có thể cho chúng tôi vài phút chuẩn bị. Chạy trốn là vô ích; chiến đấu cũng vậy. Nhưng Nesta và Elain vẫn đeo vòng sắt mỗi khi họ ra khỏi căn nhà. Cả Isaac cũng có một chiếc vòng sắt quanh cổ tay, lúc nào cũng giấu dưới tay áo. Anh từng đề nghị mua cho tôi một chiếc, nhưng tôi đã từ chối. Nó có cảm giác quá riêng tư, cứ giống một khoản nợ… một lời nhắc nhở vĩnh viễn về việc chúng tôi là gì và không phải là gì đối với nhau. Tay lính đánh thuê chuyển những đồng tiền vào lòng bàn tay đang chờ đợi của tôi, và tôi nhét chúng vào túi, cảm giác nặng nề như một tảng đá mài. Chắc chắn các chị của tôi đã nhìn thấy số tiền và họ đang suy nghĩ cách để thuyết phục tôi đưa cho họ một ít. “Cảm ơn,” tôi nói với tay lính đánh thuê, cố gắng nhưng không thể ngăn cơn chua chát trong giọng nói khi tôi cảm nhận được các chị đang tiến lại gần, như những con kền kền vây quanh xác chết. Tay lính đánh thuê vuốt ve tấm da sói. “Một lời khuyên, từ một thợ săn đến một thợ săn khác.” Tôi nhướng mày. “Đừng đi sâu vào rừng. Tôi thậm chí không dám đến gần nơi cô đã đến hôm qua. Một con sói kích thước này chỉ là chuyện nhỏ so với những vấn đề khác. Ngày càng nhiều người kể lại những câu chuyện về những thứ đó vượt qua bức tường.” Một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng tôi. “Chúng - chúng có định tấn công không?” Nếu điều đó là sự thật, tôi sẽ tìm cách đưa gia đình ra khỏi vùng đất ẩm ướt và khốn khổ của chúng tôi, rồi hướng về phía Nam - ra xa khỏi bức tường vô hình đã chia cắt thế giới của chúng tôi trước khi chúng có thể vượt qua nó. Từ xưa, rất lâu trước đây và suốt hàng thiên niên kỷ sau đó, chúng tôi từng là nô lệ cho các chúa tể High Fae. Khi ấy, chúng tôi đã xây dựng cho họ những nền văn minh vĩ đại, rộng lớn bằng máu và mồ hôi của mình, xây những ngôi đền để thờ những vị thần hoang dã của họ. Vì vậy, chúng tôi đã nổi dậy trên mọi lãnh thổ. Cuộc chiến đã diễn ra vô cùng đẫm máu, tàn khóc đến nỗi nó chỉ kết thúc khi sáu Nữ hoàng phàm trần liên minh tạo ra Hiệp ước để cuộc tắm máu ngừng lại ở cả hai bên và bức tường được xây dựng: Phía Bắc của thế giới chúng tôi nhường lại cho các High Fae và tiên tộc, những người mang theo phép thuật của họ; còn Phía Nam là chúng tôi, những kẻ phàm trần hèn nhát, bị buộc phải tìm cách kiếm sống từ đất đai. “Không ai biết Fae đang lên kế hoạch gì,” tay lính đánh thuê nói, khuôn mặt cô lạnh như đá. “Chúng ta không biết liệu dây xích của các Đấng Chúa Tể đang lỏng lẻo hay đây là những cuộc tấn công có chủ đích. Tôi từng bảo vệ cho một quý tộc già nói rằng tình hình đã tồi tệ hơn trong suốt năm mươi năm qua. Hai tuần trước, ông ta đã lên thuyền đi về phía Nam và bảo tôi nên rời đi nếu tôi khôn ngoan. Trước khi rời đi, ông ta thú nhận rằng mình đã nhận được tin từ một người bạn rằng vào giữa đêm khuya, một bầy martax đã vượt qua bức tường và xé nát nửa ngôi làng của ông ta.” “Martax?” Tôi thở nhẹ. Tôi biết có nhiều loại ma thú khác nhau, chúng đa dạng như bất kỳ loài động vật nào khác, nhưng tôi chỉ biết một vài loài theo tên. Đôi mắt tối của tay lính đánh thuê chớp nhẹ. “Thân nó to như gấu, đầu giống như sư tử và có ba hàng răng sắc hơn cả răng cá mập. Và tàn ác hơn tất cả ba loài cộng lại. Chúng để lại những người dân trong tình trạng tan tành, quý tộc đó nói.” Dạ dày tôi quặn lại. Phía sau chúng tôi, các chị tôi trông thật mong manh, làn da nhợt nhạt của họ thật quá mỏng manh và dễ tổn thương. Đối với thứ như martax, chúng tôi chẳng bao giờ có cơ hội. Những Đứa Con Được Ban Phước là những kẻ ngốc cuồng tín. "Vậy chúng ta không biết tất cả những cuộc tấn công này có ý nghĩa gì," tay lính đánh thuê tiếp tục, "chỉ biết rằng nó mang lại nhiều hợp đồng cho tôi, và tốt nhất cô nên giữ mình thật xa khỏi bức tường. Nhất là khi các High Fae bắt đầu xuất hiện, hoặc tệ hơn, một trong những Đấng Chúa Tể. Họ sẽ biến martax trông như những con chó." Tôi nhìn chằm chằm vào đôi tay đầy sẹo của cô ta, nứt nẻ vì lạnh. "Cô đã từng đối mặt với một loại ma thú nào khác chưa?" Đôi mắt cô ta khép lại. "Cô không muốn biết đâu, cô gái, trừ khi cô muốn nôn hết bữa sáng của mình." Tôi thật sự cảm thấy buồn nôn và lo lắng. "Liệu nó có nguy hiểm hơn martax không?" Tôi dám hỏi. Người phụ nữ kéo tay áo chiếc áo khoác dày của mình lên, để lộ cánh tay rám nắng, cơ bắp cuồn cuộn, điểm xuyết những vết sẹo ghê rợn, xoắn lại. Hình dáng của chúng rất giống - “Nó không có sức mạnh thô bạo hay kích thước của martax,” cô ta nói, “nhưng vết cắn của nó chứa đầy độc tố. Hai tháng là khoảng thời gian tôi nằm liệt giường; bốn tháng cho đến khi tôi có đủ sức để đi lại.” Cô kéo ống quần lên. Đẹp, tôi nghĩ, mặc dù sự kinh hoàng của nó xoắn xuýt trong bụng tôi. Trên làn da rám nắng của cô, các tĩnh mạch đen hoàn toàn, như mạng nhện, và lan ra như sương giá. “Thầy thuốc nói không có gì có thể chữa được, rằng tôi may mắn còn đi được với độc tố vẫn còn trong chân. Có thể một ngày nào đó nó sẽ giết tôi, nó sẽ làm tôi tàn phế. Nhưng ít nhất tôi sẽ ra đi khi biết rằng tôi đã giết nó trước.” Máu trong cơ thể tôi dường như đông lại khi cô ấy hạ ống quần xuống. Nếu có ai trong quảng trường đã nhìn thấy, không ai dám nói gì hay lại gần hơn. Và ngày hôm nay đã quá đủ đối với tôi. Vì vậy, tôi lùi lại một bước, lấy lại bình tĩnh trước những gì cô ấy đã nói và đã cho tôi thấy. “Cảm ơn vì những lời cảnh báo,” tôi nói. Sự chú ý của cô ấy liếc về phía sau tôi, và cô ấy nở một nụ cười nhẹ đầy thích thú. “Chúc may mắn.” Sau đó, một bàn tay thon dài nắm chặt vào cánh tay tôi, kéo tôi đi. Tôi biết ngay đó là Nesta trước khi nhìn vào chị ấy. “Bọn chúng nguy hiểm,” Nesta hổn hển, ngón tay của cô ấy cắm sâu vào cánh tay tôi khi tiếp tục kéo tôi ra khỏi sự hiện diện của tay đánh thuê. “Đừng lại gần chúngnữa.” Tôi nhìn chị ấy một lúc, rồi nhìn Elain, khuôn mặt chị ấy đã trở nên tái nhợt và căng thẳng. “Có chuyện gì em cần biết không?” Tôi hỏi nhẹ nhàng. Tôi không thể nhớ lần cuối cùng Nesta cảnh báo tôi về bất cứ điều gì; Elain là người duy nhất mà chị ấy thực sự quan tâm. “Chúng là những tên côn đồ, và sẽ lấy bất kỳ xu nào chúng có thể lấy được, ngay cả bằng việc chém giết.” Tôi liếc nhìn về phía tay lính đánh thuê, người vẫn đang xem xét những tấm da mới. “Cô ta đã cướp của chị sao?” “Không phải cô ấy,” Elain thì thầm. “Một người khác đã đi qua. Bọn chị chỉ có vài đồng, và hắn ta nổi giận, nhưng” “Tại sao chị không tố cáo hắn hoặc nói với em?” “Em có thể làm gì?” Nesta nhếch mép. “Thách hắn ta với cây cung và mũi tên của em à? Và ai trong cái chốn bẩn thỉu này lại quan tâm nếu chúng ta tố cáo chuyện gì?” “Còn Tomas Mandray của chị thì sao?” Tôi nói một cách lạnh lùng. Mắt Nesta lóe lên, nhưng một chuyển động phía sau tôi thu hút sự chú ý của chị ấy, và chị ấy nở một nụ cười mà tôi đoán là cố gắng tỏ ra ngọt ngào, có lẽ là khi chị ấy nhớ đến số tiền tôi đang mang theo. “Bạn của em đang đợi em kìa.” Tôi quay lại. Quả thật, Isaac đang quan sát từ bên kia quảng trường, hai tay khoanh trước ngực khi anh dựa vào một tòa nhà. Dù là con trai cả của người nông dân duy nhất khá giả trong làng, anh vẫn gầy guộc vì mùa đông, và mái tóc nâu của anh đã trở nên rối bù. Tương đối điển trai, nói ít, và kiệm lời, nhưng lại có một thứ bóng tối ẩn sâu bên trong, thứ bóng tối mà chúng tôi đều cảm nhận được, sự thấu hiểu chung về cuộc sống khốn khổ mà chúng tôi đang sống và sẽ luôn phải sống. Chúng tôi đã biết nhau một cách mơ hồ suốt nhiều năm kể từ khi gia đình tôi chuyển đến làng, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều về anh cho đến khi chúng tôi tình cờ đi bộ cùng nhau dọc theo con đường chính vào một buổi chiều. Chúng tôi chỉ nói về những quả trứng anh mang ra chợ, và tôi đã ngắm nhìn sự đa dạng màu sắc trong giỏ trứng anh mang, những màu nâu, nâu nhạt và những sắc xanh lam, xanh lục nhạt. Đơn giản, dễ dàng, có lẽ hơi ngượng ngùng, nhưng khi anh rời đi và để tôi trở lại căn nhà của mình, tôi cảm thấy không còn quá … cô đơn. Một tuần sau, tôi kéo anh vào cái chuồng cũ kỹ đó. Anh là mối tình đầu và duy nhất của tôi trong suốt hai năm qua. Đôi khi, chúng tôi gặp nhau mỗi đêm trong suốt một tuần, những lúc khác lại không gặp nhau suốt một tháng. Nhưng mỗi lần đều giống nhau: một cơn vội vã cởi bỏ quần áo, những hơi thở chung, những chiếc lưỡi và những chiếc răng. Thỉnh thoảng, chúng tôi trò chuyện hoặc đúng hơn, anh nói về những áp lực và gánh nặng mà cha anh đặt lên anh. Thường thì, chúng tôi không nói một lời nào trong suốt thời gian đó. Tôi không thể nói rằng chúng tôi làm tình một cách điêu luyện, nhưng đó vẫn là một sự giải tỏa, một sự nghỉ ngơi, một chút ích kỷ. Giữa chúng tôi không có tình yêu, và chưa từng có, ít nhất là theo những gì tôi nghĩ khi người ta nói về tình yêu, nhưng một phần trong tôi đã cảm thấy đau khi anh ấy nói rằng sẽ sớm kết hôn. Tôi chưa đủ tuyệt vọng để yêu cầu anh gặp tôi sau khi đã lấy vợ. Isaac nghiêng đầu theo một cử chỉ quen thuộc rồi lững thững bước đi xuống phố, ra khỏi làng và đến cái chuồng cũ kỹ, nơi anh sẽ đợi. Chúng tôi chưa bao giờ kín đáo về mối quan hệ với nhau, nhưng chúng tôi có những biện pháp để không làm nó quá rõ ràng. Nesta tặc lưỡi, khoanh tay lại. “Chị hy vọng bọn em có biện pháp phòng ngừa.” “Giả vờ quan tâm thì hơi muộn rồi,” tôi nói. Nhưng chúng tôi đã cẩn thận. Vì tôi không đủ tiền nên Isaac đã tự mình uống thuốc tránh thai. Anh ấy biết nếu không thì tôi sẽ không chạm vào anh ấy. Tôi thò tay vào túi rút ra đồng hai mươi mark. Elain hít một hơi, và tôi không thèm nhìn hai chị mình khi tôi nhét nó vào lòng bàn tay chị ấy và nói, “Em sẽ gặp lại hai chị ở nhà.” Sau đó, sau một bữa tối thịt nai khác, khi tất cả chúng tôi tụ tập quanh đống lửa trong giờ yên tĩnh trước khi đi ngủ, tôi thấy các chị tôi thì thầm và cười đùa với nhau. Họ đã tiêu hết số tiền xu tôi đưa cho họ - vào việc gì thì tôi không biết, mặc dù Elain đã mang về một chiếc đục mới để cha tôi chạm khắc gỗ. Chiếc áo choàng và đôi bốt mà họ than vãn đêm trước quá đắt. Nhưng tôi đã không mắng họ vì điều đó, không phải khi Nesta ra ngoài lần thứ hai để chặt thêm củi mà không cần sự yêu cầu của tôi. May mắn thay, họ đã tránh được một cuộc đối đầu khác với Những Đứa Con Được Ban Phước. Cha tôi đang ngủ gật trên ghế, cây gậy đặt ngang đầu gối xương xẩu của ông. Đây là thời điểm thích hợp để bàn về chủ đề Tomas Mandray với Nesta. Tôi quay sang chị ấy,định mở miệng nói. Nhưng có một tiếng gầm rú làm tôi gần như điếc cả tai, và các chị tôi hét lên khi tuyết tràn vào nhà. Một hình dạng khổng lồ, gầm gừ xuất hiện ở ngưỡng cửa.
Dịch: sanshiro CHƯƠNG 4 Hình minh họa Tôi không biết chuôi gỗ của con dao săn đã nằm trong tay mình từ lúc nào. Vài khoảnh khắc đầu tiên chỉ là một màn mờ hỗn loạn: tiếng gầm gừ của một con thú khổng lồ với bộ lông màu vàng, tiếng la hét thất thanh của các chị tôi, cái lạnh buốt giá ùa vào phòng, và cả gương mặt hoảng loạn của cha tôi. Không phải một con martax, tôi nhận ra — dù cảm giác nhẹ nhõm đó cũng chỉ tồn tại trong chốc lát. Con thú phải to bằng một con ngựa, và dù cơ thể hắn mang dáng dấp của loài mèo lớn, cái đầu của hắn lại rõ ràng là của một con sói. Tôi không biết phải nghĩ gì về cặp sừng cong như sừng nai tấm mọc ra từ đầu hắn. Nhưng dù là sư tử, chó săn hay nai, thì không thể nghi ngờ khả năng chết người từ những móng vuốt đen sắc như dao găm và những chiếc răng nanh vàng khè của hắn. Nếu tôi ở một mình trong rừng, có lẽ tôi đã để nỗi sợ nuốt chửng mình, có lẽ tôi đã quỵ xuống và khóc lóc cầu xin một cái chết nhanh chóng, gọn gàng. Nhưng tôi không có chỗ cho sự kinh hoàng đó, không cho hắn một chút không gian nào, dù tim tôi đang đập loạn nhịp bên tai. Bằng cách nào đó, tôi đã đứng chắn trước mặt các chị, ngay cả khi sinh vật kia đứng thẳng bằng hai chân sau và gầm lên qua cái miệng đầy răng nanh: “LŨ SÁT NHÂN!” Nhưng lại là một từ khác vang vọng trong tôi: Đọc tiếp Chương 4 Tiên nhân. Những bùa hộ mệnh ngớ ngẩn treo ở ngưỡng cửa nhà chẳng khác gì mạng nhện đối với hắn. Lẽ ra tôi nên hỏi tay đánh thuê kia cách cô ta đã giết một tiên nhân như thế nào. Nhưng cái cổ dày của con thú kia - trông có vẻ là nơi thích hợp cho con dao của tôi. Tôi liều mình liếc nhìn qua vai mình. Các chị tôi hét lên, quỳ rạp bên bức tường cạnh lò sưởi, cha tôi thì cúi rạp người bảo vệ họ. Lại thêm một người nữa để tôi phải bảo vệ. Một cách ngu ngốc, tôi bước thêm một bước về phía tiên nhân, giữ chiếc bàn làm tấm chắn giữa hai chúng tôi, cố gắng chống lại sự run rẩy nơi bàn tay. Cung và ống tên của tôi ở phía bên kia căn phòng - phía sau con thú. Tôi sẽ phải vòng qua hắn để với được mũi tên bằng gỗ sồi. Và phải câu đủ thời gian để kịp bắn. “LŨ SÁT NHÂN!” con thú lại gầm lên, lông gáy dựng đứng. “X-xin… làm ơn,” cha tôi lắp bắp từ phía sau, không thể tìm thấy chút dũng khí nào để bước đến bên tôi. “Dù chúng tôi có làm gì đi nữa… thì đó cũng là do vô ý, và—” “C-ch-chúng tôi không giết ai cả,” Nesta thêm vào, nghẹn ngào trong tiếng nức nở, tay giơ lên che đầu, như thể chiếc vòng sắt nhỏ xíu kia có thể làm được gì trước sinh vật kia. Tôi chộp lấy một con dao ăn khác trên bàn, thứ tốt nhất tôi có thể dùng trừ khi tìm được cách đến chỗ ống đựng tên. “Cút đi,” tôi gằn lên với sinh vật đó, giơ hai con dao ra trước mặt. Không có lấy một mảnh sắt nào trong tầm với mà tôi có thể dùng làm vũ khí - trừ khi tôi ném mấy chiếc vòng tay của chị mình vào hắn. “Cút đi, và biến khỏi đây.” Đôi tay run rẩy khiến tôi gần như không thể giữ chặt lấy chuôi dao. Một cây đinh - tôi thà có một cây đinh sắt chết tiệt, nếu như có ở đây. Hắn gầm lên đáp lại tôi, và cả căn nhà rung chuyển, những chiếc đĩa và cốc va vào nhau kêu leng keng. Nhưng điều đó làm lộ ra chiếc cổ to lớn của hắn. Tôi phóng con dao săn của mình. Nhanh - nhanh đến mức tôi hầu như không nhìn thấy - hắn vung một tay ra, hất văng con dao đi khi đang ngoạm tới mặt tôi bằng hàm răng sắc nhọn. Tôi nhảy lùi lại, suýt nữa thì vấp phải người cha đang run rẩy. Tiên nhân đó hoàn toàn có thể giết tôi - có thể, nhưng cú lao tới vừa rồi chỉ là một lời cảnh báo. Nesta và Elain, trong nước mắt, đang cầu nguyện với bất kỳ vị thần đã bị lãng quên nào mà có thể còn đang lẩn khuất đâu đó. “AI ĐÃ GIẾT CẬU ẤY?” Sinh vật tiến lại gần chúng tôi. Hắn đặt một tay lên bàn, và chiếc bàn rên rỉ dưới sức nặng của hắn. Những móng vuốt cắm sâu vào gỗ, từng cái một, phát ra tiếng thình thịch. Tôi dám bước thêm một bước về phía trước khi con quái vật duỗi cái mõm dài qua bàn để ngửi chúng tôi. Đôi mắt của hắn màu xanh và điểm những đốm hổ phách. Không phải mắt của một con vật, không phải với hình dạng và màu sắc như vậy. Giọng tôi bất ngờ đều đặn khi tôi thử thách: “Giết ai?” Hắn gầm lên, đầm và đầy sát khí. “Con sói,” hắn nói, và trái tim tôi như chệch đi một nhịp. Tiếng gầm đã biến mất, nhưng cơn thịnh nộ vẫn còn - có lẽ thậm chí còn mang theo nỗi buồn. Tiếng hét của Elain vút lên thành tiếng rít the thé. Tôi giữ cằm ngẩng cao. “Con sói?” “Một con sói lớn với bộ lông xám,” hắn gào lại. Liệu hắn có biết tôi đang nói dối không? Tiên nhân không thể nói dối - tất cả những người phàm đều biết điều đó - nhưng liệu chúng có thể ngửi thấy những lời nói dối trên lưỡi con người không? Chúng tôi không có cơ hội để thoát khỏi chuyện này bằng cách chiến đấu, nhưng có thể sẽ có những cách khác. “Nếu nó bị giết nhầm,” tôi nói với con quái vật với giọng điệu bình tĩnh nhất có thể, “chúng tôi có thể bù đắp cho ngài bằng thứ gì?” Tất cả những chuyện này đều là một cơn ác mộng, và tôi sẽ tỉnh dậy ngay bên lửa, mệt mỏi sau một ngày ở chợ và buổi chiều cùng Isaac. Con thú gầm lên, có thể là một tiếng cười chua chát. Hắn rời khỏi bàn và đi một vòng nhỏ trước cánh cửa bị gãy. Cái lạnh dữ dội đến mức tôi run rẩy. “Sự trả giá của cô sẽ dựa trên yêu cầu theo Hiệp ước giữa các cõi của chúng ta.” “Vì một con sói?” Tôi đáp lại, và cha tôi thì thầm tên tôi như một lời cảnh báo. Tôi có những ký ức mơ hồ về việc từng đọc Hiệp ước trong những buổi học hồi thơ ấu, nhưng không nhớ có điều gì về sói cả. Con quái vật quay ngoắt lại nhìn tôi. “Ai giết con sói?” Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt màu ngọc bích ấy. “Tôi đã giết nó.” Hắn chớp mắt rồi liếc nhìn hai chị tôi, sau đó lại nhìn tôi - thấy sự gầy guộc của tôi, hẳn là chỉ thấy một kẻ yếu ớt mà thôi. “Chắc chắn cô đang nói dối để cứu họ.” “Chúng tôi không giết ai cả!” Elain khóc nức nở. “Làm ơn… làm ơn, tha cho chúng tôi!” Nesta gằng lại bằng một tiếng quát nhẹ giữa những tiếng nức nở của chính mình, nhưng vẫn đẩy Elain ra xa hơn về phía sau. Ngực tôi thắt lại khi nhìn thấy cảnh đó. Cha tôi đứng dậy, rên rỉ vì cơn đau ở chân khi cố gắng đứng vững, nhưng trước khi ông có thể khập khiễng tiến về phía tôi, tôi lặp lại: “Tôi giết nó.” Con quái vật, kẻ đang ngửi ngó chị em tôi, quay lại quan sát tôi. Tôi đứng thẳng lưng. “Tôi đã bán bộ da của nó ở chợ hôm nay. Nếu tôi biết đó là một tiên nhân, tôi đã không đụng vào.” “Dối trá,” hắn gầm lên. “Ngươi biết. Nếu biết đó là đồng loại của ta, có lẽ ngươi còn hăng máu hơn để giết nó.” Đúng, đúng, rất đúng. “Ngươi có thể trách ta sao?” “Nó có tấn công ngươi không? Ngươi có bị khiêu khích không?” Tôi há miệng định nói có, nhưng - “Không,” tôi nói, gầm gừ lại. “Nhưng xét đến tất cả những gì giống loài của ngươi đã làm với bọn ta, xét đến những gì giống loài ngươi vẫn thích làm với bọn ta, thì dù tôi có biết chắc đi nữa, nó cũng đáng phải chết.” Tốt hơn là chết với cằm ngẩng cao, còn hơn là bò rạp như một con sâu hèn mọn. Dù tiếng gầm đáp lại của hắn chính là hiện thân của cơn thịnh nộ và giận dữ. Ánh lửa chiếu sáng bộ nanh lộ ra của hắn, và tôi tự hỏi cảm giác chúng trên cổ mình sẽ như thế nào, và các chị tôi sẽ hét lên lớn đến đâu trước khi họ cũng bị giết. Nhưng tôi biết—với một sự sáng rõ đột ngột và rùng mình—rằng Nesta sẽ cố gắng câu giờ cho Elain chạy trốn. Không phải cha, người mà chị ấy căm ghét bằng cả trái tim sắt đá của mình. Cũng không phải tôi, bởi vì Nesta luôn biết và căm hận rằng tôi và chị ấy là hai mặt của cùng một đồng xu, và rằng tôi có thể tự mình chiến đấu. Nhưng Elain, người trồng hoa, với trái tim dịu dàng… Nesta sẽ chiến đấu đến cùng vì chị ấy. Chính khoảnh khắc thấu hiểu ấy khiến tôi xoay con dao còn lại về phía con thú. “Khoản đền bù mà Hiệp Ước yêu cầu là gì?” Mắt hắn không rời khỏi mặt tôi khi hắn nói, “Mạng đổi mạng. Bất kỳ cuộc tấn công không bị khiêu khích nào của loài người vào tiên nhân đều chỉ có thể được trả bằng một mạng người.” Các chị tôi im bặt tiếng khóc. Tay đánh thuê ở thị trấn đã giết một tiên nhân - nhưng nó đã tấn công cô trước. “Tôi không biết,” tôi nói. “Không biết về phần đó trong Hiệp Ước.” Faerie (Tiên nhân) không thể nói dối - và hắn đã nói một cách thẳng thắn, không vòng vo. “Hầu hết các ngươi đã chọn quên đi phần đó của Hiệp Ước,” hắn nói, “điều này khiến việc trừng phạt các ngươi thú vị hơn nhiều.” Đầu gối tôi run rẩy. Tôi không thể thoát khỏi chuyện này, không thể chạy trốn. Thậm chí không thể thử chạy, vì hắn đã chặn lối ra cửa. “Hãy làm chuyện đó ở bên ngoài,” tôi thì thầm, giọng run rẩy. “Không… ở đây.” Không phải nơi gia đình tôi sẽ phải rửa sạch máu và xác thịt của tôi. Nếu hắn thậm chí chịu để họ sống. Tên faerie bật ra một tràng cười độc ác. “Chấp nhận số phận của mình dễ dàng như vậy sao?” Khi tôi chỉ lặng im nhìn hắn, hắn nói, “Vì có gan yêu cầu ta giết ngươi, ta sẽ tiết lộ cho ngươi một bí mật, phàm nhân kia: Prythian phải đòi mạng ngươi bằng cách nào đó, để đổi lại mạng sống mà ngươi đã lấy từ nó. Vậy nên, với tư cách là đại diện cho cõi bất tử, ta có thể mổ bụng ngươi như lợn, hoặc… ngươi có thể vượt qua bức tường và sống nốt những ngày còn lại của mình ở Prythian.” Tôi chớp mắt. “Cái gì cơ” Hắn nói chậm rãi, như thể tôi thật sự ngu ngốc như một con lợn, “Ngươi có thể chết đêm nay hoặc dâng hiến mạng sống của mình cho Prythian bằng cách sống mãi trong đó, từ bỏ thế giới loài người.” “Hãy làm đi, Feyre,” cha tôi thì thầm từ phía sau. “Đi đi.” Tôi không quay lại nhìn ông khi đáp, “Sống ở đâu? Mỗi tấc đất của Prythian đều chết người đối với chúng tôi.” Thà chết đêm nay còn hơn sống trong nỗi kinh hoàng bên kia bức tường cho đến khi gặp một cái chết chắc chắn còn kinh khủng hơn. “Ta có lãnh thổ,” hắn nói khẽ - gần như miễn cưỡng. “Ta sẽ cho phép ngươi sống ở đó.” “Tại sao lại bận tâm?” Có lẽ là một câu hỏi ngu ngốc, nhưng - “Ngươi đã sát hại bạn ta,” hắn gầm gừ. “Giết và lột da câu ấy, bán nó ở chợ, rồi còn nói rằng câu ấy đáng chết, vậy mà ngươi còn dám nghi ngờ lòng hào phóng của ta sao?” Hắn dường như âm thầm thêm vào: Thật đúng là điển hình của loài người. “Ngươi đâu cần phải nhắc đến điều ấy.” Tôi bước tới gần đến mức hơi thở của hắn làm nóng mặt tôi. Tiên nhân không thể nói dối, nhưng chúng có thể giấu giếm điều gì đó. Hắn lại gầm lên. “Thật ngu ngốc khi ta quên rằng loài người các ngươi có cái nhìn thấp kém về bọn ta. Các ngươi không còn hiểu thế nào là lòng thương xót sao?” hắn nói, những chiếc nanh chỉ cách cổ tôi vài phân. “Để ta nói cho rõ, cô gái: hoặc là ngươi đến sống tại nhà ta ở Prythian - dâng hiến mạng sống mình cho con sói theo cách đó - hoặc ngươi bước ra ngoài ngay bây giờ và bị xé xác thành từng mảnh. Ngươi chọn đi.” Tiếng bước chân tập tễnh của cha tôi vang lên trước khi ông siết chặt vai tôi. “Làm ơn, thưa ngài tốt bụng—Feyre là con út của tôi. Tôi van xin ngài tha cho con bé. Nó là tất cả... là tất cả...” Nhưng những gì ông định nói chết nghẹn trong cổ họng khi con thú lại gầm lên. Thế nhưng chỉ với vài lời ngắn ngủi mà ông gắng gượng thốt ra, nỗ lực đó... như một lưỡi dao đâm thẳng vào bụng tôi. Cha tôi co rúm người lại khi nói, “Làm ơn—” “Im đi,” sinh vật kia quát, và cơn thịnh nộ bùng lên trong tôi, nóng rát đến mức phải cố lắm tôi mới không lao tới đâm con dao găm vào mắt hắn. Nhưng chỉ cần tôi nâng tay lên, tôi biết hắn sẽ lập tức ngoạm lấy cổ tôi. “Tôi có thể lấy vàng—” cha tôi nói, và cơn giận của tôi tắt ngấm. Cách duy nhất để ông có được tiền là đi ăn xin. Ngay cả khi đó, ông cũng may mắn lắm mới xin được vài đồng xu. Tôi đã thấy những kẻ giàu có trong làng tàn nhẫn như thế nào. Những con quái vật trong thế giới loài người của chúng tôi cũng tàn bạo chẳng kém gì bọn bên kia bức tường. Con thú khinh miệt. “Mạng sống của con gái ông đáng giá bao nhiêu? Ông nghĩ nó có thể đổi bằng một khoản tiền sao?” Nesta vẫn đang che chắn cho Elain sau lưng mình, khuôn mặt Elain tái nhợt như lớp tuyết đang trôi vào từ cánh cửa mở toang. Nhưng Nesta dõi theo từng cử động của con thú, đôi mày nhíu chặt. Chị không thèm liếc nhìn cha tôi—như thể chị đã biết trước câu trả lời. Khi cha tôi không đáp lại, tôi liều lĩnh tiến thêm một bước về phía con thú, thu hút sự chú ý của nó về phía mình. Tôi phải dụ hắn ra ngoài—phải lôi hắn tránh xa gia đình tôi. Với cách hắn dễ dàng gạt văng con dao của tôi, mọi hy vọng trốn thoát chỉ có thể trông vào việc lén tấn công hắn. Với thính lực của hắn, tôi nghi ngờ mình có cơ hội, ít nhất là cho đến khi hắn tin rằng tôi đã ngoan ngoãn. Nếu tôi cố tấn công hoặc chạy trốn trước lúc đó, hắn sẽ tàn sát gia đình tôi chỉ để thỏa mãn. Rồi hắn sẽ tìm thấy tôi lần nữa. Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đi theo hắn. Và rồi, sau này, tôi có thể tìm cơ hội để cứa cổ con thú. Hoặc ít nhất là làm hắn bị thương đủ lâu để trốn thoát. Chừng nào lũ tiên nhân chưa tìm thấy tôi lần nữa, chúng sẽ không thể buộc tôi phải tuân theo Hiệp ước. Cho dù điều đó khiến tôi trở thành một kẻ phản bội bị nguyền rủa. Nhưng nếu đi theo hắn, tôi sẽ phá vỡ lời hứa quan trọng nhất mà tôi từng thề. Chắc chắn nó còn lớn hơn một bản hiệp ước cổ xưa mà tôi thậm chí chưa từng ký. Tôi nới lỏng tay khỏi chuôi con dao còn lại và nhìn thẳng vào đôi mắt xanh lục ấy một lúc lâu, im lặng, trước khi nói, “Bao giờ chúng ta đi?” Những đường nét chó sói kia vẫn dữ tợn—hung tàn. Mọi hy vọng cuối cùng về việc chống cự tan biến khi hắn bước về phía cửa—không, về phía ống tên mà tôi đã để lại sau cánh cửa. Hắn rút ra mũi tên tẩm tro, ngửi rồi gầm gừ với nó. Chỉ với hai động tác, hắn bẻ đôi nó và ném vào ngọn lửa phía sau lưng các chị tôi trước khi quay lại phía tôi. Tôi có thể ngửi thấy mùi diệt vong phả ra từ hơi thở của hắn khi hắn nói, “Ngay bây giờ.” Ngay bây giờ. Ngay cả Elain cũng ngẩng đầu lên, nhìn tôi với ánh mắt kinh hoàng câm lặng. Nhưng tôi không thể nhìn chị ấy, cũng không thể nhìn Nesta — không khi họ vẫn còn co rúm ở đó, lặng thinh. Tôi quay sang cha mình. Đôi mắt ông ánh lên vẻ lấp lánh, nên tôi liếc nhanh về phía vài cái tủ cũ kỹ trong nhà, nơi có những bông thủy tiên vàng đã phai màu uốn lượn quanh tay cầm. Ngay bây giờ. Con quái thú đi qua đi lại trước ngưỡng cửa. Tôi không muốn nghĩ đến nơi mình sẽ bị đưa tới, hay những gì hắn sẽ làm với mình. Chạy trốn lúc này sẽ là hành động ngu ngốc — cho đến khi thời cơ thực sự chín muồi. “Chỗ thịt nai sẽ đủ cho cha dùng trong hai tuần,” tôi nói với cha khi gom góp quần áo để mặc thêm chống lạnh. “Hãy ăn thịt tươi trước, rồi mới đến thịt khô — cha biết cách bảo quản rồi mà.” “Feyre—” cha tôi thì thào, nhưng tôi tiếp tục, vừa cài chặt áo choàng. “Con đã để tiền bán da thú trên bàn trang điểm,” tôi nói. “Nếu chi tiêu cẩn thận, số tiền đó sẽ cầm cự được một thời gian.” Cuối cùng tôi cũng nhìn cha lần nữa, cho phép mình khắc sâu những đường nét trên gương mặt ông vào ký ức. Mắt tôi cay xè, nhưng tôi chớp nhanh để ngăn giọt nước mắt trào ra, rồi nhét tay vào đôi găng cũ sờn. “Khi mùa xuân đến, hãy đi săn ở khu rừng bên phía nam khúc ngoặt lớn của suối Silverspring — thỏ thường làm ổ ở đó. Hãy… hãy nhờ Isaac Hale chỉ cho cha cách đặt bẫy. Năm ngoái con đã dạy cậu ta rồi.” Cha tôi gật đầu, đưa tay che miệng như muốn giữ lại nỗi đau. Con thú gầm gừ ra lệnh và lao ra ngoài đêm tối. Tôi cũng định bước theo hắn, nhưng dừng lại để nhìn hai chị em mình, vẫn đang co rúm bên bếp lửa, như thể không dám cử động cho đến khi tôi rời khỏi. Elain mấp máy miệng gọi tên tôi nhưng vẫn run rẩy, đầu cúi gằm. Vì thế tôi quay sang Nesta, gương mặt chị lạnh lùng, cứng rắn, giống mẹ đến kỳ lạ. “Dù có chuyện gì xảy ra,” tôi thì thầm, “đừng lấy Tomas Mandray. Cha hắn đánh vợ, và chẳng đứa con trai nào làm gì để ngăn cản.” Đôi mắt Nesta mở to, nhưng tôi nói thêm: “Vết bầm còn khó giấu hơn cái đói nghèo.” Nesta cứng đờ lại nhưng không nói lời nào — cả hai chị em tôi đều không thốt nên lời khi tôi xoay người bước ra cửa. Nhưng một bàn tay níu lấy tay tôi, kéo tôi dừng lại. Tôi quay lại và đối diện với cha. Ông mở miệng định nói rồi lại ngậm lại, những lời định thốt ra chết nghẹn nơi cổ. Ngoài kia, con quái thú cảm nhận được tôi bị giữ lại, liền gầm gừ giận dữ vào trong ngôi nhà. “Feyre,” cha tôi cất tiếng gọi. Những ngón tay ông run rẩy khi nắm lấy bàn tay đeo găng của tôi, nhưng đôi mắt ông thì trở nên sáng rõ và kiên định hơn bất cứ lúc nào trong nhiều năm qua. “Con luôn quá tốt cho nơi này, Feyre. Quá tốt cho chúng ta, quá tốt cho tất cả mọi người.” Ông siết chặt tay tôi. “Nếu có ngày con trốn thoát, nếu con thuyết phục được bọn chúng rằng con đã trả xong món nợ... đừng quay về.” Tôi đã không mong chờ một lời từ biệt thắt lòng, nhưng cũng không hề tưởng tượng nó sẽ như thế này. “Đừng bao giờ quay lại,” cha tôi nói, buông tay tôi ra để nắm lấy vai tôi mà lắc nhẹ. “Feyre.” Ông nghẹn ngào gọi tên tôi, cổ họng chuyển động liên hồi. “Con hãy đến một nơi khác — và tự tạo dựng tên tuổi cho mình.” Ở phía xa, con quái thú chỉ còn là một cái bóng mờ trong màn đêm. Một mạng đổi một mạng — nhưng nếu mạng sống đem ra trả giá đồng nghĩa với việc mất đi ba người khác thì sao? Chỉ ý nghĩ đó thôi cũng đủ để khiến tôi cứng cáp lại, vững vàng hơn. Tôi chưa bao giờ kể với cha về lời hứa tôi đã thề với mẹ, và giờ đây cũng chẳng còn lý do nào để giải thích. Vậy nên tôi gạt tay cha ra và bước đi. Tôi để tiếng tuyết kêu xào xạc dưới chân xóa tan những lời của cha khi tôi theo bước con thú, tiến vào khu rừng chìm trong bóng tối.
Dịch: sanshiro CHƯƠNG 5 Hình minh họa Mỗi bước tiến về phía rừng cây đều quá nhanh, quá nhẹ, quá vội vã đưa tôi đến bất kỳ nỗi đau đớn và khổ sở nào đang chờ đợi. Tôi không dám ngoảnh lại nhìn ngôi nhà nhỏ phía sau. Chúng tôi bước vào rừng cây. Bóng tối vẫy gọi phía trước. Nhưng một con ngựa cái trắng đang kiên nhẫn chờ đợi—không bị xích—bên cạnh một gốc cây, bộ lông của nó như tuyết tươi dưới ánh trăng. Nó chỉ cúi đầu—như thể để tỏ lòng tôn kính—khi con quái vật lừ lừ tiến đến gần. Hắn vẫy bàn tay khổng lồ ra hiệu cho tôi leo lên ngựa. Con ngựa vẫn bình tĩnh, ngay cả khi hắn đi sát đến mức có thể xé bụng nó chỉ bằng một cú vung tay. Đã nhiều năm rồi tôi không cưỡi ngựa, và trước giờ chỉ cưỡi ngựa nhỏ, nhưng tôi cảm nhận hơi ấm của con ngựa xoa dịu cơ thể đã tê cóng của mình khi tôi trèo lên yên và nó bắt đầu bước đi. Không có ánh sáng dẫn đường, tôi để nó đi theo con quái vật. Chúng gần như cùng kích thước. Tôi không ngạc nhiên khi chúng tôi hướng về phía bắc—về lãnh thổ của tiên—dù bụng tôi thắt lại đau đớn. Đọc tiếp Chương 5 Sống với hắn. Tôi có thể sống phần đời còn lại của một kẻ phàm trần trên lãnh địa của hắn. Có lẽ đây là lòng thương xót—nhưng rồi, hắn đã không nói rõ tôi sẽ sống theo cách nào. Hiệp Ước cấm tiên nhân bắt chúng tôi làm nô lệ, nhưng - có lẽ ngoại trừ những kẻ giết tiên. Chúng tôi có lẽ sẽ đi đến khe hở nào đó trên bức tường mà hắn đã dùng để đến đây, để bắt tôi. Và một khi chúng tôi vượt qua bức tường vô hình, một khi đã ở Prythian, gia đình tôi sẽ không bao giờ tìm được tôi nữa. Tôi sẽ chẳng khác nào một con cừu non giữa vương quốc của lũ sói. Sói - một con sói. Giết một tiên nhân. Đó là điều tôi đã làm. Cổ họng tôi khô lại. Tôi đã giết một tiên nhân. Tôi không thể cảm thấy hối hận. Không khi gia đình tôi bị bỏ lại phía sau, chắc chắn sẽ chết đói; không khi nó đồng nghĩa với một sinh vật độc ác, ghê tởm sẽ ít đi trên đời. Con quái vật đã đốt mũi tên gỗ sồi của tôi - vì vậy tôi sẽ phải trông chờ vào may mắn để có được một mảnh gỗ đó lần nữa, nếu muốn có cơ hội giết hắn. Hoặc làm hắn chậm lại. Kiến thức về điểm yếu đó, về việc chúng dễ bị tổn thương bởi gỗ sồi, là lý do duy nhất chúng tôi từng sống sót trước vị High Fae trong cuộc nổi dậy cổ xưa, một bí mật bị phản bội bởi chính một kẻ trong số chúng. Máu tôi lạnh hơn nữa khi vô vọng tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu nào của thân cây mảnh khảnh và tán lá xum xuê mà tôi biết là cây sồi. Tôi chưa bao giờ thấy khu rừng tĩnh lặng đến thế. Bất cứ thứ gì ngoài kia cũng phải hiền lành hơn con quái vật bên cạnh tôi, dù con ngựa tỏ ra bình thản trước hắn. Hy vọng rằng hắn sẽ ngăn những tên tiên khác lại sau khi chúng tôi bước vào lãnh địa của hắn. Prythian. Cái tên ấy như hồi chuông báo tử vang vọng trong tôi hết lần này đến lần khác. Lãnh địa—hắn nói hắn có đất đai, nhưng nơi ở của hắn là kiểu gì? Con ngựa của tôi đẹp đẽ và yên cưỡi được làm từ da thuộc cao cấp, nghĩa là hắn có tiếp xúc với cuộc sống văn minh. Tôi chưa bao giờ nghe chi tiết về cuộc sống của tiên nhân hay High Fae—chỉ nghe về khả năng và sự tàn độc chết người của chúng. Tôi siết chặt dây cương để đôi tay khỏi run. Có rất ít ghi chép tận mắt về Prythian. Những phàm nhân vượt qua bức tường—dù tự nguyện làm vật cống nạp từ Những Đứa Con Được Ban Phước hay bị bắt cóc—đều không bao giờ trở về. Tôi biết hầu hết truyền thuyết từ dân làng, dù thỉnh thoảng cha tôi cũng kể vài câu chuyện nhẹ nhàng hơn vào những đêm ông cố nhớ rằng chúng tôi tồn tại. Theo như chúng tôi biết, High Fae vẫn cai trị phần phía bắc thế giới—từ hòn đảo khổng lồ của chúng tôi băng qua vùng biển hẹp ngăn cách lục địa mênh mông, xuyên qua những vịnh hẹp sâu thẳm, vùng hoang mạc băng giá và sa mạc cát bỏng, cho đến tận đại dương bao la bên kia. Một số lãnh thổ tiên là đế chế; một số bị cai trị bởi vua và nữ hoàng. Rồi có những nơi như Prythian, bị chia cắt và cai trị bởi bảy Vị Chúa Tối Cao—những sinh vật với sức mạnh kinh hồn đến mức truyền thuyết kể rằng họ có thể san phẳng tòa nhà, nghiền nát cả đội quân, và xé xác bạn trước khi bạn kịp chớp mắt. Tôi không nghi ngờ gì về điều đó. Không ai từng nói với tôi tại sao con người lại chọn ở lại lãnh thổ của mình, khi chúng tôi được ban cho quá ít đất đai và sống quá gần Prythian. Những kẻ ngốc—bất cứ người nào ở lại sau cuộc Chiến Tranh hẳn phải là những kẻ muốn tự sát khi sống gần đến thế. Dù có Hiệp Ước trăm năm giữa thế giới phàm trần và tiên giới, vẫn có những khe hở trên bức tường phòng thủ ngăn cách lãnh thổ, đủ lớn để những sinh vật chết người đó lẻn vào lãnh địa của chúng tôi và giải trí bằng cách hành hạ chúng tôi. Đó là mặt tối của Prythian mà Những Đứa Con Được Ban Phước chẳng bao giờ thèm thừa nhận—có lẽ cũng là mặt tối mà tôi sắp chứng kiến. Dạ dày tôi quay cuồng. Sống với hắn, tôi nhắc nhở bản thân, lần này đến lần khác. Sống, không phải chết. Dù tôi cũng đoán mình có thể sống trong một hầm ngục. Hắn sẽ nhốt tôi lại và quên bẵng sự tồn tại của tôi, quên rằng con người cần những thứ như thức ăn, nước uống và hơi ấm. Đi trước dò đường, những chiếc sừng của con quái vật xoắn ốc vươn lên bầu trời đêm, hơi thở nóng hổi cuộn ra từ mõm. Chúng tôi sẽ phải dừng chân nghỉ ngơi; biên giới Prythian còn cách nhiều ngày đường. Một khi dừng lại, tôi sẽ thức suốt đêm và không để hắn ra khỏi tầm mắt. Dù hắn đã đốt mũi tên sồi của tôi, tôi vẫn giấu con dao còn lại trong áo choàng. Có lẽ đêm nay sẽ cho tôi cơ hội sử dụng nó. Nhưng tôi không chỉ nghĩ về số phận mình khi để bản thân chìm vào nỗi kinh hoàng, phẫn nộ và tuyệt vọng. Trong khi chúng tôi tiếp tục di chuyển—âm thanh duy nhất là tiếng tuyết vỡ dưới móng vuốt và móng ngựa—tôi luân phiên giữa cảm giác tự mãn đáng khinh khi nghĩ về việc gia đình mình sẽ chết đói và nhận ra tôi quan trọng thế nào, với nỗi đau xé lòng khi tưởng tượng cảnh cha tôi ăn xin trên phố, cái chân tàn tật của ông không chịu nổi khi ông lảo đảo đi từ người này sang người khác. Mỗi lần nhìn con quái vật, tôi lại thấy hình ảnh cha mình khập khiễng qua thị trấn, van xin đồng xu để nuôi các chị tôi. Tệ hơn—những gì Nesta có thể làm để giữ Elain sống. Chị ấy sẽ không bận tâm nếu cha tôi chết. Nhưng chị ấy sẽ nói dối, ăn trộm và bán bất cứ thứ gì vì Elain—và cả bản thân chị ấy nữa. Tôi quan sát cách con quái vật di chuyển, cố tìm ra bất kỳ điểm yếu nào. Tôi không thể phát hiện gì. "Ngươi là loại tiên gì?" Tôi hỏi, những lời gần như bị tuyết, cây cối và bầu trời đầy sao nuốt chửng. Hắn không thèm quay lại. Hắn cũng chẳng thèm nói gì. Cũng phải thôi. Dù sao tôi đã giết bạn hắn. Tôi thử lần nữa. "Ngươi có tên không?" Hoặc bất cứ thứ gì để nguyền rủa hắn. Một tiếng thở phì có thể là một nụ cười chua chát. "Điều đó có quan trọng với ngươi không, con người?" Tôi không trả lời. Hắn có thể dễ dàng thay đổi ý định về việc tha mạng tôi. Nhưng có lẽ tôi sẽ trốn thoát trước khi hắn quyết định mổ bụng tôi. Tôi sẽ đưa gia đình mình lên tàu và đi thật xa. Có lẽ tôi sẽ thử giết hắn, bất chấp sự vô ích, bất kể đó có phải là một cuộc tấn công vô cớ nữa hay không, chỉ vì hắn là kẻ đến đòi mạng tôi—mạng tôi, khi lũ tiên này coi rẻ mạng chúng tôi đến thế. Tay đánh thuê đã sống sót; có lẽ tôi cũng vậy. Có lẽ thế. Tôi mở miệng định hỏi tên hắn lần nữa, nhưng một tiếng gầm gừ khó chịu thoát ra từ hắn. Tôi không kịp giãy giụa, chống cự, khi một mùi kim loại nồng đặc xộc vào mũi. Sự kiệt sức ập xuống và bóng tối nuốt chửng tôi. Tôi tỉnh dậy giật mình trên lưng ngựa, bị trói bằng thứ gì đó vô hình. Mặt trời đã lên cao. Ma thuật—đó là thứ mùi nồng ấy, thứ đang giữ chặt chân tay tôi, ngăn tôi với lấy con dao. Tôi nhận ra sức mạnh ấy từ tận xương tủy, từ nỗi khiếp sợ tập thể của loài người. Nó đã khiến tôi bất tỉnh bao lâu? Hắn đã giữ tôi trong cơn mê bao lâu, chỉ để không phải nói chuyện với tôi? Nghiến răng, tôi có thể đã đòi hắn trả lời—có thể đã hét vào lưng hắn đang lầm lũi phía trước, bất chấp tôi. Nhưng rồi tiếng chim hót lướt qua tai, và làn gió nhẹ hôn lên mặt tôi. Tôi nhìn thấy một cánh cổng kim loại có hàng rào phía trước. Nhà tù hay sự cứu rỗi của tôi—tôi không thể quyết định được. Hai ngày—mất hai ngày từ ngôi nhà nhỏ của tôi để đến bức tường và vào biên giới phía nam của Prythian. Tôi đã bị giam trong giấc ngủ phép suốt ngần ấy thời gian sao? Đồ khốn! Cánh cổng mở ra không cần người gác, và con quái vật tiếp tục đi qua. Dù tôi có muốn hay không, con ngựa của tôi vẫn theo sau hắn.